Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tư tưởng Tịnh Độ Tông

17 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 39056)
Tư tưởng Tịnh Độ Tông
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

Hòa Thượng THÍCH NHƯ ĐIỂN biên soạn

tutuongtinhdotong-thichnhudien

Bắt đầu viết sách nầy vào ngày 1 tháng 11 năm 2011

tại Tu Viện Đa Bảo vùng Blue Mountains, Úc Đại Lợi,

nhân lần tịnh tu, nhập thất lần thứ 9.

 

Viết xong 418 trang khổ A4

vào ngày 1 tháng 12 năm 2011 tại Tu Viện Đa Bảo

Mục Lục

 

l. Lời nói đầu

I. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử

 A.- Tư tưởng của kinh A Di Đà

 B.- Tư tưởng kinh Vô Lượng Thọ

 C.- Tư tưởng kinh Quán Vô Lượng Thọ

 

II. Tịnh Độ Tông của Ấn Độ

 A.- Ngài Long Thọtư tưởng Tịnh Độ

 B.- Ngài Thế Thântư tưởng Tịnh Độ

 

III. Tịnh Độ Tông của Trung Hoa

 A.- Ngài Đàm Loantư tưởng Tịnh Độ

 B.- Ngài Đạo Xướctư tưởng Tịnh Độ

 C.- Ngài Thiện Đạotư tưởng Tịnh Độ

 

IV. Tịnh Độ Tông của Nhật Bản

 A.- Ngài Nguyên Tíntư tưởng Tịnh Độ

 B.- Ngài Nguyên Khôngtư tưởng Tịnh Độ

 C.- Ngài Thân Loantư tưởng Tịnh Độ

 

V. Tịnh Độ Tông của Tây Tạng

 Tư tưởng Tịnh Độ của phái Cổ Mật

 

VI. Phật Giáo thời kỳ đầu của người Âu-Mỹ

 Tư tưởng Đại ThừaTịnh Độ Tông

 

VII. Tịnh Độ Tông của Việt Nam

A.- Ngài Đàm Hoằngtư tưởng Tịnh Độ

B.- Ngài Thiền Tâmtư tưởng Tịnh Độ

C.- Tư tưởng Tịnh Độ thời hiện đại

 

VIII. Con đường Tịnh Độ

 Rút tỉa những kinh nghiệmquán triệt tư tưởng Tịnh Độ đối với Phật Tử Việt Nam

 

IX. Cùng một tác giả

 

X. Phương danh cúng dường

 Đọc sách PDF

Lời nói đầu

Nước Úc là một lục địa hay nói đúng hơn là một đảo quốc to lớn rộng rãi, ít ai có thể hình dung ra được. Ngay cả những người ở đây lâu năm họ vẫn chưa đi hết đảo quốc nầy. Nói là đảo quốc, bởi vì đất đai ở đây bị ngăn cách bởi Ấn Độ Dương và phía Nam đảo quốc nầy là khoảng trời nước mênh mông giáp giới với Nam Cực. Phía Tây cũng như phía Đông cách xa các quốc gia nằm lân cận mình.

Nếu hỏi độ lớn của quốc gia nầy là bao nhiêu thì xin thưa: Hãy nhìn vào bản đồ thế giới để thấy rằng cả lục địa Âu Châu đem bỏ vào nước Úc vẫn chưa lớn bằng. Nước nầy ngang tầm to lớn như Hoa Kỳ và Canada; nhưng dân cư tại đây chỉ trên dưới 30 triệu người, nghĩa là chỉ bằng dân số một phần mười của nước Mỹ.

Nước là một yếu tố để quyết định cho sự sống của con người nơi đây; nên chính phủ giới hạn tối đa việc nhập cư vào quốc gia nầy. Tài nguyên thiên nhiên, đất đai, thổ sản tại nước nầy còn nhiều lắm, chưa khai thác hết. Có lẽ chính phủ họ để dự bị cho một tương lai lâu dài. Vì lục địa nầy cũng chỉ mới phát triển trên 200 năm trở lại đây mà thôi.


 

Ở đây đa phần là rừng núi và cây bạch đàn cũng như Kanguru; đi đâu cũng thấy và ở đâu cũng gặp. Xứ Nam Phương nầy có rất nhiều cái hay cái lạ của nó, mà ai phải đến đây rồi mới tiếp nhận được những tia nắng mặt trời rọi chiếu như thế nào ở vùng Nam Bán Cầu nầy; dĩ nhiên là nó khác Phi Châu, Mỹ Châu, Âu Châu và ngay cả Á Châu nữa.

Tôi đã có nhân duyên đến nước nầy từ năm 1979; nếu tính đến nay (2011) cũng đã là 32 năm rồi. Trong 32 năm ấy hầu như năm nào tôi cũng có một cho đến 2 lần đến thăm nước nầy. Lý dovấn đề Phật Pháp cũng như khí hậu. Con người khi xa quê hương, hay nghĩ nhớ đến quê hương rất nhiều; nhất là lúc về già. Do vậy người ta phải đi tìm một quê hương khác, nơi ấy có cái gì đó có thể bổ sung hay thay thế cho quê hương mình, nên tôi đã đến đây nhiều lần là vậy. Tại đây có ổi, mít, chôm chôm, măng cụt, xoài, sầu riêng, bưởi, chuối, rau muống, rau mồng tơi v.v... và tại đây cũng có một Cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản từ 1975 đến nay cũng đã lên đến 200.000 người.

Từ năm 2003 đến nay đã 9 lần tôi đến Úc để tịnh tu, nhập thất, viết lách, hành trì tu niệm mỗi năm trên dưới 2 tháng. Tám lần trước ở tại thất Đa Bảo vùng Capelltown cách Sydney chừng 40 cây số. Nơi ấy tôi cũng đã hoàn thành một số tác phẩm và dịch phẩm đã được xuất bản tại ngoại quốc trong những năm qua. Năm nay 2011, Hòa Thượng Phương Trượng chùa Pháp Bảo Thích Bảo Lạc lại đã cho di dời Tu viện Đa Bảo về vùng Blue Mountains nầy; nơi có nhiều núi đồi và phong cảnh thiên nhiên thật tuyệt đẹp. Từ Sydney đến đây bằng xe hơi, lái độ 2 giờ đồng hồ, mặc dầu đoạn đường chỉ 135 cây số. Vì là đường đèo quanh co uốn khúc, khó chạy nhanh hơn được.

Địa điểm mới nầy có hai căn nhà, một cũ và một mới. Căn nhà mới, chủ cũ xây để làm chỗ nghỉ dưỡng sức cho những người lớn tuổi; nên rất đầy đủ tiện nghi; không khác gì Âu-Mỹ mấy, mặc dầu đây là vùng đồi núi, nằm cách mặt biển độ 1.000 mét. Vì vậy về đêm nhiệt độ xuống thấp và ban ngày có khí hậu mát mẻ như vùng Đà Lạt của Việt Nam.

Căn nhà thứ 2 nằm trên đồi, đã cũ; nhưng nhìn xuống phía dưới đồi thì quá tuyệt vời, cả một vùng trời mênh mông vô tận với cảnh trí thiên nhiên thật tuyệt hảo. Có nhiều buổi chiều khi sương xuống hay buổi sáng lúc sương chưa tan, từ ngôi nhà nầy, cảm thấy như mình đang ở trên mây và hòa cùng với thiên nhiên như là một cảnh Tiên không khác.

Nhà ở đây xây theo lối Âu Châu nên có cả 2 hệ thống sưởi; một bằng gas và hai bằng củi. Tôi thích nhất là đốt củi để nhìn lửa tí tách thay nhau cháy trong lò, mình cảm thấy ấm lòng, khi bên ngoài trời màn đêm đã buông xuống. Cũng chính từ đồi nầy, năm nay tôi biên soạn tác phẩm thứ 59 nầy.

Năm 2010 tôi và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch chung với nhau quyển sách bằng tiếng Anh nhan đề là "Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ“. Chính quyển sách nầy là động cơ để tôi đi tiếp 3 tác phẩm theo sau. Tôi không ngờ, chỉ dịch sách trong sự tình cờ, mà khám phá ra được Tịnh Độ Tông của Tây Tạng. Đây là nguồn cảm hứng để tôi đi sâu vào Tịnh Độ. Trước đó mấy năm, tôi đã dịch "Tịnh Độ Tông Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt; nhưng dường như cũng chưa đầy đủ cho sự nghiên cứu của mình; cho nên năm nay (2011) tôi có bảo Thầy Hạnh Giả là đệ tử, tìm cho Thầy một quyển sách nào bằng tiếng Đức có liên quan với Tịnh Độ để Thầy dịch ra tiếng Việt. Thầy ấy đưa cho tôi 2 quyển. Một quyển của tác giả Schumann; ông nầy là một học giả Phật Giáo người Đức rất giỏi về tiếng Pali và Sanskrit; sau khi đọc tác phẩm về Phật Giáo của ông ta, tôi thấy tiếng Sanskrit nhiều quá, không hiểu hết; nên đã biên thư nhờ Giáo sư Lê Mạnh Thát giúp đỡ. Thầy ấy trả lời thuận; nhưng sau đó tôi cảm thấy nhiêu khê quá, vì 2 ngôn ngữ nầy vốn không phải là phần chuyên môn của mình; nên tôi lại không tiếp tục và không dám làm phiền Thầy ấy nữa.

Quyển thứ 2 nhan đề tiếng Đức là: "Những bản kinh căn bản của Tịnh Độ Tông (A Di Đà) Nhật Bản“ của Christian Steineck. Đây là một luận án Tiến sĩnghiên cứu, chú thích kỹ càng. Phần cuối sách có giải thích chữ Hán, Nhật ngữ ra Đức ngữ, rất tiện lợi. Do vậy tôi đã chấp nhận dịch tác phẩm thứ 58 từ trong mùa An Cư Kiết Hạ năm nay để khi sang Úc thì dịch phẩm ấy đã hoàn thành, chỉ cần giảo chánh lại và đánh máy nữa mà thôi.

Một bản dịch đặc biệt khác có liên quan đến Tịnh ĐộPhật Giáo Việt Nam; đó là luận án Tiến sĩ của Thầy Hạnh Giả, là đệ tử xuất gia của tôi và cũng đang dạy về Phân khoa Tôn Giáo Học tại Đại Học Hannover cho những sinh viên người Đức với nhan đề là „Tang Lễ của Phật Giáo Việt Nam tại Đức - Sự duy trìthích nghi tại Hải Ngoại. Dĩ nhiên là chính Thầy ấy dịch ra tiếng Việt có sự trợ lực giảo chánh của tôi để câu văn tiếng Việt nhuần nhuyễn hơn và đây không phải chỉ nói thuần về vấn đề chết chóc, tang ma, mà qua những lễ nghi ấy, người Phật Tử Việt Nam đã gìn giữ phong tục nầy theo truyền thống Tịnh Độ, vốn đã hội nhập và thích nghi với xã hội người Việt ở trong nước cũng như ở tại xứ Đức.

Như vậy tác phẩm nầy là tác phẩm thứ 59 hoàn toàn bằng tiếng Việt; nhưng có tham cứu nhiều ở Phật Quang Đại Từ Điển, quyển nầy do Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch và Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản. Đây là một quyển Từ Điển đầy đủ nhất trong những loại từ điển Phật Học khác. Ước vọng của tôi trong quyển „Tư Tưởng Tịnh Độ Tông“ nầy là mong muốn hệ thống hóa về cách truyền thừa của các vị Tổ Sư Trung Hoa, Nhật Bản, Tây TạngViệt Nam để người Phật Tử có một cái nhìn toàn diện hơn. Dĩ nhiên là sẽ còn nhiều sự phát hiện rõ ràng và tỉ mỉ hơn nữa về sau nầy; nhưng tôi mong mỏi thiết lập sơ khởi như vậy, để gọi là viên gạch lót đường đầu tiên cho vấn đề nầy.

Tư Tưởng Tịnh Độ lấy 3 kinh Tịnh Độ làm chính. Đó là kinh Vô Lượng Thọ (Đại Bản A Di Đà); kinh Quán Vô Lượng Thọkinh A Di Đà (Tiểu Bản A Di Đà) và triển khai những sáng tác, bình luận, soạn thuật của các vị Tổ của những nước trên về quán niệm của sự vãng sanh trong thời mạt pháp nầy, để từ đó, tôi đưa ra một đề nghị (xin xem Chương thứ VIII – Con Đường Tịnh Độ) cho những người tu theo Tịnh Độ Tông Việt Nam có một lập luận vững vàng khi thực hành pháp môn nầy.

Xưa nay đa phần chúng ta lệ thuộc văn hóa Trung Hoa không ít, trong đó kể cả văn hóa Phật Giáo. Cho nên với tác phẩm nầy,tôi đã hệ thống hóa tư tưởng Tịnh Độ trực tiếp từ Ấn Độ qua Tổ Sư Long ThọTổ Sư Thế Thân, kế tục là Ngài Đàm Hoằng, Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam; chứ không qua ngã Trung Hoa như Thiền Tông vốn dĩ đã có lâu nay mà Việt Nam chúng ta đã thừa kế.

Tôi cũng không có một ý nghĩ hoang tưởng nào khi biên tập tác phẩm nầy. Vì lẽ: nếu không có bắt đầu thì sẽ không có cái cuối cùng. Đó là tục ngữ Đức (Ohne Anfang Ohne Ende). Do vậy những gì muốn nói, tôi đã nói hết trong tác phẩm nầy và những gì muốn viết, tôi cũng đã viết hết rồi. Chỉ mong rằng người đọc, kể cả các bậc cao minh, xin chỉ cho những chỗ thừa hay thiếu, để từ đó tác giả sửa đổi lại khi có lần tái bản sắp tới.

Dịch, viết, sáng tác từ ngôn ngữ cho đến thơ văn v.v… nó là một niềm vui và là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Do đó quan điểm nào đó được nhiều người hưởng ứng, quả là điều hân hạnh cho tác giả; nếu ngược lại chẳng có ai theo và không tán thành, thì đó chỉ là ý kiến của cá nhân người sinh ra tác phẩm ấy mà thôi. Thành kính cảm niệm công đức những vị nào đã để mắt ghé vào đọc tác phẩm nầy. Nếu có những lỗi nông nổi bất cập nào đó, thì tác giả xin nhận trách nhiệm về mình.

Năm 2012 sẽ xuất bản 3 tác phẩm liên quan về Tịnh Độ như đã thưa trên. Tất cả đều được in ấn tống với sự tùy hỷ đóng góp cúng dường của quý Đạo Hữu Phật Tử xa gần, từ châu Úc đến châu Âu và châu Mỹ. Quyển "Tư Tưởng Tịnh Độ Tông“ nầy dự định in 5.000 cuốn và mong rằng sau khi đọc, gấp sách lại, quý Ngài và quý Vị còn lưu lại một vài vấn đề gì đó quan trọng nơi tâm thức của mình; quả là hân hạnh cho người viết biết bao.

Xin cảm ân quý Thầy, quý Cô, quý Đạo Hữu, quý Phật Tử đã chịu khó bỏ công đánh máy, xem xét lại bài vở, layout, trang trí hình bìa sách, chuyên chở, phân phát đến từng địa phương trên các châu lục. Nếu không có quý vị thì bản cảo của sách nầy cũng vẫn còn nằm nguyên vẹn trên bàn viết mà thôi. Tất cả mọi công đức xin được khắc ghi vào lòng và xin niệm ân tất cả chư vị.

 

 Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

 

 Núi đồi Đa Bảo vùng Blue Mountains

 ngày 5 tháng 12 năm 2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 669)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 794)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1748)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1160)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 971)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 818)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 949)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1174)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1069)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1254)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant