Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Danh hiệu thứ hai: Nam-mô A-di-đà Phật

17 Tháng Chín 201200:00(Xem: 21653)
2. Danh hiệu thứ hai: Nam-mô A-di-đà Phật

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

IV.2. Danh hiệu thứ hai: NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

 Hiện nay, pháp môn niệm Phật ở nước ta tương đối phát triển, các chùa đều có tổ chức khóa tu niệm Phật dành cho Phật tử tại gia. Đa số Phật tử đều hiểu biết nhiều về hình tượng của A-di-đà Phật, nên người viết chỉ nêu thêm vài ý nghĩa để làm sáng tỏ hơn hình tượng của Ngài.

 A dịch là Vô.

 Di-đà dịch là Lượng.

 Phật dịch là Giác hoặc Trí.

 Từ trên mặt chữ, ta thấy danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Giác hoặc Vô Lượng Trí. “Vô Lượng” nghĩa là vốn chẳng thể nói. Không có gì chẳng phải là vô lượng: vô lượng công đức, vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng hảo v.v…

 Trong kinh A-di-đàĐại sư Cưu-ma La-thập dịch danh hiệu A-di-đà Phật thành Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ.

 Vô lượng Quang: biểu thị cho không gian

 Vô lượng Thọ: biểu thị cho thời gian

 Không gianthời gian biểu thị cho toàn thể hư không pháp giới, cũng là đức hiệu A-di-đà Phật.

  • Ý nghĩa hình tượng A-di-đà Phật.

 Chúng ta thấy hình tượng của Ngài thường là đứng. Tay trái cầm đài sený nghĩa như sau: Chúng sanh nào trong mười phương pháp giới phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật và phát nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài, thì trên cõi Tây phương Cực Lạc liền mọc lên một đóa hoa sen (có ghi tên họ của mình). Trước giờ phút lâm chung nếu người bệnh niệm danh hiệu của Ngài từ 1 đến 10 tiếng, thì Ngài cùng chư vị Thánh chúng từ cõi Tây phương Cực Lạc cầm hoa sen này hiện thân tiếp dẫn người đó vãng sanh Cực Lạc.

 Tay phải của Ngài duỗi thẳng xuống nhằm ý dìu dắt, nâng đỡ, khuyên tấn những chúng sanh còn đang mãi trầm luân trong biển sanh tử.

  • Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà.

 Kinh Bi Hoa, đức Phật nói rằng: “Về kiếp lâu xa có vị vua Vô Tránh Niệm đối trước đức Phật Bảo Tạng Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Mục đích là tạo nên một cõi nước thanh tịnh, tốt đẹp, để tiếp dẫn tất cả chúng sanh khổ nạn có tâm mong cầu vãng sanh nhằm về đó tu tập, mau chóng thành Phật”.

 Kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Tiền thân đức Phật A-di-đà là vị vua tên Nhiêu Ích, nghe đức Thế Tự Tại Vương Như Lai thuyết kinh giảng đạo, sanh tâm hoan hỷ, nên phát tâm xuất gia hiệu là Tỳ-kheo Pháp Tạng. Vì muốn tạo nên một cõi nước trong sạch, thanh tịnh, tốt đẹp để tiếp dẫn tất cả chúng sanh nào trong mười phương phát tâm niệm Phật nguyện sanh về nước Ngài, nên tỳ-kheo Pháp Tạng đối trước đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời nguyện. Nội dung mỗi một nguyện đều hàm ý vì lợi ích chúng sanh, cứu độ chúng sanh”.

 Hạnh nguyện của đức Phật A-di-đà, được pháp sư Tịnh Không gộp thu thành 4 chữ: “Tâm – Nguyện – Giải – Hạnh”.

- Tâm đức Phật A-di-đà là gì?

Phật dạy: “Chư Phật nhìn chúng sanh như những vị Phật. Còn chúng sanh nhìn chư Phật như những chúng sanh”. Chính vì thế, mà tâm của chư Phật lúc nào cũng chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, cung kính đối với tất cả chúng sanh.

 

 a_di_da_phat

 Nam mô A Di Đà Phật - ảnh minh họa

Vì “Phật Phật đạo đồng” nghĩa là tâm của đức Phật A-di-đà giống tâm đức Phật Thích-ca. Do đó chúng ta chỉ cần tìm hiểu tâm của đức Phật Thích-ca trong sinh hoạt đời sống hằng ngày khi còn tại thế, trong việc giáo hóa, trong cách ứng xử giao tiếp đối với chúng sanh. Tâm của Ngài luôn chân thành, bình đẳng, không phân biệt, từ bi, cung kính tất cả mọi người, trên từ các bậc vua chúa, các quan cho đến những người có thân phận thấp hèn nhất trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ (tiêu biểu: Phật độ người gánh phân tên Ni-đề, Phật độ kỹ nữ Ambapàlì v.v…). Vì Ngài biết rằng do nghiệp lựcquá khứ chi phối, nên mọi người đều mang một thân phận khác nhau, có người giàu sang, có người nghèo hèn, có người thông minh lanh lợi, có người ngu si đần độn, có người đẹp, có người xấu v.v… nhưng tất cả họ đều có chung một Phật tánh và đều có thể thành Phật như những vị Phật ở quá khứ.

Công hạnh của đức Từ Phụ sáng ngời như thế, chúng ta là những Phật tử đang và sẽ bước trên con đường khi xưa mà Ngài đã đi. Vậy trong cuộc sống hằng ngày khi đối nhân xử thế, tâm của chúng tachân thành, thanh tịnh, không phân biệt, từ bi, cung kính với người, với vật không? Hay là tâm luôn nhìn thấy lỗi lầm người này, nói xấu người kia, tâm luôn sân si nóng giận với mọi người xung quanh. Trong Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự Toàn Tập, pháp sư Tịnh Không giảng rằng: “Ai còn có đối lập, ai vẫn còn cảm thấy không thoải mái khi nhìn người khác, thấy lỗi người này, nói xấu người kia, nóng giận với mọi người xung quanh thì phải tự hiểu người đó không thể vãng sanh. Nhất định phải học sao cho thấy ai tâm của mình cũng hoan hỷ, mình quyết định chẳng hủy báng họ, nói xấu họ. Ai lăng nhục mình, hủy báng mình, người ta hãm hại mình, mình cũng hoan hỷ, vui vẻ. Vì họ đã thay mình tiêu nghiệp chướng, quyết định chẳng có oán hận mảy may, quyết định chẳng có ý niệm báo thù, thì ta mới có thể vãng sanh về Tây phương Cực Lạc. Tu hành, trọng yếu nhất là phải sửa đổi những hành vi, lời nói, việc làm sai lầm của mình, làm sao cho đúng với hành vi, lời nói, công hạnh của chư Phật. Đó là tâm của Phật”.

Ngày nay Phật tử phát tâm niệm danh hiệu Ngài, phát nguyện cầu vãng sanh về nước Ngài thì ngoài vấn đề niệm Phật, trong cuộc sống chúng ta còn phải biết sửa đổi tâm tánh, tính tình. Như thế thì “nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”.

- Nguyện của A-di-đà Phật là gì?

Mười phương ba đời hết thảy chư Phật trong lúc tu hành hạnh Bồ-tát đạo, hoặc khi đã thành Phật, đều phát những đại nguyện khác nhau nhằm mục đích cứu độ tất cả chúng sanh trong mười phương. Nhưng quy nạp lại không ngoài bốn nguyện lớn, đức Thế Tôn gọi là Tứ hoằng thệ nguyện (Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn – Pháp môn vô lượng thệ nguyện học – Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành). Nhưng trong tất cả chư Phật, nhất định có một vị Phật được tất cả chư Phật tán thán, khen ngợi. Ví nhưthế gian mọi người đều cùng một học vị Tiến sĩ nhưng trong đó tất có một vị được nhiều người tôn trọng, kính phục. Phật pháp cũng vậy, trong tất cả chư Phật thì đức Phật A-di-đà được mười phương chư Phật tán thán. Cổ đức nói: “Mười phương ba đời (quá khứ - hiện tạivị lai) Phật, A-di-đà là bậc nhất”. Chính vì thế mà Thiện Đạo đại sư nói: “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di-đà bổn nguyện hải” (Sở dĩ Như Lai xuất hiện trong thế gian chỉ nhằm mục đích để nói biển bổn nguyện Di-đà). Bởi vì tâm tâm, nguyện nguyện của A-di-đà Phật một lòng luôn hướng về những chúng sanh đang khổ nạn, như mẹ hiền nhớ con thơ. Vì muốn cho chúng sanh có một hoàn cảnh, môi trường thật lý tưởng, tốt đẹp, hoàn mỹ, thanh tịnh, để chúng sanh vãng sanh về đó tu tập mau thành Phật. Ngài đã thăm viếng, học hỏi hai trăm mười ức cõi Phật, học những điều hay, chọn những thứ tốt để về xây dựng nên một thế giới Cực Lạc bậc nhất và đối trước Thế Tự Tại Vương Như Lai phát 48 lời thệ nguyện. Trong mỗi một nguyện đều hàm nhiếp vì hết thảy chúng sanh khổ nạn. Có thể khẳng định rằng điều kiện vãng sanh về nước Ngài so với chư Phật trong mười phương là dễ dàng nhất, thành tựu quả vị lại cao nhất. Chính vì thế mà được chư Phật tán thán, khen ngợi.

Xã hội ngày nay, còn rất nhiều người khổ nạn, nghèo khó, bệnh tật, v.v… Là những người học Phật, một lòng niệm Phật cầu vãng sanh, tu hạnh giải thoát, thì trong đời sống hằng ngày khi gặp những người khổ nạn, nghèo khó, bệnh tật, v.v… chúng ta phải khởi tâm từ, tâm yêu thương, tâm chia sẻ, tâm giúp đỡ đối với những chúng sanh khổ nạn này. Thay mặt A-di-đà Phật hoàn thành một phần nhỏ những hạnh nguyện của Ngài đối với tất cả chúng sanh. Làm được như thế thì khi chúng ta phát tâm niệm danh hiệu Ngài mới tương ứng, cảm ứng đạo giao: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.

- Giải của A-di-đà Phật là gì?

Giải nghĩatrí tuệ. Tức là liễu giải chân tướng của nhân sanh và vũ trụ, liễu giải hết thảy người, sự, vật, giống như trí huệ của Phật, hiểu rõ mọi thứ, thấu hiểu mọi thứ, đối với mọi thứ chẳng mê hoặc điên đảo, xử sự, đãi người, tiếp vật chẳng sai lầm. Có như vậy thì mới có thể thực sự diễn nói cho người khác. Danh hiệu A-di-đà Phật dịch thành Vô Lượng Quangtrí tuệ vô lượng, trí tuệ rốt ráo viên mãn. Không điều gì mà Phật chẳng biết, từ quá khứ vô lượng đến vị lai tột cùng Ngài đều thấy biết rõ ràng. Nhờ có trí tuệ vô lượng, viên mãn nên Ngài giáo hóa chúng sanh một cách dễ dàng và thuận tiện.

 Phàm phu chúng ta thường cho suy nghĩ, cách nhìn, cách làm của mình là đúng, là tiêu chuẩn. Nhưng trong kinh Phật nói, đợi đến khi nào chúng ta chứng đắc quả A-la-hán rồi, tức là khi đoạn được Kiến-Tư phiền não rồi, thì mới có thể tin vào ý nghĩ, cách nghĩ, cách nhìn của chính mình. Tông chỉ của đạo Phật là phá mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Mê là do vô minh che lấp, không phân biệt đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái. Chính vì thế đức Phật dạy, trong cuộc sống chúng ta cần phải có “trí tuệ làm sự nghiệp”, lấy “chánh kiến” cái thấy đúng đắn, hợp với chân lý trong Bát chánh đạo làm phương châm sống để tiến tu trên bước đường học Phật giải thoát.

 - Hành của A-di-đà Phật là gì?

 Hành nghĩa là đức hạnh. Đức là đạo đức. Hạnh là lời nói, cử chỉ hành vi. Lời nói cử chỉ hành vi của người có đức hạnh. Trong mười pháp giới (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, A-tu-la, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật), thì người có phẩm chất đức hạnh bậc nhất là Phật, không ai vượt qua. Chính vì thế mà trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật Thích-ca tán thán A-di-đà Phật. Nghĩa là Phật Thích-ca thay mặt mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai tán thán A-di-đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (tôn quý nhất trong các quang minh, là vua của các Phật), tán thán đến cùng cực. Lại ví đức hạnh của A-di-đà Phật sáng như mặt trăng ngày rằm, soi chiếu, xoa dịu đến tất cả chúng sanh đang trầm luân trong biển sanh tử.

Hiện nay, người niệm Phật rất nhiều, ai cũng biết điều kiện để vãng sanh về Tây phương Cực Lạc là phải có đầy đủ Tín – Nguyện – Hạnh. Nhưng Hòa thượng Tịnh Không nói rằng, trong một vạn người niệm Phật thì chỉ có hai, ba người vãng sanh. Đó là bởi do nguyên nhân gì? Trong Chú giải Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Quán Đảnh đại sư nói rằng: “Người niệm danh hiệu A-di-đà Phật có 100 thứ quả báo, trong đó cái quả báo đầu tiên là đọa địa ngục”. Ngài giải thích, bởi vì người niệm Phật khởi tâm động niệm lời nói hành vi hoàn toàn trái với Phật pháp. Nghĩa là họ nói xấu người này, nhìn lỗi người kia, hay sân si, nóng giận với người xung quanh. Vô tình hay cố ý, họ đã phá hủy hình ảnh tốt đẹp của Phật giáo, của người tu hành, người niệm Phật. Người chưa học Phật nhìn thấy như thế không còn dám học Phật nữa, không còn dám đi chùa nữa. Người học Phật, niệm Phật giống như con dao hai lưỡi, nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày chúng ta dùng “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của A-di-đà Phật làm “Tâm – Nguyện – Giải – Hành” của chính mình, ta phải là tấm gương tốt nhất cho mọi người xung quanh học theo, noi theo. Gia đình ta là tấm gương tốt nhất cho mọi gia đình trong xã hội học theo. Được vậy, thì công đức của ta rất lớn, người khác nhìn thấy như thế là vô tình chúng ta đã độ họ, chuyển hóa họ. Họ tìm đến đạo Phật, học Phật, chủng tử Phật tánh từ đây là sinh chồi, nảy mầm, lên cây, kết trái, giải thoát sanh tử. Công đức từ đây mà sanh ra. Ngược lại, nếu như mọi người xung quanh nhìn thấy ta còn những đức tính không tốt, tham lam, nóng giận, nói xấu người này, nhìn lỗi người kia, v.v…, họ không dám học Phật, vì nghĩ rằng đạo Phật không có gì tốt, đi chùa không có gì hay. Chủng tử Phật tánh bị vùi lấp thêm ngày càng dày, càng sâu. Tội chúng ta từ đây mà hình thành. Do đó trong phần khai thị, Ngài nói rằng: “Đối với người học Phật. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, lễ Phật, gõ mõ. Vậy thì không phải, đó chỉ là một phần biểu hiện của sự tu hành, dáng vẻ bên ngoài. Thực chất chính là ngay trong cuộc sống hằng ngày, trong đối nhân xử thế, đem ân ân oán oán từ vô lượng kiếp hóa giải. Đây gọi là chân thật tu hành”. Khi đó chúng ta phát tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật thì sẽ cảm ứng đạo giao, tương ứng với Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4483)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2678)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5093)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3735)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3787)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3146)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4021)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4948)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3451)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6599)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3908)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3143)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2889)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5768)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4532)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3430)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2823)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3233)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4352)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5587)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6522)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3632)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4461)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4503)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3911)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3335)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4489)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5927)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5741)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3564)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4585)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4385)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4434)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4194)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4497)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8093)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3860)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5640)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5088)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6719)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6101)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5867)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5653)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6130)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6653)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4875)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5453)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6271)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3679)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5289)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10339)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5975)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9189)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6284)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5848)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7318)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7163)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5066)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 7937)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant