Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Danh hiệu thứ hai: Nam-mô A-di-đà Phật

17 Tháng Chín 201200:00(Xem: 21654)
2. Danh hiệu thứ hai: Nam-mô A-di-đà Phật

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

IV.2. Danh hiệu thứ hai: NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

 Hiện nay, pháp môn niệm Phật ở nước ta tương đối phát triển, các chùa đều có tổ chức khóa tu niệm Phật dành cho Phật tử tại gia. Đa số Phật tử đều hiểu biết nhiều về hình tượng của A-di-đà Phật, nên người viết chỉ nêu thêm vài ý nghĩa để làm sáng tỏ hơn hình tượng của Ngài.

 A dịch là Vô.

 Di-đà dịch là Lượng.

 Phật dịch là Giác hoặc Trí.

 Từ trên mặt chữ, ta thấy danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Giác hoặc Vô Lượng Trí. “Vô Lượng” nghĩa là vốn chẳng thể nói. Không có gì chẳng phải là vô lượng: vô lượng công đức, vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng hảo v.v…

 Trong kinh A-di-đàĐại sư Cưu-ma La-thập dịch danh hiệu A-di-đà Phật thành Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ.

 Vô lượng Quang: biểu thị cho không gian

 Vô lượng Thọ: biểu thị cho thời gian

 Không gianthời gian biểu thị cho toàn thể hư không pháp giới, cũng là đức hiệu A-di-đà Phật.

  • Ý nghĩa hình tượng A-di-đà Phật.

 Chúng ta thấy hình tượng của Ngài thường là đứng. Tay trái cầm đài sený nghĩa như sau: Chúng sanh nào trong mười phương pháp giới phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật và phát nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài, thì trên cõi Tây phương Cực Lạc liền mọc lên một đóa hoa sen (có ghi tên họ của mình). Trước giờ phút lâm chung nếu người bệnh niệm danh hiệu của Ngài từ 1 đến 10 tiếng, thì Ngài cùng chư vị Thánh chúng từ cõi Tây phương Cực Lạc cầm hoa sen này hiện thân tiếp dẫn người đó vãng sanh Cực Lạc.

 Tay phải của Ngài duỗi thẳng xuống nhằm ý dìu dắt, nâng đỡ, khuyên tấn những chúng sanh còn đang mãi trầm luân trong biển sanh tử.

  • Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà.

 Kinh Bi Hoa, đức Phật nói rằng: “Về kiếp lâu xa có vị vua Vô Tránh Niệm đối trước đức Phật Bảo Tạng Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Mục đích là tạo nên một cõi nước thanh tịnh, tốt đẹp, để tiếp dẫn tất cả chúng sanh khổ nạn có tâm mong cầu vãng sanh nhằm về đó tu tập, mau chóng thành Phật”.

 Kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Tiền thân đức Phật A-di-đà là vị vua tên Nhiêu Ích, nghe đức Thế Tự Tại Vương Như Lai thuyết kinh giảng đạo, sanh tâm hoan hỷ, nên phát tâm xuất gia hiệu là Tỳ-kheo Pháp Tạng. Vì muốn tạo nên một cõi nước trong sạch, thanh tịnh, tốt đẹp để tiếp dẫn tất cả chúng sanh nào trong mười phương phát tâm niệm Phật nguyện sanh về nước Ngài, nên tỳ-kheo Pháp Tạng đối trước đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Nội dung mỗi một nguyện đều hàm ý vì lợi ích chúng sanh, cứu độ chúng sanh”.

 Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà, được pháp sư Tịnh Không gộp thu thành 4 chữ: “Tâm – Nguyện – Giải – Hạnh”.

- Tâm đức Phật A-di-đà là gì?

Phật dạy: “Chư Phật nhìn chúng sanh như những vị Phật. Còn chúng sanh nhìn chư Phật như những chúng sanh”. Chính vì thế, mà tâm của chư Phật lúc nào cũng chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, cung kính đối với tất cả chúng sanh.

 

 a_di_da_phat

 Nam mô A Di Đà Phật - ảnh minh họa

Vì “Phật Phật đạo đồng” nghĩa là tâm của đức Phật A-di-đà giống tâm đức Phật Thích-ca. Do đó chúng ta chỉ cần tìm hiểu tâm của đức Phật Thích-ca trong sinh hoạt đời sống hằng ngày khi còn tại thế, trong việc giáo hóa, trong cách ứng xử giao tiếp đối với chúng sanh. Tâm của Ngài luôn chân thành, bình đẳng, không phân biệt, từ bi, cung kính tất cả mọi người, trên từ các bậc vua chúa, các quan cho đến những người có thân phận thấp hèn nhất trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ (tiêu biểu: Phật độ người gánh phân tên Ni-đề, Phật độ kỹ nữ Ambapàlì v.v…). Vì Ngài biết rằng do nghiệp lựcquá khứ chi phối, nên mọi người đều mang một thân phận khác nhau, có người giàu sang, có người nghèo hèn, có người thông minh lanh lợi, có người ngu si đần độn, có người đẹp, có người xấu v.v… nhưng tất cả họ đều có chung một Phật tánh và đều có thể thành Phật như những vị Phật ở quá khứ.

Công hạnh của đức Từ Phụ sáng ngời như thế, chúng ta là những Phật tử đang và sẽ bước trên con đường khi xưa mà Ngài đã đi. Vậy trong cuộc sống hằng ngày khi đối nhân xử thế, tâm của chúng tachân thành, thanh tịnh, không phân biệt, từ bi, cung kính với người, với vật không? Hay là tâm luôn nhìn thấy lỗi lầm người này, nói xấu người kia, tâm luôn sân si nóng giận với mọi người xung quanh. Trong Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự Toàn Tập, pháp sư Tịnh Không giảng rằng: “Ai còn có đối lập, ai vẫn còn cảm thấy không thoải mái khi nhìn người khác, thấy lỗi người này, nói xấu người kia, nóng giận với mọi người xung quanh thì phải tự hiểu người đó không thể vãng sanh. Nhất định phải học sao cho thấy ai tâm của mình cũng hoan hỷ, mình quyết định chẳng hủy báng họ, nói xấu họ. Ai lăng nhục mình, hủy báng mình, người ta hãm hại mình, mình cũng hoan hỷ, vui vẻ. Vì họ đã thay mình tiêu nghiệp chướng, quyết định chẳng có oán hận mảy may, quyết định chẳng có ý niệm báo thù, thì ta mới có thể vãng sanh về Tây phương Cực Lạc. Tu hành, trọng yếu nhất là phải sửa đổi những hành vi, lời nói, việc làm sai lầm của mình, làm sao cho đúng với hành vi, lời nói, công hạnh của chư Phật. Đó là tâm của Phật”.

Ngày nay Phật tử phát tâm niệm danh hiệu Ngài, phát nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài thì ngoài vấn đề niệm Phật, trong cuộc sống chúng ta còn phải biết sửa đổi tâm tánh, tính tình. Như thế thì “nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”.

- Nguyện của A-di-đà Phật là gì?

Mười phương ba đời hết thảy chư Phật trong lúc tu hành hạnh Bồ-tát đạo, hoặc khi đã thành Phật, đều phát những đại nguyện khác nhau nhằm mục đích cứu độ tất cả chúng sanh trong mười phương. Nhưng quy nạp lại không ngoài bốn nguyện lớn, đức Thế Tôn gọi là Tứ hoằng thệ nguyện (Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn – Pháp môn vô lượng thệ nguyện học – Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành). Nhưng trong tất cả chư Phật, nhất định có một vị Phật được tất cả chư Phật tán thán, khen ngợi. Ví nhưthế gian mọi người đều cùng một học vị Tiến sĩ nhưng trong đó tất có một vị được nhiều người tôn trọng, kính phục. Phật pháp cũng vậy, trong tất cả chư Phật thì đức Phật A-di-đà được mười phương chư Phật tán thán. Cổ đức nói: “Mười phương ba đời (quá khứ - hiện tạivị lai) Phật, A-di-đà là bậc nhất”. Chính vì thế mà Thiện Đạo đại sư nói: “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di-đà bổn nguyện hải” (Sở dĩ Như Lai xuất hiện trong thế gian chỉ nhằm mục đích để nói biển bổn nguyện Di-đà). Bởi vì tâm tâm, nguyện nguyện của A-di-đà Phật một lòng luôn hướng về những chúng sanh đang khổ nạn, như mẹ hiền nhớ con thơ. Vì muốn cho chúng sanh có một hoàn cảnh, môi trường thật lý tưởng, tốt đẹp, hoàn mỹ, thanh tịnh, để chúng sanh vãng sanh về đó tu tập mau thành Phật. Ngài đã thăm viếng, học hỏi hai trăm mười ức cõi Phật, học những điều hay, chọn những thứ tốt để về xây dựng nên một thế giới Cực Lạc bậc nhất và đối trước Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời thệ nguyện. Trong mỗi một nguyện đều hàm nhiếp vì hết thảy chúng sanh khổ nạn. Có thể khẳng định rằng điều kiện vãng sanh về nước Ngài so với chư Phật trong mười phương là dễ dàng nhất, thành tựu quả vị lại cao nhất. Chính vì thế mà được chư Phật tán thán, khen ngợi.

Xã hội ngày nay, còn rất nhiều người khổ nạn, nghèo khó, bệnh tật, v.v… Là những người học Phật, một lòng niệm Phật cầu vãng sanh, tu hạnh giải thoát, thì trong đời sống hằng ngày khi gặp những người khổ nạn, nghèo khó, bệnh tật, v.v… chúng ta phải khởi tâm từ, tâm yêu thương, tâm chia sẻ, tâm giúp đỡ đối với những chúng sanh khổ nạn này. Thay mặt A-di-đà Phật hoàn thành một phần nhỏ những hạnh nguyện của Ngài đối với tất cả chúng sanh. Làm được như thế thì khi chúng ta phát tâm niệm danh hiệu Ngài mới tương ứng, cảm ứng đạo giao: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.

- Giải của A-di-đà Phật là gì?

Giải nghĩatrí tuệ. Tức là liễu giải chân tướng của nhân sanh và vũ trụ, liễu giải hết thảy người, sự, vật, giống như trí huệ của Phật, hiểu rõ mọi thứ, thấu hiểu mọi thứ, đối với mọi thứ chẳng mê hoặc điên đảo, xử sự, đãi người, tiếp vật chẳng sai lầm. Có như vậy thì mới có thể thực sự diễn nói cho người khác. Danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Quangtrí tuệ vô lượng, trí tuệ rốt ráo viên mãn. Không điều gì mà Phật chẳng biết, từ quá khứ vô lượng đến vị lai tột cùng Ngài đều thấy biết rõ ràng. Nhờ có trí tuệ vô lượng, viên mãn nên Ngài giáo hóa chúng sanh một cách dễ dàng và thuận tiện.

 Phàm phu chúng ta thường cho suy nghĩ, cách nhìn, cách làm của mình là đúng, là tiêu chuẩn. Nhưng trong kinh Phật nói, đợi đến khi nào chúng ta chứng đắc quả A-la-hán rồi, tức là khi đoạn được Kiến-Tư phiền não rồi, thì mới có thể tin vào ý nghĩ, cách nghĩ, cách nhìn của chính mình. Tông chỉ của đạo Phật là phá mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Mê là do vô minh che lấp, không phân biệt đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái. Chính vì thế đức Phật dạy, trong cuộc sống chúng ta cần phải có “trí tuệ làm sự nghiệp”, lấy “chánh kiến” cái thấy đúng đắn, hợp với chân lý trong Bát chánh đạo làm phương châm sống để tiến tu trên bước đường học Phật giải thoát.

 - Hành của A-di-đà Phật là gì?

 Hành nghĩa là đức hạnh. Đức là đạo đức. Hạnh là lời nói, cử chỉ hành vi. Lời nói cử chỉ hành vi của người có đức hạnh. Trong mười pháp giới (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, A-tu-la, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật), thì người có phẩm chất đức hạnh bậc nhất là Phật, không ai vượt qua. Chính vì thế mà trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật Thích-ca tán thán A-di-đà Phật. Nghĩa là Phật Thích-ca thay mặt mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai tán thán A-di-đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (tôn quý nhất trong các quang minh, là vua của các Phật), tán thán đến cùng cực. Lại ví đức hạnh của A-di-đà Phật sáng như mặt trăng ngày rằm, soi chiếu, xoa dịu đến tất cả chúng sanh đang trầm luân trong biển sanh tử.

Hiện nay, người niệm Phật rất nhiều, ai cũng biết điều kiện để vãng sanh về Tây phương Cực Lạc là phải có đầy đủ Tín – Nguyện – Hạnh. Nhưng Hòa thượng Tịnh Không nói rằng, trong một vạn người niệm Phật thì chỉ có hai, ba người vãng sanh. Đó là bởi do nguyên nhân gì? Trong Chú giải Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Quán Đảnh đại sư nói rằng: “Người niệm danh hiệu A-di-đà Phật có 100 thứ quả báo, trong đó cái quả báo đầu tiên là đọa địa ngục”. Ngài giải thích, bởi vì người niệm Phật khởi tâm động niệm lời nói hành vi hoàn toàn trái với Phật pháp. Nghĩa là họ nói xấu người này, nhìn lỗi người kia, hay sân si, nóng giận với người xung quanh. Vô tình hay cố ý, họ đã phá hủy hình ảnh tốt đẹp của Phật giáo, của người tu hành, người niệm Phật. Người chưa học Phật nhìn thấy như thế không còn dám học Phật nữa, không còn dám đi chùa nữa. Người học Phật, niệm Phật giống như con dao hai lưỡi, nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày chúng ta dùng “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của A-di-đà Phật làm “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của chính mình, ta phải là tấm gương tốt nhất cho mọi người xung quanh học theo, noi theo. Gia đình ta là tấm gương tốt nhất cho mọi gia đình trong xã hội học theo. Được vậy, thì công đức của ta rất lớn, người khác nhìn thấy như thế là vô tình chúng ta đã độ họ, chuyển hóa họ. Họ tìm đến đạo Phật, học Phật, chủng tử Phật tánh từ đây là sinh chồi, nảy mầm, lên cây, kết trái, giải thoát sanh tử. Công đức từ đây mà sanh ra. Ngược lại, nếu như mọi người xung quanh nhìn thấy ta còn những đức tính không tốt, tham lam, nóng giận, nói xấu người này, nhìn lỗi người kia, v.v…, họ không dám học Phật, vì nghĩ rằng đạo Phật không có gì tốt, đi chùa không có gì hay. Chủng tử Phật tánh bị vùi lấp thêm ngày càng dày, càng sâu. Tội chúng ta từ đây mà hình thành. Do đó trong phần khai thị, Ngài nói rằng: “Đối với người học Phật. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, lễ Phật, gõ mõ. Vậy thì không phải, đó chỉ là một phần biểu hiện của sự tu hành, dáng vẻ bên ngoài. Thực chất chính là ngay trong cuộc sống hằng ngày, trong đối nhân xử thế, đem ân ân oán oán từ vô lượng kiếp hóa giải. Đây gọi là chân thật tu hành”. Khi đó chúng ta phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật thì sẽ cảm ứng đạo giao, tương ứng với Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1254)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1619)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1741)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1305)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 997)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1306)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1791)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1357)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1460)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1287)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2587)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1280)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1305)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1587)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2511)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1513)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1332)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1304)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1505)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1427)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1569)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1601)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1850)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1518)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1857)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1354)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1630)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1485)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1450)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1167)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1545)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1406)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1554)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1799)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant