Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận về Bồ đề tâm

25 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 17580)
Luận về Bồ đề tâm
LUẬN VỀ BỒ ĐỀ TÂM
Kỳ I: Ý nghĩa bồ đề tâm
và nội dung khuyến phát bồ đề tâm

Nguyên Tuệ

luanvebodetam-nguyentuePhàm làm người, nhìn chung ai cũng có một ước mơ, một lý tưởngsuốt đời phấn đấu để đạt được mục đích. Có người muốn mình là bác sĩ giỏi, có người muốn trở thành một thương gia hay triệu phú. Cũng có người muốn là một nhà giáo, phóng viên, diễn viên, ca sĩ... để lưu danh trong thiên hạ.

Nhưng tất cả mọi ước mơ, mọi hành động đều xây dựng trên bản ngã tầm thường, mọi người có nó vì có ái trọng tự ngã của mình và làm mọi việc để phục vụ cho thiên thần của họ chính là cái “Ta” của mỗi người. Cũng đồng là chúng sanh, nhưng nhờ thiện duyên từ bao đời kiếp, chúng ta được thân người, được nghe Phật pháp, được sống trong chánh pháp làm đệ tử của Phật phải có một chí hướng như thế nào cho cuộc sống? Quy Sơn cảnh sách nói: “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương” (Phàm xuất gia là bước đến một chân trời cao rộng).

Trong quyển Hành Bồ Tát Hạnh có nói : “Từ lúc những chúng sanh đáng thương bị vướng vào ngục sinh tử, biết phát tâm bồ đề là họ được phán danh hiệu con của chư Phật”, hay nói cách khác hơn con Phật điều tất yếu là phải phát Bồ đề tâm.

Ý nghĩa Bồ đề tâm

Trí tuệ của thuật ngữ Bồ đề được xuất phát từ “dục tâm sở” trong “ngũ biệt cảnh”. Bồ đề nghĩa là giác. Trong ấy có ba bậc: Thanh văn Bồ đề, Duyên giác Bồ đề và Phật bồ đề. Sám Hồng Danh viết “Dục tâm sở không cầu thanh vănduyên giác cho đến quả vị Bồ tát mà duy y tối thượng thừa cầu vô thượng Bồ đề nên gọi là Bồ đề tâm”. Vậy Bồ đề tâm hay là tâm “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” đó là chí hướng cao cả của một người con Phật. Kinh nói: “Bồ đề tâm là nhân, đại bi là cơ bản, là phương tiện, là cứu cánh”. Ví như người đi xa, trước tiên phải nhận định mục đích sẽ đến, phải ý thức chủ đích của cuộc hành trình bởi lý do nào, và sau cùng dùng phương tiện hoặc xe hoặc thuyền mà khởi tiến. Người tu cũng thế, trước tiên phải lấy quả vị vô thượng Bồ đề làm mục tiêu cứu cánh, lấy lòng đại bi lợi mình lợi sanh làm chủ đích thực hành, sau đó tùy sở thích căn cơ, lựa chọn pháp môn để vững tiến trên đường đạo dưới ánh hào quang Bồ đề tâm chói lọi.

Trong một quyển kinh nói: “Như châu ngọc trong biển cả sáng hơn tất cả sỏi đá của lục địa phương Nam. Những người phát tâm Bồ đề trong dòng thức của họ sáng chói hơn tất cả thanh văn và duyên giác”. Khi có người phát Bồ đề tâm, quả đất và tất cả pháp tòa của chư Phật đều rung động. Chư Phật chư Bồ tát muốn xem bất cứ người nào phát Bồ đề tâmanh chị em của họ vì người có Bồ đề tâm ấy sẽ dẫn đạo nhiều hữu tình và gây một chấn động lớn trong cõi sinh tử. Người phát tâm ấy sáng chói hơn cả thanh văn, duyên giác là nhờ năng lực lòng vị tha của họ.

Vào thời đức Phật có một người hành khất cúng đức Phật một cây đèn dầu nhỏ với tâm Bồ đề. Ngài A-nan không dập tắt được cây đèn ấy và đức Như Lai đã dạy rằng ngay cả ngọn cuồng phong thời kiếp tận cũng không thể dập tắt được do sự tăng trưởng liên tục của công đức. Khi làm việc với sự điều động của tâm Bồ đề thì bất cứ việc gì ta làm cũng sẽ đem lại những lợi lại cho hữu tình.

Chính vì vậy, những Đại Bồ tát còn có thể chuyển điều phi phước thành ra phước lành vì họ làm mọi việc với tâm Bồ đề. Nếu bố thí cho hàng trăm hàng ngàn chúng sanh trong vô số kiếp mà không có tâm Bồ đề thì nghiệp quả cuối cùng cũng chấm dứt.

Nội dung Khuyến phát Bồ đề tâm

Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy. Song những văn bản có những nét đặc sắc không giống nhau.

Nếu trong bản phát Bồ đề tâm luận của Ngài Thế Thân cho ta thấy phảng phất tâm linh con người rạt rào và rộng mở thì văn bản của Ngài Tĩnh Am đứng trên phương diện phân tích tâm lýđạo đức đã chỉ rõ cho chúng ta thấy con đường đi hay một ý tưởng cao cả của cuộc sống đó là phát Bồ đề tâm để con người tiến dần về với cuộc sống bao la, vô cùng, vô tận.

Ngài nêu rõ trên bước đường từ bản nguyện thế gian đến thành tựu tâm nguyện Bồ đề đã đi qua bao nhiêu yếu tố tâm lý tốt xấu, cao thấp không đều nhau, gọi là các tướng của tâm nguyện Bồ đề. Và trên con đường hướng thiện ấy biết bao nhiêu nhân duyên liên hệ kích động đến chí nguyện Bồ đề ấy thành tựu hơn gọi là nhân duyên phát tâm. Hay nói khác hơn văn bản này nêu lên ý tưởng sống cao cả cho hàng Phật tửđồng thời nêu lên tiêu chuẩn hoạt động cho sự sống đó. Trước hết Ngài phân tích tâm ta có tám hướng, chữ “hướng” ở đây chỉ nêu lên một phần sinh động của nội tâm.

Thật ra, sự sinh hoạt của nội tâm là một dòng diễn biến có thể vượt ra ngoài không gian vô cùng, thời gian vô tận. Tuy nhiên, ở đây tác giảý muốn chúng ta dừng lại, nhìn nội tâm ở một góc độ tương đối, vì thế nói tâm có tám hướng đó là: tà, chánh, chơn, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên.

Có những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu danh lợi, đắm cảnh vui hiện tại hay mong quả phước tương lai mang phát lòng Bồ đề. Phát tâm như thế gọi là tà.

Như chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui, cùng mong quả phước; chỉ vì thoát vòng sinh tử, tự mình lợi sanhcầu đạo Bồ đề, phát tâm như thế gọi là chánh.

Mỗi niệm trên cầu vì Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ đề dài xa mà không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng không sờn. Tâm bền vững như lên núi quyết đối đảnh, như leo tháp quyết đến chóp, phát tâm như thế gọi là chơn (thật).

tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường như trong sạch, trong thật nhớp nhơ, trước tinh tấn, sau lười biếng. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi danh, tuy có pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm, phát tâm mà còn những điều này gọi là ngụy.

Coi chúng sanh hết nguyện ta mới hết, Bồ đề thành nguyện mới thành, phát tâm như thế gọi là đại.

Xem tam giới như tù ngục, sanh tử như oan gia, chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người, phát tâm theo quan niệm này gọi là tiểu.

Thấy chúng sanhPhật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt, phát tâm như thế gọi là thiên.

Biết chúng sanhPhật đạo đều là tự tánh nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức mà không thấy mình có tu, độ chúng sanh mà không thấy chúng sanh được độ, phát tâm như thế gọi là viên.

Sau khi biết rõ tám hướng, chúng ta phải thẩm định hướng nào phù hợp với cái gọi là phát Bồ đề tâm. Đương nhiên phải hướng nội tâm sinh hoạt theo hướng mà chánh văn gọi là chánh, chơn, đại, viên; phải bỏ cái gọi là tà, tiểu, ngụy, thiên. Biết chọn điều hướng sinh hoạt đó để phát triển nội tâm thì có thể thành tựu tâm nguyện Bồ đề, như vậy mới là chơn chánh phát Bồ đề tâm.

Sau sự phân tích tâm lý này, ngài Tĩnh Am lại đặt tâm nguyện qua những điểm đạo đức. Ngài không giải quyết vấn đề một cách trừu tượng khó hiểu, vì đạo vị không thể đánh giá bằng hình thức đạo đức bên ngoài, đạo vị là hương vị của cuộc sống hiểu mình, hiểu người, vì mình và vì người. Ngài chú trọng mật thiết về vấn đề thể hiện đạo đức trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt đó là lòng biết ơn. Sống đạo đức là sống tích cực về mọi phương tiện. Ngài Tĩnh Am kêu gọi đồ chúng trong việc tu học hằng ngày cần phải chú trọng mười điểm, đó là mười nhân duyên phát tâm. Mười nhân duyên ấy là: Vì nghĩ đến ân Phật, vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn Sư trưởng, vì tưởng ơn tín thí, vì lo khổ sanh tử, vì tôn trọng tánh linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp, và vì cầu sanh tịnh độ.



LUẬN VỀ BỒ ĐỀ TÂM
Kỳ 2: Những huấn thị về bồ đề tâm
và làm thế nào phát bồ đề tâm

Nguyên Tuệ


Trong nội điển thuyết minh rất nhiều về Bồ đề tâm, ở đây chỉ trích lục ít đoạn trong kinh Hoa Nghiêm.

“Nầy Thiện nam tử! như người học bắn, trước phải tập thế đứng, sau mới biết cách để bắn. Cũng thế Bồ tát muốn học đạo nhất thiết trí của Như Lai phải an trụ nơi Bồ đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu song tất cả đại thần đều kính nể. Cũng thế Bồ tát tuy mới phát Bồ đề tâm tu Bồ tát hạnh, song tất cả kỳ cựu hàng nhị thừa đều phải kính trọng nể vì. Thiện nam tử! máy bằng gỗ nếu không có mấu chốt thì các tành phần rời rạc chẳng thế hoạt động.

Cũng thế Bồ tát nếu thiếu Bồ đề tâm thì các hạnh đều phân tán, không thể thành tựu tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! như chất kim cương tất cả các vật khác không thể phá hại, trái lại có thể phá hại tất cả các vật, song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ đề tâm của Bồ tát cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp giáo hóa chúng sanh tu các khổ hạnh, việc hàng nhị thừa không thể làm đều được, song vẫn chẳng chán mỏi, giảm hư”.

Ngài Phổ Hiền Bồ tát bảo: “Thiện nam tử! Bồ tátđiều phục giáo hóa tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì trừ diệt khổ cho tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ nên mới phát Bồ đề tâm. Vì trừ diệt sự ngu tối cho tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì đem Phật trí cho tất cả chúng sanh nên mới phát Bồ đề tâm. Vì cung kính cúng dường chư Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy Như Lai khiến chư Phật hoan hỷ nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn thấy sắc thân tướng hảo của chư Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật nên phát Bồ đề tâm. Vì muốn biểu hiện tất cả các đức lụy vô úy của chư Phật nên mới phát Bồ đề tâm”.

Như vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn và chư Bồ tát đã thuyết minh rộng rãi về công đức của Bồ đề tâm, trên đây chỉ trích một vài yếu điểm. Kinh văn cũng có nói: “Cửa yếu và đạo trước hết phải phát tâm, việc chính của tu hành trước tiên nên lập nguyện”. Nếu không phát tâm rộng lớn, lập nguyện bền chắc dù trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên trong cõi luân hồi, dù có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc. Do đó nên biết: Muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ đề tâm không thể trì hoãn.

Làm thế nào phát Bồ đề tâm:

Phát Bồ đề tâm như trên đã nói, có thể tóm tắt trong bốn điều hoằng thệ sau đây:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

Nhưng không thể nói suông “Tôi phát Bồ đề tâm”, hay từng ngày đều đọc bốn điều thệ nguyện ấy là phát Bồ đề tâm. Thay vì nói theo thuật ngữ “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” có thể hiểu phát Bồ đề tâmphát tâm phục vụ, khiến cho chúng sanh khai triển trí tuệ nội tâm để được giác ngộ giải thoát, gọi là phát Bồ đề tâm chứ không phải là làm những việc xa vời.

Đôi lúc chúng ta mãi nghĩ đến tương lai, đến khi nào mới “thượng cầu hạ hóa” được mà bỏ quên mất ý nghĩa thiết thực. Miệng nói rằng “hạ thủ công phu”, “giải thoát sanh tử” nhưng những công việc cần thiết cấp bách ngay trong hiện tại vẫn chưa làm được, lại hứa hẹn “lúc nào mình hoát nhiên đại ngộ hay thành Phật chẳng hạn, lúc đó sẽ cứu độ chúng sanh”, nghĩa là mới “hạ hóa” được, còn bây giờ thì việc đó không thể làm.

Ngày xưa Ngài Tu Bồ Đề đã đại diện cho chúng ta nêu lên cái nguyện vọng băn khăn nghìn đời là “Làm thế nào để con được thành Phật”. Đức Thế Tôn đã trả lời “Con nên độ hết thảy chúng sanh vào vô dư Niết bàn mà không thấy có một chúng sanh nào được độ”. Hay hỏi “Làm thế nào để được giải thoát”, đức Phật bảo: “Hãy lo độ sanh đi, tức khắc tâm con được an, tâm an tức là giải thoát”.

Vì vậy ngay trong đời này chúng ta phải biết phát Bồ đề tâm. Không có một đời tái sinh nào tốt hơn để phát Bồ đề tâm hơn trong đời hiện tại này. Chúng ta phải xem mình có thể thực phát Bồ đề tâm không. Nếu không được như vậy thì phải xem ta có vài kinh nghiệm gượng ép về Bồ đề tâm, hoặc có một chút tri kiến ở mức độ thấp về Bồ đề tâmdựa vào đó để phát tâm của mình. Điều cốt yếu là chúng ta cần phải gieo vào tâm thức càng nhiều bản năng về Bồ đề tâm càng tốt.

Cho nên vấn đề đặt ra một cách thiết thực là “Làm thế nào phát Bồ đề tâm?”. Muốn cho lòng Bồ đề phát sanh và tăng trưởng, chúng ta nên suy tư, quán sát để phát tâm theo sáu điểm sau đây:

1. Điểm thứ nhất là giác ngộ tâm: chúng sanh thường bị chấp chặt, bó buộc trong bản ngãngã sở của mình, mà không biết rẳng tứ đại không thật, sắc thân này không trường tồn, giải hợp. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Cổ đức đã dạy “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”. Khi đã giác ngộ được rằng tâm như huyễn, không chấp trước.

Cái ta không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật chứng đắc. Nhơn đã không thì pháp cũng không, vì sự cảnh luôn thay đổi trong từng sát na, không có tự thể; cũng nên nhận rõ rằng chẳng phải các pháp khi hoại diệt mà thành không, mà vì nó hư huyễn nên đương thể tức không, nhơn cũng vậy. Người xưa đã nói “hà tu đãi hoa lạc nhiên hậu thỉ tri không” (Cần chi đợi hoa rụng mới biết sắc là không).

Hành giả khi đã giác ngộ tâm và pháp đều không, giữ lòng thanh tịnh, tâm giác ngộ như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.

2. Thứ hai, bình đẳng tâm: Đức Phật dạy “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”, nghĩa là ai cũng có Phật tánh nên đức Phật dùng tâm từ bi, bình đẳng tế độ. Ngược lại chúng sanh vì tâm phân biệt nên khởi lòng ghét khinh. Cũng đồng một cái nhìn nhưng khác nhau ở chỗ là mê và ngộ. Là Phật tử, đối với chúng sanh phải có tâm bình đẳng tôn trọng, vì đó là một vị Phật tương lai, dứt trừ nghiệp chướng, phân biệt khinh mạn, nảy sanh được các đức lành. Dùng lòng bình đẳng như thế mà hành đạo như thế gọi là phát Bồ đề tâm.

3. Thứ ba, từ bi tâm: Ta cùng chư Phật đồng một thể tánh, vậy mà vì mê mờ, phiền não, đến hôm nay vẫn còn chìm đắm trong luân hồi, chịu vô biên khổ. Hiểu được như thế ta phải dứt tâm phân biệt ghét thương, khởi lòng cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình cứu người để cùng nhau được an vui thoát khổ. Muốn cho tâm từ bi được rộng thêm ra, nên từ nỗi khổ của mình, cảm thông đến nỗi khổ khó nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự nhiên sẽ sanh lòng xót thương, muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ đề tâm từ đó phát sanh.

Ví như thấy người ta đau yếu, mà vì vật giá cao quý, không tìm thuốc thang, thành ra kéo dài bệnh khổ qua năm tháng, thậm chí có kẻ phải quyên sinh. Có những người nghèo nàn thất nghiệp, vợ đau, con bệnh, rách rưới, lang thang sống không ổn, chết cũng không xong.

Lại có những kẻ mang trong mình tâm sự buồn khổ, không có bạn lành khuyên lơn giải thích. Hoặc có những kẻ mê tối tạo nghiệp mà không biết ngày mai mình sẽ khổ, không gặp Phật pháp, không có đường thoát ly. Thấy những cảnh như vậy, động lòng thương xót muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.

Nói rộng ra như trong kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền khai thị: “Bồ tát quán chúng sanh không nơi nương tựakhởi lòng đại bi, quán chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi lòng đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi lòng đại bi, quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi lòng đại bi”. Đã phát đại bi tức phát Bồ đề tâm thề nguyện cứu độ, thế thì lòng đại biBồ đề tâm thông nhau. Lưu ý rằng đại bi ở đây khác với ái kiến. Ái kiến là lòng thương yêu mà chấp luyến trên hình thức nên bị sợi dây tình ái buộc ràng. Đại từ bithương xót cứu độ mà lìa xa tướng không phân biệt chấp trước, tâm này thể hiện dưới đủ mọi mặt nên kết quả được an vui giải thoát, phước huệ càng tăng, dùng lòng đại bi như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.

4. Thứ tư là hoan hỷ tâm: đã có xót thương tất phải thể hiện qua lòng hoan hỷ. Hoan hỷ này nói đủ có hai: tùy hỷhỷ xả. Tùy hỷ là khi thấy từ trên chư Phật, thánh nhơn, dưới đến các loài chúng sanh làm việc phước thiện, có công đức, dù nhỏ mọn cũng vui mừng theo, hoặc thấy ai được phước lợi, thành công, an ổn, hạnh phúc, mình cũng vui dùm. Hỷ xả là dù có chúng sanh làm nhiều tội ác, vong ân khinh hủy, hiểm độc, đem lại sự bất như ý cho mình hoặc người cũng an nhẫn vui vẻ bỏ qua. Khi có lòng hoan hỷ thì trừ được chướng tật đố nhỏ nhen, diệt trừ được chướng hận thù báo phục. Bởi tâm hoan hỷ ấy không ngoài sự giác ngộthể hiện, đó chính là tâm Bồ đề. Dùng lòng hoan hỷ ấy mà hành đạo thời gọi là phát Bồ đề tâm.

5. Thứ năm là sám nguyện tâm: trong kiếp luân hồi, mọi loài đã từng đắp đổi làm thân bằng quyến thuộc của nhau. Vì vô minh chấp ngã nên cũng đã từng làm tổn hại nhau, tạo vô biên nghiệp. Hiểu được như vậy, ta phải đem thân nghiệp lễ kính Tam Bảo, khẩu nghiệp bày tỏ tội lỗi cầu được tiêu trừ. Ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái tạo để sám hối ba nghiệp chướng sâu dày.

Lại phát nguyện hoằng dương chánh pháp để cứu độ muôn loài, đền tứ trọng ân: ân Tam Bảo, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân thiện tri thứcân chúng sanh để mong chuộc lại những lỗi lầm xưa trong muôn một. Có tâm sám nguyện như vậy tội chướng mới tiêu trừ, công đức thêm lớn. Dùng tâm sám nguyện như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ đề tâm.

6. Thứ sáu là bất thối tâm: đời mạt pháp “Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng”, dù đã phát nguyện, đã sám hối nhang hoặc nghiệp và ma chướng không dễ gì trừ dứt, sự lập công bồi đức cứu độ muôn loài không dễ gì thành tựu. Mà con đường Bồ đề đi đến cõi viên giác lại xa vời, đầy rẫy cam go chướng ngại, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải chỉ một đời. Thế thì việc giữ tâm nguyện thật không phải dễ! Cho nên hành giả muốn đạo tâm không thối chuyển phải lập nguyện kiên cố, thề rằng: “Thân này dầu bị vô lượng sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh chết cho đến thiêu đốt tan thành tro bụi, cũng không vì thế mà phạm điều ác, thối thất trên bước đường tu hành”. Dùng tâm bất thối chuyển như thế mà hành đạo mói gọi là phát Bồ đề tâm.

Đó là những sự kiện phải có của người phát Bồ đề tâm. Nếu không y theo đây mà lập chí tu hành thì dù có phát tâm cũng chỉ mới phát suông không thể nào đi đến Phật quả được.




LUẬN VỀ BỒ ĐỀ TÂM
Kỳ 3: Bồ đề tâm – một đóa hoa rạng ngời cuộc sống
Nguyên Tuệ

Bồ đề tâm – một đóa hoa rạng ngời cuộc sống. Nếu như chỉ đứng trên vai trò ngôn gữ để nói, cho dù người có đầy đủ các tri kiến về Bồ đề tâm, cũng chưa đủ để quyết định đó là người đã phát Bồ đề tâm. Điều quan trọng là dựa trên cơ sở những hiểu biết về Bồ đề tâm, hành giả phải bắt tay vào thực hành để thực sự có được chất liệu Bồ đề tâm trong hương vị cuộc sống.

Hằng ngày, có rất nhiều công việc để chúng ta làm với ý nghĩaphát Bồ đề tâm. Việc phát tâm ấy không phải là xa vời mà nó rất gần gũi trong từng việc làm, quét sân, nhổ cỏ, gánh nước, nhặt rau... Nếu ta làm với sự phát tâm, trong niệm tỉnh giác, trong niềm hoan hỷ. Nếu được như vậy mới lợi lạc trên con đường hướng thượng của mình.

Lại, kinh văn có nói “Quên mất Bồ đề tâm dẫu tu thiện pháp cũng là ma nghiệp”. Ma nghiệp ở đây là những hành động, tạo tác, suy tư đối với tâm lý thấp hèn, ích kỷ, trở ngại cho sự nghiệp khai triển trí huệ nội tâm.

Mọi việc chúng ta làm nếu trên cầu Phật đạo mà không vì chúng sanh thì trở thành ích kỷ không thể giải thoát hoàn toàn được. Trái lại, nếu chỉ vì chút lợi mà bỏ quên Phật đạo thì lại dắt nhau quanh quẩn trong vòng sanh tử luân hồi. Như vậy phát Bồ đề tâm muốn hướng dẫn tha nhơn trước hết hành giả phải tự hoàn thành nhân cách của con người, nhân cách ấy nhà Phật gọi là Bồ tát hạnh. Mọi việc làm với tâm niệm phục vụ chúng sanh, vì lợi ích chúng sanh đều gọi là thành quả của Bồ tát hạnh. Nếu độ sanh, hành thiện mà quên mất tâm Bồ đề tức chính là ma nghiệp.

Thỉnh thoảng chúng ta cũng thường giúp đỡ mọi người với khả năng có thể của mình, nhưng ít ai làm được việc đó với tâm Bồ đề. Khi giúp người, bố thí cho kẻ khác của cảichúng ta nghĩ như vậy là mình đã phát Bồ đề tâm. Nhưng không, những việc làm đó phần nhiều vì danh, vì lợi hoặc cao hơn là vì lòng trắc ẩn! Có mấy ai bố thí với tình thương tuyệt đối: “Khi cho mà không suy nghĩ, không đòi hỏi điều gì trả lại, không hối tiếc hay không phân biệt một cái gì thì đó mới gọi là tuyệt đối”. Thường ít thấy ai làm được như vậy. Chỉ thấy bất cứ cái gì cho ra cũng hy vọng được trả lại, đôi lúc muốn đạt lại nhiều hơn là khác. Sở dĩ như vậy là không có năng lực Bồ đề tâm điều động.

Ngày xưa, vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ tăng ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng? Tổ đáp: đều không có công đức. Bởi những việc làm ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thực. Nhơn hữu lậu thì gây phước hữu lậu. Và như vậy thì không đạt đến quả vị giải thoát. Mọi việc làm, hành động không đưa đến giải thoát đều gọi chung là “ma nghiệp””.

Đơn cử một việc như trên chúng ta thấy rằng làm bất cứ việc gì dù đó là phước đức, nhưng không có tâm Bồ đề chủ đạo thì rốt cuộc vẫn không mang lại lợi ích – cái lợi ích cần thiết cho sự giải thoát. Sự thật, cùng một hành động, cùng một cái nhìn, nhưng sở dĩ khác nhau là ở chỗ dụng tâm của con người. Trong cuộc sống, trong hành động, trong suy nghĩ thì chữ tà và chữ chánh chỉ cách nhau bằng một mảy tơ sợi tóc, cán cân đo lường chánh và tà đó không khác gì hơn là sự tỉnh giác nơi tâm hành giả. Vì vậy, cũng có lắm người đã phát tâm song lại để quên mất.

Chúng ta phải có một chút tự hào rằng đã đứng vào trong hàng ngũ xuất gia là ít nhiều chúng ta đã phát Bồ đề tâm, nhưng tâm ấy đang ở buổi ban sơ, rất mong manh nên rất dễ thối thất. Vì vậy phải nuôi dưỡng tâm Bồ đề, hay nói khác là luôn tỉnh giác duy trì bóng dáng của đức Phật mọi nơi sinh động của nội tâm, lúc đó chắc chắn chúng ta sẽ không hành động bất luận việc gì mà Phật tâm không cho phép.

Ai chưa phát tâm nay phát, ai đã phát rồi nay tăng trưởng, ai đã tăng trưởng nay tiếp tục. Đừng mặc cảm khinh lờn biếng nhác, đừng chần chừ khi già mà luống uổng một đời. Như mài dao và trồng cây; dao đùi mài lâu sẽ bén, cây trồng lâu sẽ bám rễ sâu, chớ thấy đùi, thấy cạn mà không mài, không trồng thì sẽ trở thành vô dụng. Nguyện rằng quyến thuộc Bồ đề từ nay kết hợp, liên minh sen vàng từ đây tương giao. Trong tay ai cũng có sẵn bản đồ, vấn đề còn lại hãy mạnh dạn, tinh tấn cất bước đi lên:

“Mục đích có sẵn rồi
Nào phải vọng xa xôi
Dặm trình thong dong bước
Hoa trắng nở ven đồi”

Nguyên Tuệ
(Trung Tâm VHPG Liễu Quán Huế)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14399)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8757)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8832)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8131)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8945)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14073)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8411)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15195)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13029)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7754)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16529)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15405)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8933)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7889)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7044)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11208)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14192)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10388)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20335)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8725)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9212)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 23962)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12555)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7746)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16133)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15494)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8678)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7601)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14472)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9226)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15416)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15039)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16538)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13311)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15224)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7754)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7448)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7301)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8967)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 13893)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 7981)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7805)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15696)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10198)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7636)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7447)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12710)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7796)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8043)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13914)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7241)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9114)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9585)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13025)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7527)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10062)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7141)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30792)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
(Xem: 21835)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant