Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

09. Bố Thí Mong Cầu Siêu Tam Giới

30 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 10929)
09. Bố Thí Mong Cầu Siêu Tam Giới

TÌM HIỂU PHƯỚC BỐ THÍ

Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp


BỐ THÍ MONG CẦU SIÊU TAM GIỚI

Làm phước thiện bố thí, vật thí dầu ít, dầu nhiều cũng tốt, điều quan trọng tác ý thiện tâm hoan hỉ trước khi bố thí, đang khi bố thí và sau khi bố thí, cả ba giai đoạn thí chủđại thiện tâm trong sạch hoan hỉ chắc chắn phước thiện nhiều, có quả báu nhiều, nhất là sau khi bố thí xong, tâm niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy, phước thiện càng tăng trưởng, có quả báu vô lượnglâu dài.

Giai đoạn đang khi bố thí, tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng đóng vai trò quan trọng quyết định đại thiện tâm có hợp trí hay không hợp với trí. Thí chủ có nguyện vọng muốn đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, giải thoát khỏi tử sanh luân hồi, thí chủ nên thành tâm đọc bằng lời để cho mọi người nghe rõ chứng minh lời nói ấy.

Trường hợp làm phước thiện bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng, chư thí chủ cùng nhau đọc lời thông bạch đến chư Tỳ khưu Tăng được rõ; hoặc một người hướng dẫn chư thí chủ khác đọc theo.

Lễ Dâng Vật Thực (Bhattadāna)

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imaṃ saparivāraṃ bhattadānaṃ bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ dema.

Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imaṃ saparivāraṃ bhattadānaṃ paṭiggaṇhātu, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng đến chư Tỳ khưu Tăng những món vật thực cùng với các thứ vật dụng này.

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những món vật thực cùng với các thứ vật dụng này, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Chư thí chủ tự tay mình dâng những vật thực cùng với mọi vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi đã dâng xong, trở lại chỗ ngồi, mỗi người thành tâm phát nguyện:

Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước thiện bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này, được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Y Tắm Mưa (vassikasāṭikadāna)

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imāni sapari-vārāni vassikasāṭikadānāni .... (Bửu Long)... ārāme bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma.

Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imāni saparivārāni vassikasāṭikadānāni paṭiggaṇhātu, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya, hitāya, sukhāya.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng những y tắm mưa cùng với các thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng sẽ nhập hạ tại ngôi chùa..... (Bửu Long) .... .

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những y tắm mưa cùng với các thứ vật dụng này, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Những thí chủ tự tay mình dâng y tắm mưa, cùng những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư thí chủ trở lại chỗ ngồi của mình, mỗi người thành tâm phát nguyện rằng:

Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước thiện bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Y Kathina (Kathinacīvaradāna)

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imaṃ sapari-vāraṃ kathinacīvaraṃ .... (Bửu Long) ... ārāme bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma, kathinaṃ attharituṃ.

Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imaṃ saparivāraṃ kathinacīvaraṃ paṭiggaṇhātu, paṭiggaṇhitvā iminā kathinacīvarena kathinaṃ attharatu, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya, hitāya, sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng này, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt ba tháng tại ngôi chùa......... (Bửu Long).

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận y kathina cùng với các thứ vật dụng này, khi quý Ngài thọ nhận xong, xin quý Ngài làm lễ thọ y kathina với tấm y này, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Một thí chủ đại diện tự tay đem tấm y Kathina dâng đến chư Tỳ khưu Tăng; vị Ðại Trưởng Lão đại diện chư Tăng thọ nhận tấm y kathina để làm lễ thọ y kathina đúng theo luật của Ðức Phật đã ban hành.

Sau khi những thí chủ dâng tấm y Kathina cùng với những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng xong, trở về chỗ ngồi, mỗi người thành tâm phát nguyện rằng:

Idaṃ me kathinadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước thiện dâng y kathina này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Chỗ Ở (Senāsanadāna)

Làm lễ phước thiện bố thí chỗ ở như chùa, cốc,....

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imaṃ vihāraṃ kappiyakuṭiṃ kārāpetvā āgatānāgatassa catuddisassa saṃghassa sakkaccaṃ damma, kāyakāyapaṭibaddhehi phusitvā yathāsukhaṃ paribhuñjatha, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con cho xây cất một chỗ ở hợp pháp xong rồi, hôm nay, xin thành kính dâng đến chư Tỳ khưu Tăng tứ phương đã đến và chưa đến.

Kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận để làm nơi trú ngụ cho thân tâm được an lạc, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Tất cả thí chủ mỗi người thành tâm phát nguyện bằng lời rằng:

Idaṃ me vihāradānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước thiện bố thí chỗ ở thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Vật Thí (Dānavatthu)

Nói chung tất cả những thứ vật dụng đem boá thí đều gọi là Dānavatthu, lời dâng Dānavatthu như sau:

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imāni dāna-vatthūni bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma.

Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imāni dānavatthūni paṭiggaṇhātu, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng những thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng.

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những thứ vật dụng này, để cho tất cả chúng con được sự tiến hóa, sự lợi ích và sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Những thí chủ tự tay mình dâng những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi dâng xong, mỗi người thành tâm phát nguyện rằng:

Imāni me dānāni āsavakkhayāvahaṃ hontu.

Nguyện cầu phước thiện bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Những cách bố thí trên tạo phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài (vivaṭṭupanissitakusala). Khi nào chưa chứng đắc đến Niết Bàn giải thoát khổ sanh, khi ấy vẫn còn tử sanh luân hồi trong tam giới, đều hưởng được quả báu của phước thiện ấy trong cõi người, cõi trờicuối cùng tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Những thí chủ bố thí xong rồi đọc lên ý nguyện của mình mong cầu chứng ngộ Niết Bàn, chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp, ngõ hầu mong giải thoát khổ tái sanh trong ba giới bốn loài, đó là tịch diệt Niết Bàn. Ngày nào, còn phải tử sanh luân hồi trong tam giới, những thí chủ ấy cũng hưởng được mọi quả báu của phước thiện bố thí, nên được giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, v.v... trong cõi người, cõi trời; nhưng có điều đặc biệt, họ không say mê trong của cải, sự nghiệp ấy, không tham lam đắm đuối trong ngũ trần, bởi vì những thứ ấy không phải mục đích cứu cánh chính của họ, cho nên họ dễ dàng đem làm phước thiện bố thí, hoặc xả bỏ để xuất gia tu hành sớm mong giải thoát khổ sanh trong tam giới. Ðó là tính ưu việt của những thí chủ đọc lên ý nguyện mong cầu chứng ngộ Niết Bàn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 99)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 127)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 196)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 135)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 188)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 169)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 199)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 227)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 310)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 548)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 410)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 404)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 499)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 687)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 741)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 771)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 770)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 678)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 632)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 651)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 759)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 779)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 875)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 634)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 554)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 643)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 769)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 641)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 649)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 750)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 762)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 760)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 800)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 841)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 816)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1018)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 882)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1538)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 996)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1150)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 890)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1133)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1055)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1050)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1205)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1481)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1829)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1027)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1285)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1027)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 890)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1005)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1034)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1452)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1203)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1230)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 974)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1113)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1578)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant