Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật, Pháp và Tăng

09 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 30828)
Phật, Pháp và Tăng
PHẬT, PHÁP VÀ TĂNG
Dzigar Kongtrul Rinpoche
Dịch Việt: Nhóm Thuận Duyên

phatphaptang-thuanduyen1. PHẬT

Đức Phật – bậc dẫn đường chân chính

Trong các Kinh điển, Đức Phật nói rằng chúng ta cần xem bản thân là người bệnh, và Đức Phậtbác sĩ, và giáo lý là thuốc. Quan hệ của chúng ta với Đức Phật giống như một người bệnh với bác sĩ. Như khi chúng ta theo một chế độ ăn kiêng và uống thuốc theo đơn của bác sĩ, chúng ta nên theo những chỉ dẫn của Phật và áp dụng các giáo lý này. Bằng cách uống thuốc, chúng ta sẽ thu được cả những lợi ích tạm thời và dài hạn.

Căn bệnh mà chúng ta mắc phải là sự ngu dốt, những cảm xúc phiền não, nhận thức sai lệch và khổ đau. Bởi vì Đức Phật đã thoát khỏi mọi căn bệnh như thế, ngài thực sự là người chỉ dẫn đáng tin cậy.

Như trong các Kinh điển có nói, làm sao người ta, những kẻ trong hoàn cảnh khó khăn như chúng ta có thể giúp chúng ta thoát khỏi bãi cát lún? Giống như vậy, những người, không thể tự thoát khỏi vòng luân hồi không thể giải thoát chúng ta khỏi vòng luân hồi. Bởi thế, Đức Phật là người dẫn đường chân chính, và giáo lý là thứ thuốc hữu hiệu.

Sự giác ngộ của Phật

Quan điểm Tiểu thừa

Theo quan điểm Tiểu thừa, Phật Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh giácBồ Đề Đạo Tràng bằng cách chinh phục mọi che chướng cảm xúcnhận thức. Trong tiếng Tạng, một bậc giác ngộsangye. Sang nghĩa là tịnh hóa các cảm xúc phiền não (nyondrip) và che chướng nhận thức (shedrip). Gye nghĩa là sự tỉnh thức của trạng thái tràn đầy những phẩm tánh hoàn hảo của giác ngộ. Trạng thái tỉnh thức của Phật thoát khỏi mọi che chướng và sở hữu các phẩm tánh hoàn hảo của kiến thức, tâm từ, lòng bi mẫntrí tuệ.

Quan điểm Tiểu thừa nhìn nhận Phật Thích Ca Mâu Ni là một chúng sinh bình thường. Dĩ nhiên, phải công nhận rằng chúng sinh bình thường này rất phi thường, nhưng từ quan điểm này, ngài sở hữu những uẩn bình phàm.

Quan điểm Đại thừa

Theo Đại thừa, Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ trong cõi Akanishtha, cõi trời cao nhất – một cõi Phật, không thể nhìn thấy bởi người thường.

Với lòng từ bi, vì lợi ích của người khác, ngài tái sinh trong cõi người và “giả vờ” trải qua toàn bộ quá trình của “mười hai hành động[1],” bao gồm cả hành động giác ngộ dưới tán Bồ đề. Bởi Phật đã hoàn toàn giác ngộ, ngài thoát khỏi mọi trải nghiệm của luân hồi bởi vì ngài không bị trói buộc bởi các uẩn thông thường. Ngài chỉ hiển bày các uẩn này để chúng sinh bình phàm có thể nhận thấy và đưa ra một tấm gương về con đường giác ngộ.

Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục. Ngài đang kéo chiếc xe bò với một người khác, và cả hai đều bị tra tấn dữ dội. Phật nghĩ rằng, “Tại sao tôi không nhận lấy tất cả nghiệp này, tại sao không trở thành đối tượng dày vò và giải thoát cho người kia?” Ngài bảo các vị yama[2], những kẻ đang tra tấn ngài, hãy để điều này xảy ra. Nhưng họ nói, “Mọi người đều có nghiệp riêng! Ông không thể giải thoát bất kỳ ai khỏi nghiệp riêng của họ,” và đánh vào đầu ngài bằng cái búa sắt. Phật chết, nhưng bởi vì nghiệp quả tốt lànhước nguyện của ngài tạo ra, ngài ngay lập tức được giải phóng khỏi cõi địa ngục đó.

Ngài đã giác ngộ ở Akanishtha; sau đó ngài ở Tushita, một cõi Phật nơi mà Phật Vị lai, ngài Di Lặc hiện tại an trụ. Khi thời gian chín muồi, và mọi người thích hợp để một vị Phật tái sinh trong thế giới này, ngài được thụ thai trong tử cung người mẹ.

Sự xuất hiện của Phật trong thế giới này

Nếu chư Phật đã làm cạn kiệt mọi nguyên nhânđiều kiện của luân hồi và sự xuất hiện trong luân hồi cũng như hoàn toàn chứng ngộ chân lý tuyệt đối của tánh không, làm sao và tại sao các ngài thị hiện trong thế giới này?

Điều này xảy ra nhờ hai khẩn nguyện; khẩn nguyện của hữu tình chúng sinh có kết nối với chư Phật và đánh thức khỏi trạng thái ngu dốt như mơ của tâm, và khẩn nguyện của chư Phật làm lợi lạc chúng sinhđánh thức họ khỏi trạng thái huyễn hoặc như mơ đó. Khi khẩn nguyện của hữu tình chúng sinh và của chư Phật gặp nhau, chư Phật xuất hiện trên thế giới.

Sự xuất hiện của các ngài giống như trăng trên trời, được phản chiếu rõ ràngtự nhiên trên nhiều ao hồ bên dưới. Nhưng điều này không ám chỉ rằng Đức Phật tự mình “hạ xuống” từ hư không, hay có một vị Phật “xuống đây” và một vị khác “ở trên kia,” cũng không phải có nhiều vị Phật khắp mọi nơi.

Một nghìn vị Phật

Trong thời đại đặc biệt này, một nghìn vị Phật sẽ xuất hiện. Theo các miêu tả truyền thống, tất cả những gì chúng ta thấy từng là chân không hay hư không. Sau đó gió và mưa bão nổi lên, tạo thành yếu tố đất. Mưa tiếp tục, và một nghìn bông sen nở. Các vị trời nam và nữ thấy sự kiện này và tự hỏi nó tượng trưng cho điều gì. Các vị trời tuổi cao, uyên bác có thể nhìn thấy tương lai nhờ sức mạnh của thiền định, đã nói rằng đó là dấu hiệu trong thời đại này sẽ có một nghìn vị Phật. Bởi thế, nó được gọi là kalpa zangpo, “thời đại xuất sắc.”

Cho đến nay, chúng ta đã có bốn vị Phật. Trong mỗi thời của bốn vị Phật này, rất nhiều vị Phật khác đã xuất hiện và làm lợi lạc chúng sinh. Nhưng có một vị tối cao trong mỗi thời, bậc đảm bảo rằng mọi giáo lý của thời đại đặc biệt đó sẽ hòa hợp với lời dạy của vị Phật đó. Vị Phật tối cao của hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni, tuy nhiên có rất nhiều các vị Phật khác đã đến thế giới này và làm lợi lạc chúng sinh. Ví dụ, Đức Văn Thù, Đức Quan Âm và Đức Kim Cương Thủ đều là các vị Phật, nhưng các ngài thị hiện dưới hình tướng chư Bồ Tát. Guru Rinpoche cũng là một hóa thân của Đức Phật.

Các vị Phật tối cao này đều đến với mười hai hành động của một vị Phật, đạt giác ngộthuyết Pháp. Trong trường hợp của Phật Thích Ca, ngài sinh ra là một vị hoàng tử, nhưng các vị Phật không nhất thiết phải sinh ra làm hoàng tử như vậy.

Hai trí tuệ

Điều quan trọng là biết rằng Phật có hai kiểu trí tuệ [jnana]: trí tuệ nhìn thấy bản chất của mọi thứ như chúng là, và trí tuệ nhìn thấy tính đa dạng của mọi hiện tượng.

Thứ mà Phật nhìn thấy từ quan điểm hay trải nghiệm giác ngộ của ngài được gọi là rang nang trong tiếng Tạng. Nhận thức của chúng sinh khác được gọi là shyen nang. Bởi thời gian là trống rỗng, rang nangshyen nang có thể xuất hiện cùng lúc. Trí tuệ của việc nhận thấy mọi thứ bao gồm của nhận thức giác ngộ về mọi thứ rang nang, và nhận thức của chúng sinh, shyen nang. Nếu không phải như vậy, thì chư Phật sẽ không thể thuyết giảng.

Chư Phật thuyết giảng ra sao

Một hình ảnh có thể giúp chúng ta hiểu cách thức mà chư Phật thuyết giảng là hãy tưởng tượng hai người trong một căn phòng: một người thức và người kia thì ngủ, và gặp phải ác mộng. Người thức – Phật – có thể nhận ra rằng người kia đang gặp ác mộng. Điều này không chỉ được hiểu qua sự suy luận mà còn qua nhận thức trực tiếp về cơn ác mộng của người đó.

Mặc dù người thức có thể nhận thấy cơn ác mộng của người kia một cách trực tiếp, trải nghiệm của người mơ đó không trở thành sự thật của người thức. Bởi vậy người đang thức có thể chậm rãi đánh thức người kia khỏi giấc mộng. Nhờ đó, anh ta có thể kéo người kia khỏi giấc mơ và trở về thực tại, đó là sự không tồn tại của mọi cơn ác mộng. Đó là cách mà chư Phật dạy hữu tình chúng sinh.

Khi bạn tỉnh dậy trong một giấc mơ, giấc mơ có thể tiếp tục, nhưng mối quan hệ của bạn với nó đã thay đổi. Đó là con đường của chư Bồ Tát, đặc biệt là trong giai đoạn sau thiền định. Khi bạn hoàn toàn tỉnh dậy khỏi giấc mơ, đó là Phật quả. Bạn tỉnh thức với các trải nghiệm hoàn toàn về sự thực và sự xuất hiện; nó không đúng khi nói rằng mọi hình tướng đơn giản biến mất ở điểm này.

Ba thân của chư Phật

Bản chất của sự thật được gọi là Pháp thân, và các hình tướngSắc thân. Một vị Phật hòa hợp với Pháp thân trong khi xuất hiện như là Sắc thân.

Pháp thân

Trong trạng thái tuyệt đối của niết bàn, trong Pháp thân, không có nhận thức và không có hình tướng. Nhưng điều này không có nghĩa là Pháp thân là rắn chắc và cách biệt, hay một hư không hoàn toàn tách biệt khỏi các hoạt động của chư Phật hay các hình tướng của Phật quả, tức là hai hình tướng của Sắc thânBáo thânHóa thân.

Báo thân

Các hình tướng Báo thân khởi lên từ Pháp thân, thứ như hư không tràn khắp, xuất hiện chủ yếu với chư Bồ Tát, những bậc trên con đường giác ngộ. Các Báo thân khởi lên thông qua duyên khởi như là kết quả của nghiệp và sự rộng mở của chư Bồ Tát, và sức mạnh của chư Phật hiển bày từ Pháp thân. Các hình tướng Báo thân không thể tiếp cận bởi chúng sinh bình phàm.

Báo thân Phật làm lợi lạc cho chư Bồ Tát, những bậc ít nhất đạt đến địa thứ nhất. Những vị Bồ Tát này có thể nhìn thấy và thọ nhận giáo lý từ Báo thân Phật. Cách thức các ngài thọ nhận giáo lý không giống như cách chúng ta nhận, thường là khẩu truyền. Ví dụ, các vị Bồ Tát đơn giản có thể nhìn vào thân của Báo thân Phậtnhận ra các che chướng của bản thân và cách để tịnh hóa chúng một cách rõ ràng.

 Hóa thân

Từ quan điểm Tiểu thừa, Phật được nhìn nhận như một chúng sinh bình thường, và chúng sinh bình thường coi Phật là Hóa thân Phật. Từ quan điểm Đại thừa, Phật Thích Ca Mâu NiHóa thân Phật, người, như là cái bóng của Báo thân Phật, giáng sinh như một bậc toàn giác từ cõi trời Tushita. Hóa thân Phật giống như những cái bóng của Báo thân Phật, như mặt trăng phản chiếu hình bóng xuống ao.

Mặc dù chư Phật xuất hiện, sự xuất hiện của các ngài không phải sự xuất hiện của chân lý tương đối bình thường, ảo mộng, sản phẩm của tâm quan niệm và các lỗi lầm. Các ngài xuất hiện một cách độc lập, nhưng sự xuất hiện này thanh tịnh chứ không có lỗi lầm. Bởi thế, những phẩm tánh vô song của chư Phật được gọi là zakme kyi cho trong tiếng Tạng, nghĩa là “các phẩm tánh không lỗi lầm.”

Pháp thânsức mạnh làm khởi lên vô số các phẩm tánh không lỗi lầm. Mặc dù Hóa thân Phật Thích Ca Mâu Ni trải qua đủ mười hai hành động của một vị Phật, từ cõi trời Tushita đến khi nhập Niết Bàn, từ quan điểm Pháp thân của chư Phật, không hề có sự di chuyển hay thay đổi nào.

Mục đích đằng sau việc chư Phật đến thế giới này là để chỉ ra con đường giác ngộ. Đức Phật trải qua, theo cách hoàn hảo nhất, đủ mọi giai đoạn của con đườngchúng ta phải đi. Để chỉ ra sự từ bỏ, Phật rời bỏ cung điện và từ bỏ mọi hài lòng như thể chúng bị nhổ vào bụi. Ngài đi vào rừng, điều này giải thích tầm quan trọng của sự từ bỏ các mối bận tâm, thứ thực ra tạo nên khổ đau và trói buộc.

Những phẩm tánh của Phật như một vị thầy[3]

Các phẩm tánh như một vị thầy của Phật là rất rõ ràng. Ngài sở hữu cả hai kiểu trí tuệ, mười sức mạnh, bốn trạng thái vô úy[4], mười tám đặc điểm phân biệt của trạng thái tâm của Phật, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp.

Tám phẩm tánh của giác ngộ

Như trong Uttaratantra shastra có nói, trong tất cả, Phật là tối thượng. Trạng thái Phật quả, hay giác ngộ hoàn toàn vô song, thoát khỏi mọi lỗi lầm, và hoàn toàn đáng tin cậy.

Tâm giác ngộ có ba phẩm tánh, làm lợi lạc chính bậc giác ngộ. Nó không giả tạo, tự nhiên và tự tỉnh thức, nghĩa là tâm của Phật không chứng ngộ do kết quả của các điều kiện bên ngoài.

Ba phẩm tánh của chư Phật làm lợi lạc người khác là trí tuệ vĩ đại; tâm từ lớn lao, sự chu đáo và từ bisức mạnh làm lợi lạc vĩ đại.

Phẩm tánh làm lợi lạc bản thân và phẩm tánh làm lợi lạc người khác, khi được thêm vào ba phẩm tánh được liệt kê trong hai loại trên, tạo thành cái đôi khi được gọi là tám khía cạnh của giác ngộ.

2. PHÁP

Các ý nghĩa của từ “Dharma

Từ “Dharma” trong tiếng Phạn có rất nhiều ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, nó có thể liên quan đến kiến thức, con đường, niết bàn, hiện tượng, đối tượng của việc suy nghĩ, công đức, cuộc đời và tương lai. Ở đây Pháp liên quan đến Chánh Pháp [hay Pháp cao quý], những giáo lý của chư Phật.

Vậy Pháp cao quý là gì? Nó là điều mà các bậc giác ngộ nhìn nhận trực tiếp, là bản tánh chân thực của sự thật, và là điều mà chư Phật giảng cho người khác cho người khác như là con đường. Bởi thế, Pháp là con đường chân chính dẫn chúng ta thoát khỏi khổ đau của luân hồivòng sinh tử.

Pháp nhưcon đường

Một vài giáo lý chỉ thích hợp cho một vùng hay thời điểm đặc biệt, và khi thời điểm đặc biệt đó trôi qua, sẽ không còn hữu ích nữa. Nhưng giáo lý của chư Phật phục vụ con người liên tục xuyên suốt lịch sử và sẽ tiếp tục như vậy. Nguyên nhân của điều này là bởi chúng đề cập đến tâm bên trong của chúng ta.

Ở Lerab Gar, tháng 9 năm 2000, Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói rằng mọi phát triển khoa học và công nghệ với ý định tạo ra một thế giới tốt hơn chỉ đóng góp cho các nhận thức về giác quan, trong khi điều duy nhất giúp đỡ thức nội tại là trí tuệ. Nếu nó không cung cấp cách thức đối phó với các vô minh che lấp trí tuệ bẩm sinh, thì dù khoa học và công nghệ có phát triển thế nào, nó cũng không tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn. Dĩ nhiên, khoa học và công nghệ sẽ tạo ra vài ảnh hưởng tích cực, nhưng chúng sinh vẫn chịu nhiều khổ đau.

Đặc biệt trong thế kỷ 20 và 21, người ta nhận thấy điều này rõ ràng hơn bất kỳ thời đại nào khác trong lịch sử loài người. Khi bạn xem tivi, những người nổi tiếng hay các ngôi sao dường như hài lòng về vật chất, nhưng họ vẫn thất vọng; họ vẫn rất tệ.

Bởi vậy món quà lớn lao là được thọ nhận giáo lý Phật Đà trong cuộc đời này, cơ hội lớn lao khi có phương tiện để giải quyết vấn đề tâm, và đặc biệt là cái tôi và các vấn đề đi kèm. Thật tuyệt vời khi trí tuệphương tiện thiện xảo được trao truyền không gián đoạn từ thời Đức Phật, khoảng 2500 năm trước. Bởi thế, rất nhiều người đã chứng ngộ nhờ trí tuệphương tiện thiện xảo. Giác ngộ không phải khả năng giả thuyết; trí tuệphương tiện thiện xảo này đã và đang được sử dụng với thành công lớn lao.

Dòng truyền thừa phương tiện thiện xảotrí tuệ vẫn còn cho đến nay, và chúng ta có cơ hội là một phần của nó. Chính chúng ta có thể thực hành trong dòng truyền thừa này và trải qua những lợi lạc từ đó. Nếu nó từng bị gián đoạn, sẽ thật khó để tái tạo một dòng như thế.

Thành ngữ Tây Tạng có câu:

“Pháp không phải sở hữu của ai cả; nó là tài sản của bất kỳ ai thực hành nó.”

Nó không phải tài sản cá nhân của bất kỳ vị thầy nào hay nhóm người đặc biệt nào. Nếu vị thầy không thực hành, nó không thuộc về vị thầy, bởi vì Pháp không phải là một nghi lễ trống rỗng. Giống như vậy, nó không phải là tài sản của nhóm người nào, bởi nó không giống như triết học Cộng sản hay tương tự. Nó thuộc về bất kỳ ai thực hành. Bất kỳ cá nhân nào thực hành Pháp sẽ được cải thiện bởi Pháp. Chính bạn có thể là người tận dụng tối đa Pháp.

Pháp như là [đối tượng] Quy y

Mọi giáo lý Phật Đà có hai đặc điểm. Đầu tiên chúng phải là một phương thuốc, hay cách đối trị với các cảm xúc phiền não gây ra khổ đau cho chúng sinh. Chúng cần làm giảm những cảm xúc phiền nãochúng sinh trải qua, và một cách tuyệt đối tiêu diệt mọi nguyên nhân. Giáo lý Phật Đà cũng cần cung cấp các bước nhờ đó hữu tình chúng sinh tiến lên các cõi cao hơn, và một cách tuyệt đối giải thoát khỏi khổ đau luân hồivòng sinh tử.

Các giáo lý cần cung cấp nơi nương tựa theo cả hai cách. Bất kỳ điều gì hòa hợp với hai đặc điểm này là giáo lý Phật Đà. Người ta cũng nói rằng ngoài giáo lý của Phật, những giáo lý như vậy không thể được tìm thấy.

Pháp của Kinh điểnChứng ngộ

Như ngài Vasubandhu nói trong Abhidharmakosha, giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chia thành hai loại: Pháp của Kinh điển và Pháp của Chứng ngộ.

Khía cạnh Kinh điển của Phật Pháp được duy trì bởi sự nghiên cứu, bao gồm việc giảng dạy, lắng nghe, biên soạntranh luận. Điều này liên quan đến cả che, trong tiếng Tạng nghĩa là giải thích Pháp và nyen nghĩa là lắng nghe Pháp.

Khía cạnh Chứng ngộ của Pháp bao gồm thiền định và thực sự chứng ngộ. Khái cạnh này xuất phát từ khía cạnh đầu tiên.

Bằng cách tham gia vào các hoạt động này, chúng ta bảo tồn Pháp không chỉ trong các cuốn sách mà còn trong sự chứng ngộ của chúng sinh. Chúng ta duy trì truyền thống Pháp kinh điển và bảo tồn Pháp chứng ngộ. Nếu chúng ta đánh mất một trong hai, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến điều còn lại; Pháp sẽ không trọn vẹn. Giống như việc điều này rất quan trọng với chúng ta, với thế hệ tương lai, điều quan trọng là có cơ hội tham gia và trở nên uyên bác cả về Pháp của Kinh điển và Pháp của Chứng ngộ.

phatphaptang-thuanduyen-2Giáo lýLuận giải

Nói chung có hai kiểu Kinh điển Phật giáo. Ka trong tiếng Tạng là những lời dạy của chính Đức Phậttencho là các luận giải của các đại học giả xứ Ấn ĐộTây Tạng.

Ka

Các giáo lý của Đức Phật gọi là ka. Nhưng ka không chỉ gồm những lời mà Đức Phật nói ra. Ví dụ, Bát nhã tâm kinhka, nhưng chính ngài Quan Âm đã giảng về Bát nhã tâm kinh, khi trả lời câu hỏi của ngài Xá Lợi Phất. Nguyên nhân nó được xếp vào ka là sự gia trì của Đức Phật được chuyển đến ngài Quan Âm, người trở thành phát ngôn viên của Đức Phật. Vì thế, Bát nhã tâm kinh là “ka khởi lên từ sự gia trì.”

Có rất nhiều dịp khác mà Đức Phật không nói, nhưng âm thanh đến từ nhiều phần khác của thân ngài. Các giáo lý này được gọi là chotrul gyi ka, tức ka kỳ diệu.

Chính Đức Phật gợi ý rằng khi các giáo lý của ngài được kết tập, chúng cần được bắt đầu bằng câu, “Tôi nghe như vầy …” Mọi giáo lý bắt đầu như thế đều là ka.

Những lời dạy của Phật là thanh tịnh, hoàn hảoan bình. Chúng hòa hợp với sự thật tương đốituyệt đối, chân thật, đúng đắn và là phương thuốc cho mọi căn bệnh. Chúng vượt khỏi mọi so sánh.

Tencho

Nghĩa đen của từ tencho trong tiếng Tạng [tiếng Phạn là shastra] là “chỉ ra và chuyển hóa.” Khi bạn được chỉ ra rõ ràng cách thức mọi thứ thực sự là, tâm bạn được chuyển hóa. Sự ngu dốt chuyển hóa thành giác tánh, tiêu cực thành tích cực. Vì thế, mục đích của tenchochuyển hóa tinh tế tâm của đệ tử, và kết quả của tencho là bạn được bảo vệ khỏi những cõi thấp hơn.

Tencho được viết bởi các học giả. Về Luận, người ta nói rằng bảy bậc trưởng lão chứng ngộ từ truyền thống Tiểu thừa gặp nhaubiên soạn bản shastra đầu tiên, Chedrak Shedzo Chenmo. Để được phép biên soạn một shastra, học giả, ít nhất cần phải hiểu năm ngành khoa học chính và năm ngành phụ.

Năm ngành chính gồm nghệ thuật, y học, ngôn ngữ, logic và triết học nội tâm.

Năm ngành phụ gồm đồng nghĩa, toán học, biểu diễn, thơ ca và biên soạn.

Chỉ người hiểu những ngành này mới có thể biên soạn luận giải về giáo lý Phật Đà. Bên cạnh đó, để có thể biên soạn một bản shastra, họ ít nhất phải chứng ngộ địa thứ nhất hay có thể giao tiếp với Bổn tôn, chẳng hạn Đức Văn Thù. Một cách lý tưởng, tác giả cần trực tiếp trải nghiệm dharmata, chân lý.

Có khoảng một trăm bản ka (Kangyur) bằng tiếng Tạng và khoảng hai trăm bản tencho (Tengyur). Tất cả các bản tencho được viết bởi các đại học giả, những bậc uyên bác mọi ngành khoa học chính và phụ.

 

ducdatma3. TĂNG

Những bậc với ý định thiện lành

Những bậc nghiên cứu, quán chiếuthiền định về giáo lý của Đức Phật, và ý định được đặt trên con đường Pháp và giác ngộ được gọi là Tăng [tiếng Tạng là gendun, tiếng Phạn là Sangha]. Từ Sangha nghĩa đen là “những bậc với ý định thiện lành.”

Có hai kiểu đức hạnh: đức hạnh hướng về các hành động trong thế giới này, và đức hạnh tuyệt đối của việc thành tựu Chánh giác.

Quy y Tam Bảo

Những người bình thường bị lạc trong sự chăm sóc và bảo vệ cái tôi và trong các cảm xúc phiền não. Dù đau đớn nào được gây ra bởi việc chăm sóc và bảo vệ cái tôi, đó là cách mà họ sống. Dù họ cố gắng nhiều lần, thái độ này không thể làm họ hạnh phúc hơn, và không giải thoát họ khỏi khổ đau.

Gần như không thể với người thường để hiểu được rằng khả năng của việc buông bỏ cái tôi và làm giảm khổ đau, căng thẳnghận thùchúng ta cảm thấy bên trong, có thể xuất hiện. Nó như thể bạn chắc hẳn rất điên rồ khi đề xuất như vậy. Tuy nhiên, mặt khác, rất rõ ràng là việc nuôi dưỡngbảo vệ cái tôi là nguồn gốc của mọi khổ đau.

Bởi vậy, con đường của bạn và con đường của chúng sinh thông thường trở nên khá khác biệt. Mặc dù bạn sống như một thành viên trong gia đình và chăm sóc từng thành viên, bạn vẫn nhận thấy bạn đang trở nên khác biệt với phần còn lại. Mặc dù bạn có thể kết hôn và đã thề sống với vợ/chồng, và mặc dù yêu thương và chăm sóc vẫn còn, bởi bạn làm việc với tâm, bạn sẽ nhận ra khoảng cách giữa bạn với vợ/chồng ngày càng lớn.

Sự tách biệt này không dựa trên kiểu thành kiến vào với bạn đời. Nó là kết quả của sự thấu suốt tăng lên mà bạn sở hữu như là kết quả của việc giải quyết vấn đề tâm. Trí tuệ bạn đang vun bồi nhìn ra không chỉ vấn đề của người khác mà còn cả vấn đề của bạn. Điều này liên quan đến việc nhìn ra cái khổ trong cuộc đời, và đâm thủng nguyên nhân của nó, thứ đang bám chấp vào cái tôi.

Chúng ta mong muốn làm việc với các vấn đề tâm lýcảm xúc bằng cách áp dụng chánh Pháp. Vì thế, chúng ta nhận Đức Phật là người chỉ dẫn và Pháp là con đường, và chúng ta trở thành một phần của Tăng đoàn cao quý.

Mặc dù tình yêu thương, sự chăm sóc và từ bi giành cho người khác tăng lên, và chúng ta vẫn muốn có ích với người khác hơn nữa, con đường của ta trở nên rõ ràng hơn. Vì thế, chúng ta quy y Tam Bảo một cách đúng đắn hơn. Đây là mục đích của việc nghiên cứuthực hành của chúng ta; quy y một cách đúng đắn, không phải chỉ là nghi lễ. Chúng ta không quy y chỉ để đi theo người khác, mà để phát triển mối quan hệ cá nhân với các đối tượng quy y. Một cách tương đối, chúng ta quy Phật là người chỉ đường, Pháp là con đường và Tăng là những người đồng hành. Một cách tuyệt đối, chỉ có một sự quy y duy nhất, đó là giác ngộ.

dzigar_kongtrul_rinpoche

Trích: Nghiên cứu Phật học 1, Dzigar Kongtrul Rinpoche
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên.










(CÙNG DỊCH GIẢ)


[1] Mười hai hành động gồm: an trú trong Tushita, giáng sinh và nhập vào tử cung, chào đời, tinh thông nghệ thuật, tận hưởng phối ngẫu, từ bỏ thế giới, thực hành khổ hạnh, đạt đến điểm quan trọng của giác ngộ, chinh phục Ma vương, giác ngộ hoàn hảo, chuyển bánh xe giáo Phápthị hiện Niết Bàn cuối cùng. Xem Truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, quyển II, trang 169, Dudjom Rinpoche.

[2] Các thế lực ma quỷ trong cõi địa ngục.

[3] Xem Kho tàng các phẩm tánh quý giá, Phụ lục 5.

[4] Bốn sự vô úy là (1) Vô úy trong kiến thức của tất thảy mọi vật; (2) Vô úy trong kiến thức của sự ngừng mọi lỗi lầm; (3) Vô úy để tuyên bố dứt khoát rằng các hiện tượng ngăn cản con đường không trở thành thứ gì khác; (4) Vô úy rằng con đường từ bỏ nhờ đó mọi đặc tính hoàn hảo sẽ đạt được, vừa được chứng ngộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13205)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19357)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24613)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15740)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37822)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13475)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13092)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17177)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13203)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17386)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21635)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13216)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14392)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12811)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13653)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28615)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23393)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28878)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32184)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11328)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26285)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17371)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14523)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34476)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12278)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13411)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40510)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26929)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14455)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13252)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13454)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12532)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13145)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12313)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11788)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12572)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17658)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12204)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12751)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18434)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12994)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11322)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12150)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13466)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10835)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11073)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10285)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28883)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25268)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26849)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25753)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18668)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23022)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34535)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32166)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30374)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant