Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tư tưởng Tịnh Độ Tông

17 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 39224)
Tư tưởng Tịnh Độ Tông
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

Hòa Thượng THÍCH NHƯ ĐIỂN biên soạn

tutuongtinhdotong-thichnhudien

Bắt đầu viết sách nầy vào ngày 1 tháng 11 năm 2011

tại Tu Viện Đa Bảo vùng Blue Mountains, Úc Đại Lợi,

nhân lần tịnh tu, nhập thất lần thứ 9.

 

Viết xong 418 trang khổ A4

vào ngày 1 tháng 12 năm 2011 tại Tu Viện Đa Bảo

Mục Lục

 

l. Lời nói đầu

I. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử

 A.- Tư tưởng của kinh A Di Đà

 B.- Tư tưởng kinh Vô Lượng Thọ

 C.- Tư tưởng kinh Quán Vô Lượng Thọ

 

II. Tịnh Độ Tông của Ấn Độ

 A.- Ngài Long Thọtư tưởng Tịnh Độ

 B.- Ngài Thế Thântư tưởng Tịnh Độ

 

III. Tịnh Độ Tông của Trung Hoa

 A.- Ngài Đàm Loantư tưởng Tịnh Độ

 B.- Ngài Đạo Xướctư tưởng Tịnh Độ

 C.- Ngài Thiện Đạotư tưởng Tịnh Độ

 

IV. Tịnh Độ Tông của Nhật Bản

 A.- Ngài Nguyên Tíntư tưởng Tịnh Độ

 B.- Ngài Nguyên Khôngtư tưởng Tịnh Độ

 C.- Ngài Thân Loantư tưởng Tịnh Độ

 

V. Tịnh Độ Tông của Tây Tạng

 Tư tưởng Tịnh Độ của phái Cổ Mật

 

VI. Phật Giáo thời kỳ đầu của người Âu-Mỹ

 Tư tưởng Đại ThừaTịnh Độ Tông

 

VII. Tịnh Độ Tông của Việt Nam

A.- Ngài Đàm Hoằngtư tưởng Tịnh Độ

B.- Ngài Thiền Tâmtư tưởng Tịnh Độ

C.- Tư tưởng Tịnh Độ thời hiện đại

 

VIII. Con đường Tịnh Độ

 Rút tỉa những kinh nghiệmquán triệt tư tưởng Tịnh Độ đối với Phật Tử Việt Nam

 

IX. Cùng một tác giả

 

X. Phương danh cúng dường

 Đọc sách PDF

Lời nói đầu

Nước Úc là một lục địa hay nói đúng hơn là một đảo quốc to lớn rộng rãi, ít ai có thể hình dung ra được. Ngay cả những người ở đây lâu năm họ vẫn chưa đi hết đảo quốc nầy. Nói là đảo quốc, bởi vì đất đai ở đây bị ngăn cách bởi Ấn Độ Dương và phía Nam đảo quốc nầy là khoảng trời nước mênh mông giáp giới với Nam Cực. Phía Tây cũng như phía Đông cách xa các quốc gia nằm lân cận mình.

Nếu hỏi độ lớn của quốc gia nầy là bao nhiêu thì xin thưa: Hãy nhìn vào bản đồ thế giới để thấy rằng cả lục địa Âu Châu đem bỏ vào nước Úc vẫn chưa lớn bằng. Nước nầy ngang tầm to lớn như Hoa Kỳ và Canada; nhưng dân cư tại đây chỉ trên dưới 30 triệu người, nghĩa là chỉ bằng dân số một phần mười của nước Mỹ.

Nước là một yếu tố để quyết định cho sự sống của con người nơi đây; nên chính phủ giới hạn tối đa việc nhập cư vào quốc gia nầy. Tài nguyên thiên nhiên, đất đai, thổ sản tại nước nầy còn nhiều lắm, chưa khai thác hết. Có lẽ chính phủ họ để dự bị cho một tương lai lâu dài. Vì lục địa nầy cũng chỉ mới phát triển trên 200 năm trở lại đây mà thôi.


 

Ở đây đa phần là rừng núi và cây bạch đàn cũng như Kanguru; đi đâu cũng thấy và ở đâu cũng gặp. Xứ Nam Phương nầy có rất nhiều cái hay cái lạ của nó, mà ai phải đến đây rồi mới tiếp nhận được những tia nắng mặt trời rọi chiếu như thế nào ở vùng Nam Bán Cầu nầy; dĩ nhiên là nó khác Phi Châu, Mỹ Châu, Âu Châu và ngay cả Á Châu nữa.

Tôi đã có nhân duyên đến nước nầy từ năm 1979; nếu tính đến nay (2011) cũng đã là 32 năm rồi. Trong 32 năm ấy hầu như năm nào tôi cũng có một cho đến 2 lần đến thăm nước nầy. Lý dovấn đề Phật Pháp cũng như khí hậu. Con người khi xa quê hương, hay nghĩ nhớ đến quê hương rất nhiều; nhất là lúc về già. Do vậy người ta phải đi tìm một quê hương khác, nơi ấy có cái gì đó có thể bổ sung hay thay thế cho quê hương mình, nên tôi đã đến đây nhiều lần là vậy. Tại đây có ổi, mít, chôm chôm, măng cụt, xoài, sầu riêng, bưởi, chuối, rau muống, rau mồng tơi v.v... và tại đây cũng có một Cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản từ 1975 đến nay cũng đã lên đến 200.000 người.

Từ năm 2003 đến nay đã 9 lần tôi đến Úc để tịnh tu, nhập thất, viết lách, hành trì tu niệm mỗi năm trên dưới 2 tháng. Tám lần trước ở tại thất Đa Bảo vùng Capelltown cách Sydney chừng 40 cây số. Nơi ấy tôi cũng đã hoàn thành một số tác phẩm và dịch phẩm đã được xuất bản tại ngoại quốc trong những năm qua. Năm nay 2011, Hòa Thượng Phương Trượng chùa Pháp Bảo Thích Bảo Lạc lại đã cho di dời Tu viện Đa Bảo về vùng Blue Mountains nầy; nơi có nhiều núi đồi và phong cảnh thiên nhiên thật tuyệt đẹp. Từ Sydney đến đây bằng xe hơi, lái độ 2 giờ đồng hồ, mặc dầu đoạn đường chỉ 135 cây số. Vì là đường đèo quanh co uốn khúc, khó chạy nhanh hơn được.

Địa điểm mới nầy có hai căn nhà, một cũ và một mới. Căn nhà mới, chủ cũ xây để làm chỗ nghỉ dưỡng sức cho những người lớn tuổi; nên rất đầy đủ tiện nghi; không khác gì Âu-Mỹ mấy, mặc dầu đây là vùng đồi núi, nằm cách mặt biển độ 1.000 mét. Vì vậy về đêm nhiệt độ xuống thấp và ban ngày có khí hậu mát mẻ như vùng Đà Lạt của Việt Nam.

Căn nhà thứ 2 nằm trên đồi, đã cũ; nhưng nhìn xuống phía dưới đồi thì quá tuyệt vời, cả một vùng trời mênh mông vô tận với cảnh trí thiên nhiên thật tuyệt hảo. Có nhiều buổi chiều khi sương xuống hay buổi sáng lúc sương chưa tan, từ ngôi nhà nầy, cảm thấy như mình đang ở trên mây và hòa cùng với thiên nhiên như là một cảnh Tiên không khác.

Nhà ở đây xây theo lối Âu Châu nên có cả 2 hệ thống sưởi; một bằng gas và hai bằng củi. Tôi thích nhất là đốt củi để nhìn lửa tí tách thay nhau cháy trong lò, mình cảm thấy ấm lòng, khi bên ngoài trời màn đêm đã buông xuống. Cũng chính từ đồi nầy, năm nay tôi biên soạn tác phẩm thứ 59 nầy.

Năm 2010 tôi và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch chung với nhau quyển sách bằng tiếng Anh nhan đề là "Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ“. Chính quyển sách nầy là động cơ để tôi đi tiếp 3 tác phẩm theo sau. Tôi không ngờ, chỉ dịch sách trong sự tình cờ, mà khám phá ra được Tịnh Độ Tông của Tây Tạng. Đây là nguồn cảm hứng để tôi đi sâu vào Tịnh Độ. Trước đó mấy năm, tôi đã dịch "Tịnh Độ Tông Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt; nhưng dường như cũng chưa đầy đủ cho sự nghiên cứu của mình; cho nên năm nay (2011) tôi có bảo Thầy Hạnh Giả là đệ tử, tìm cho Thầy một quyển sách nào bằng tiếng Đức có liên quan với Tịnh Độ để Thầy dịch ra tiếng Việt. Thầy ấy đưa cho tôi 2 quyển. Một quyển của tác giả Schumann; ông nầy là một học giả Phật Giáo người Đức rất giỏi về tiếng Pali và Sanskrit; sau khi đọc tác phẩm về Phật Giáo của ông ta, tôi thấy tiếng Sanskrit nhiều quá, không hiểu hết; nên đã biên thư nhờ Giáo sư Lê Mạnh Thát giúp đỡ. Thầy ấy trả lời thuận; nhưng sau đó tôi cảm thấy nhiêu khê quá, vì 2 ngôn ngữ nầy vốn không phải là phần chuyên môn của mình; nên tôi lại không tiếp tục và không dám làm phiền Thầy ấy nữa.

Quyển thứ 2 nhan đề tiếng Đức là: "Những bản kinh căn bản của Tịnh Độ Tông (A Di Đà) Nhật Bản“ của Christian Steineck. Đây là một luận án Tiến sĩnghiên cứu, chú thích kỹ càng. Phần cuối sách có giải thích chữ Hán, Nhật ngữ ra Đức ngữ, rất tiện lợi. Do vậy tôi đã chấp nhận dịch tác phẩm thứ 58 từ trong mùa An Cư Kiết Hạ năm nay để khi sang Úc thì dịch phẩm ấy đã hoàn thành, chỉ cần giảo chánh lại và đánh máy nữa mà thôi.

Một bản dịch đặc biệt khác có liên quan đến Tịnh ĐộPhật Giáo Việt Nam; đó là luận án Tiến sĩ của Thầy Hạnh Giả, là đệ tử xuất gia của tôi và cũng đang dạy về Phân khoa Tôn Giáo Học tại Đại Học Hannover cho những sinh viên người Đức với nhan đề là „Tang Lễ của Phật Giáo Việt Nam tại Đức - Sự duy trìthích nghi tại Hải Ngoại. Dĩ nhiên là chính Thầy ấy dịch ra tiếng Việt có sự trợ lực giảo chánh của tôi để câu văn tiếng Việt nhuần nhuyễn hơn và đây không phải chỉ nói thuần về vấn đề chết chóc, tang ma, mà qua những lễ nghi ấy, người Phật Tử Việt Nam đã gìn giữ phong tục nầy theo truyền thống Tịnh Độ, vốn đã hội nhập và thích nghi với xã hội người Việt ở trong nước cũng như ở tại xứ Đức.

Như vậy tác phẩm nầy là tác phẩm thứ 59 hoàn toàn bằng tiếng Việt; nhưng có tham cứu nhiều ở Phật Quang Đại Từ Điển, quyển nầy do Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch và Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản. Đây là một quyển Từ Điển đầy đủ nhất trong những loại từ điển Phật Học khác. Ước vọng của tôi trong quyển „Tư Tưởng Tịnh Độ Tông“ nầy là mong muốn hệ thống hóa về cách truyền thừa của các vị Tổ Sư Trung Hoa, Nhật Bản, Tây TạngViệt Nam để người Phật Tử có một cái nhìn toàn diện hơn. Dĩ nhiên là sẽ còn nhiều sự phát hiện rõ ràng và tỉ mỉ hơn nữa về sau nầy; nhưng tôi mong mỏi thiết lập sơ khởi như vậy, để gọi là viên gạch lót đường đầu tiên cho vấn đề nầy.

Tư Tưởng Tịnh Độ lấy 3 kinh Tịnh Độ làm chính. Đó là kinh Vô Lượng Thọ (Đại Bản A Di Đà); kinh Quán Vô Lượng Thọkinh A Di Đà (Tiểu Bản A Di Đà) và triển khai những sáng tác, bình luận, soạn thuật của các vị Tổ của những nước trên về quán niệm của sự vãng sanh trong thời mạt pháp nầy, để từ đó, tôi đưa ra một đề nghị (xin xem Chương thứ VIII – Con Đường Tịnh Độ) cho những người tu theo Tịnh Độ Tông Việt Nam có một lập luận vững vàng khi thực hành pháp môn nầy.

Xưa nay đa phần chúng ta lệ thuộc văn hóa Trung Hoa không ít, trong đó kể cả văn hóa Phật Giáo. Cho nên với tác phẩm nầy,tôi đã hệ thống hóa tư tưởng Tịnh Độ trực tiếp từ Ấn Độ qua Tổ Sư Long ThọTổ Sư Thế Thân, kế tục là Ngài Đàm Hoằng, Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam; chứ không qua ngã Trung Hoa như Thiền Tông vốn dĩ đã có lâu nay mà Việt Nam chúng ta đã thừa kế.

Tôi cũng không có một ý nghĩ hoang tưởng nào khi biên tập tác phẩm nầy. Vì lẽ: nếu không có bắt đầu thì sẽ không có cái cuối cùng. Đó là tục ngữ Đức (Ohne Anfang Ohne Ende). Do vậy những gì muốn nói, tôi đã nói hết trong tác phẩm nầy và những gì muốn viết, tôi cũng đã viết hết rồi. Chỉ mong rằng người đọc, kể cả các bậc cao minh, xin chỉ cho những chỗ thừa hay thiếu, để từ đó tác giả sửa đổi lại khi có lần tái bản sắp tới.

Dịch, viết, sáng tác từ ngôn ngữ cho đến thơ văn v.v… nó là một niềm vui và là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Do đó quan điểm nào đó được nhiều người hưởng ứng, quả là điều hân hạnh cho tác giả; nếu ngược lại chẳng có ai theo và không tán thành, thì đó chỉ là ý kiến của cá nhân người sinh ra tác phẩm ấy mà thôi. Thành kính cảm niệm công đức những vị nào đã để mắt ghé vào đọc tác phẩm nầy. Nếu có những lỗi nông nổi bất cập nào đó, thì tác giả xin nhận trách nhiệm về mình.

Năm 2012 sẽ xuất bản 3 tác phẩm liên quan về Tịnh Độ như đã thưa trên. Tất cả đều được in ấn tống với sự tùy hỷ đóng góp cúng dường của quý Đạo Hữu Phật Tử xa gần, từ châu Úc đến châu Âu và châu Mỹ. Quyển "Tư Tưởng Tịnh Độ Tông“ nầy dự định in 5.000 cuốn và mong rằng sau khi đọc, gấp sách lại, quý Ngài và quý Vị còn lưu lại một vài vấn đề gì đó quan trọng nơi tâm thức của mình; quả là hân hạnh cho người viết biết bao.

Xin cảm ân quý Thầy, quý Cô, quý Đạo Hữu, quý Phật Tử đã chịu khó bỏ công đánh máy, xem xét lại bài vở, layout, trang trí hình bìa sách, chuyên chở, phân phát đến từng địa phương trên các châu lục. Nếu không có quý vị thì bản cảo của sách nầy cũng vẫn còn nằm nguyên vẹn trên bàn viết mà thôi. Tất cả mọi công đức xin được khắc ghi vào lòng và xin niệm ân tất cả chư vị.

 

 Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

 

 Núi đồi Đa Bảo vùng Blue Mountains

 ngày 5 tháng 12 năm 2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7824)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8948)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26116)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13796)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27959)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19845)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7763)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7609)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7465)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8025)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9740)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22725)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16916)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8545)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10389)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10562)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11252)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9887)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10554)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12700)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8796)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19856)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20814)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21364)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13431)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10557)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9532)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26753)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10737)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12119)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30882)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14126)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11134)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11086)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11239)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11627)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12725)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24035)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14904)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11628)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20247)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10606)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10373)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12264)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11487)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14285)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11942)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24603)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12339)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22259)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12550)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12715)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12621)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16810)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13740)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13030)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13486)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12568)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14467)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38442)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant