Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

17 Tháng Chín 201200:00(Xem: 17765)
1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

V. Ý NGHĨA CỦA NHỮNG VẬT ĐƯỢC THỜ CÚNG

 Phật giáo không phải là một Tôn giáo, mà là một nền giáo dục, giáo học thực tiễn, thiết thực nhất trong cuộc sống, nhằm mục đích giúp chúng sanh tu nhân học Phật, chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Chính vì thế, Phật giáo là một trường học, còn các danh hiệu Phật, Bồ-tát, cũng như những vật được thờ cúng như bông, trái cây, nước, nhang, đèn, v.v.. là các môn học trong trường. Nhằm tránh tình trạng cho rằng Phật giáo mê tín, dị đoan, chỉ biết van xin, cầu nguyện; cũng để giúp hàng Phật tử chúng ta hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu chân thật về nền giáo học của Phật giáo, người viết xin giải thích sơ lược về ý nghĩa của những vật được thờ cúng.

 V.1. Ý nghĩa của việc cúng hoa

Cúng hoa trước tượng Phật tượng trưng cho việc tu nhân. Thế gian hay Phật pháp đều không rời nhân quả, đều dựa trên nền tảng của nhân quả. Đa số các loại hoa cùng có chung mục đích, đó là tỏa ra hương thơm. Thấy hoa, chúng ta nghĩ ngay đến việc phải tu nhân thiện, bằng những việc làm có ích cho mọi người, mọi loài. Có thế, tương lai chúng ta mới gặt hái quả tươi tốt. Trong cuộc sống hằng ngày, khi ứng xử, giao tiếp với mọi người, ta cần phải tỏa ra hương thơm của đức hạnh, phẩm chất, làm tấm gương sáng cho người noi theo.

 

binhbongcungphat-thichhanhphu 

 

 Bình bông cúng Phật – ảnh minh họa

 

 Tham, sân, si là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Chính vì chưa hiểu được Phật pháp, nên Phật tử thường đến chùa thắp nhang cầu chư Phật, Bồ-tát gia hộ cho việc làm ăn được phát tài, được mạnh khỏe. Nhưng mấy ai được như ý! Phải chăng Phật, Bồ-tát không linh, không gia hộ, không che chở cho mình và gia đình? Trong kinh Đại thừa, đức Phật dạy: “vạn pháp giai không, nhân quả bất không” (Tất cả pháp đều không chân thật, đều hư giả, chỉ có nhân quảchân thật, đúng đắn). Nghĩa là, nhân quả của mỗi người thì tự mình thọ nhận, chứ chư Phật, Bồ-tát không thể giúp được. Thiện nhânthiện quả, ác nhânác báo, gieo gió nhất định gặp bão, ai ăn đấy no, ai tu đấy chứng, v.v… Trong Phật pháp đại thừa, hoa tượng trưng cho Lục độ vạn hạnh của Bồ-tát, tức Bố thíTrì giớiNhẫn nhụcTinh tấnThiền địnhBát nhã.

  • Thứ nhất là Bố thí: gồm:

a. Bố thí tài:

v Ngoại tài: chúng ta đem những tài sản như tiền bạc, những vật ngoài thân thể để giúp đỡ những người nghèo khó khổ, trong khả năng của mình có thể làm được.

v Nội tài: hiện nay trong xã hộichương trình hiến máu nhân đạo, Phật tử có thể hiến máu của mình cho những người bệnh; hoặc đem sức khỏe, thể lực, tinh thần của mình để phục vụ nghĩa công (làm những việc từ thiện) như trông nom chăm sóc những người bệnh, già, neo đơn v.v… Phật dạy: bố thí nội tài công đức lớn hơn bố thí ngoại tài. Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm với tâm từ bi, giúp đỡ, không mong cầu danh lợi, tiếng tăm, không cầu hồi báo, không mong sự biết ơn, không thấy mình thí, không thấy người nhận thí, không thấy vật để thí, thì công đức mới tròn đầy viên mãn. Đó gọi là Bố thí Ba-la-mật. Nếu Phật tử làm được hạnh bố thí như vậy thì kết quả sẽ được giàu sang, được nhiều người kính mến, yêu thương.

b.Bố thí pháp:

 Là đem tiền bạc của mình dùng vào việc ấn tống kinh sách, tượng Phật, biếu tặng đến mọi người. Hoặc đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quý báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác, đó là dùng khẩu giáo. Hoặc y theo giới luật của Phật mà tu hành thành thật, làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh…, đó đều là pháp thí, gọi là thân giáo. Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả tài thí, vì tài thí chỉ có thể giúp người khác lúc túng thiếu về phương diện vật chất trong một thời gian nhất định, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng pháp thí thì có thể giúp đỡ mọi người rất nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời nhiều kiếp về sau.

 c. Bố thí vô úy:

 Vô úy là không sợ hãi. Đem sự bình an, niềm vui, hạnh phúc đến mọi loài, như an ủi, phóng sanh. Cổ đức khuyên dạy ăn chayviệc làm tốt nhất đem đến sự không sợ hãi đến với chúng sanh. Phật tử làm được ba việc bố thí trên, như Bố thí tài sẽ được giàu sang. Bố thí pháp được thông minh, trí tuệ. Bố thí vô úy được khỏe mạnh, sống lâu.

 Bố thí còn được hiểu theo nghĩa rộng, là sự buông xả. Trên con đường tu tập, Phật tử muốn đạt giác ngộ, giải thoát khỏi lục đạo luân hồi, thì cách tốt nhất là buông xả năm món phiền não: tham lam, sân giận, ngu si, ngã mạn, nghi.

  • Thứ hai là Trì giới.

 Trì: là cầm lấy, giữ gìn.

 Giới: là răn dạy, phòng hộ.

 Trì giới nghĩa là giữ gìn những điều răn dạy, ngăn cấm; gìn giữ những giới luậtđức Phật đã chế ra để hướng dẫn các đệ tử của Ngài đi vào con đường chân chánh nhằm đạt đến quả vị giải thoát. Người Phật tử tại gia cần giữ gìn năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu). Đây là những điều căn bản của việc tu nhân học Phật. Nếu người chưa thọ giới thì giữ gìn những hiến chương, pháp luật của nhà nước đã qui định. Trong cuộc sống, chúng ta làm tròn nghĩa vụ của một người công dân, gương mẫu trong gia đìnhxã hội, hoàn thiện bản thân, để đạt đến chân-thiện-mỹ.

 Là Phật tử không chỉ giữ những giới cấm của đức Phật đã chế định như không sát sanh mà ngược lại còn phải phóng sanh những loài vật. Vì tất cả chúng sanh đều có bản chất ham sốngsợ chết, đều có chung một Phật tánh, đều có thể thành Phật. Do vậy Phật tử chúng ta cần giảm tối thiểu sự sát sanh trong từng bữa cơm gia đình.

 Chúng ta không nên lấy vật của người, vì sẽ gây đau khổ cho người khác, bởi trong cuộc sống ai cũng quý đồ vật của mình. Ngược lại, ta còn phải giúp đỡ người khác, ví như thấy những người nghèo khổ, bệnh tật, ta nên chia sẻ và đồng cảm với họ. Ca dao Việt Nam có những câu: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng, v.v…”

 Không tà dâm, nghĩa là trong gia đình thì vợ chồng sống phải có sự yêu thương, đoàn kết, thủy chungtin tưởng lẫn nhau, đối xử với nhau như những người bạn tâm giao, tri kỷ; không quan hệ tình ái với người khác, đánh mất đi hạnh phúc gia đình.

 Cuộc sống sẽ tốt đẹp, bình yên nếu như ai ai cũng nói lời yêu thương, hoan hỷ, nói lời thật. Vì đó là chân lý đem đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người xung quanh.

 Trong cuộc sống khi giao tiếp với mọi người đôi khi chúng ta cần phải sử dụng đến rượu, nhưng nên uống biết chừng mực, xã giao để không dẫn đến những tệ nạn xã hội.

 Phật dạy: “Không làm các điều ác. Siêng làm các việc lành” là nền tảng cốt tủy của đạo Phật. Đó là trì giới.

  • Thứ ba là Nhẫn nhục.

Nhẫn: là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng.

Nhục: là điều sỉ nhục, xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.

Người xưa viết chữ nhẫn () nhằm dụng ý rất lớn. Bên trên là chữ đao (- con dao) bên dưới là chữ tâm ( - con tim). Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành…

 Phật dạy: “Tất cả pháp (thế gianPhật pháp) muốn thành tựu, đều bắt đầu từ việc nhẫn nhục. Người có tâm nhẫn nhục ít thì thành tựu ít. Người có tâm nhẫn nhục nhiều, thành tựu lớn”. Ví nhưthế gian ngày xưa muốn đậu trạng nguyên thì phải khổ công đèn sách mười năm.

 Cổ đức dạy: Trong trăm hạnh thì Nhẫn nhục đứng đầu. Trăm đức, thì Từ bitrước tiên”. Chính vì thế, chúng ta cần phải noi theo những tấm gương đức hạnh nhẫn nhục của chư Phật, Bồ-tát. Trong phần giải thích ý nghĩa các danh hiệu Phật, Bồ-tát, chúng ta thấy có một điểm chung, đó là mỗi vị đều có đức tánh Nhẫn nhục. Đức Phật luôn khen ngợi, tán thán những ai thực hành tính Nhẫn nhục. Trong kinh, đức Phật Thích-ca nói rằng nguyên nhân Ngài thành Phật trước đức Phật Di-lặc cũng bởi vì hơn đức hạnh Nhẫn nhục này. Truyện kể dưới đây minh chứng điều đó:

Tiên Nhân Nhẫn Nhục[5]

Một hôm, ngài A-nan bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà ngài A-nhã Kiều-trần-như được nghe pháp đầu tiên?”.

Đức Phật dạy: Vào thời quá khứ xa xưa, có một nước rộng lớn, dân chúng đông đúc, giàu vui. Cai trị nước này là một nhà vua tên Ca-lợi rất ham chơi. Vào mùa xuân, trăm hoa đua nở, cây cối xanh tươi, khí hậu ấm áp vua cùng các quan đại thần, cung phi mỹ nữ, nhạc công đi vào rừng đàn hát, vui chơi, ăn uống và nghỉ trưa dưới bóng cây râm mát.

Trong lúc vua đang nghỉ thì các cung phi mỹ nữ đi hái hoa trái. Họ đi theo dòng suối nước chảy trong veo. Hai bên bờ suối có những cây cao lớn xanh tươi, nhiều hoa dại, trái ngon. Đi một đoạn, các cung nữ gặp một vị tiên nhân đang tọa thiền trên tảng đá, dưới tàng cây râm mát bên bờ suối. Các cung nữ hái hoa trái đem dâng cúng và quỳ xuống đảnh lễ ngài và xin ngài được nghe pháp. Vị tiên nhân từ bi thuyết pháp cho các cung nữ nghe. Lời thuyết pháp của vị tiên nhân rất hay làm cho các cung nữ nghe mê say, quên mất nhà vua. Nhà vua sau khi thức dậy không thấy các cung nữ nên cùng với các quan đại thần đi tìm. Đi ngược theo dòng suối một đoạn thì gặp các cung nữ đang quỳ xung quanh vị tiên nhân nghe pháp. Thấy thế lòng sân hận ghen tức của nhà vua nổi lên. Vua liền đến hỏi vị tiên nhân: “Ông ở đây làm gì?”.

Vị tiên nhân đáp: “Tôi ở đây tu hành”.

Vua hỏi: “Ông đã đạt được tứ thiền chưa?”

Tiên nhân đáp: “Chưa”.

Vua hỏi tiếp: “Ông đã đạt được tam thiền, nhị thiền hay sơ thiền chưa?”.

Tiên nhân đáp: “Chưa”.

Nhà vua liền nói: “Như vậy ông chưa chứng được quả Thánh, vẫn còn phàm phu, còn tham dục. Tại sao dám nói chuyện với các cung nữ?”.

Tiên nhân đáp: “Tôi tuy chưa ly dục, nhưng do nhiếp tâm thiền định nên dục niệm không khởi”.

Vua liền hỏi: “Đạo là gì?”.

Tiên nhân đáp: “Đạo là nhẫn nhục”.

Vua nói: “Nếu nhà ngươi nhẫn nhục thì cho ta xin hai cái lỗ tai”. Nhà vua vừa nói xong, tiên nhân liền cắt hai tai. Vẻ mặt tiên nhân vẫn không biến sắc. Nhà vua lại xin hai tay và tiên nhân liền chặt đứt hai tay. Thấy thế các quan can vua: “Xin bệ hạ chớ làm hại vị tiên nhân này. Vị tiên nhân này là đại sĩ, vì khi chặt tay nét mặt vẫn không thay đổi”.

Nhà vua lại càng giận hơn và nói: “Vậy để ta xin hai chân nữa coi có biến sắc không?” Vua liền chặt đứt hai chân tiên nhân, khiến máu chảy lai láng.

Tứ Thiên vương thấy vậy bất bình, nổi giông gió định đánh chết nhà vua. Vị tiên nhân ngửa mặt lên trời nói: “Xin các vị thần đừng làm hại vị vua này”.

Nhà vua thấy giông gió bão tố liền sợ nên quỳ xuống xin sám hối thưa rằng: “Xin ngài tha thứ cho tội lỗi của tôi. Xin đừng giận tôi”.

Vị tiên nhân nói: “Thật tình thì tôi không giận nhà vua”.

Nhà vua thưa: “Ngài nói không giận nhưng hiện tại thân thể ngài bị đứt lìa, máu me lai láng mà ngài nói không giận thì tôi không tin”.

Vị tiên nhân bèn phát nguyện rằng: “Xin mười phương chư Phật chứng minh. Nếu trong lòng tôi không giận nhà vua, thì xin cho thân tôi bình phục lại như cũ”. Lạ lùng thay, khi vị tiên nhân vừa phát nguyện xong thì máu biến thành sữa, thân thể bình phục lại như trước.

Nhà vua hỏi vị tiên nhân: “Ngài tu nhẫn nhục như vậy có ích gì?”.

Vị tiên nhân nói: “Mục đích cầu thành Phật để cứu độ chúng sanh”.

Nhà vua lễ báiphát nguyện: “Nếu khi ngài thành Phật thì xin độ tôi trước”.

Phật dạy: Vị tiên nhân nhẫn nhụctiền thân của ta, còn vua Ca-lợi là tiền thân của ông Kiều-trần-như. Do quá khứ ông phát nguyện như thế nên đời này gặp ta và nghe pháp đầu tiên.

“Vua Ca-lợi ngày xưa độc ác,

Nổi sân si làm hại tiên nhân.

Tiên nhân trong dạ không hờn,

Phát nguyện thành Phật độ người trước tiên”.

 Nhờ hạnh nhẫn nhục này mà đức Phật Thích-ca Mâu-ni trở thành vị Phật thứ tư trong hiền kiếpthọ ký cho Bồ-tát Di-lặc trở thành vị Phật thứ năm trong tương lai. Phật dạy: “Một ngọn lửa nhỏ có thể thiêu cháy đám rừng. Cũng vậy, người tu hành nếu như có tâm sân giận sẽ thiêu cháy hết tất cả công đức tu tập”. Chính bởi tầm quan trọng của hạnh Nhẫn nhục, Phật tử chúng ta trong cuộc sống hằng ngày khi đối người, đối sự, đối vật phải luôn phản tỉnh, tự làm chủ bản thân của mình, dùng tâm hoan hỷ, hòa nhã trong giao tiếp ứng xử với mọi người xung quanh. Làm được như vậy mới đúng là người Phật tử của Như Lai.

Khổng Tử nói: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Việc nhỏ mà không nhẫn được, thì việc lớn ắt sẽ hỏng). Tóm lại, chữ “nhẫn”, ngoài ý nghĩa chịu đựng, điềm tĩnh, còn được hiểu là tha thứ, từ-bi-hỷ-xả. Nhẫn là độ lượng, khoan dung, nhận đúng bản chấtkiên tâm nhẫn nại... Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người.

  • Thứ tư là Tinh tấn.

Tinh: là tinh chuyên (ròng rặt), không có xen tạp.

Tấn: là tiến tới mãi mãi không dừng, không gián đoạn hay thoái lui.

Hai chữ tinh tấn nói theo nghĩa thông thường là siêng năng chuyên cần. Nhà thơ Lỗ Tấn có viết: Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”. Cũng vậy, trên bước đường tu học Phật pháp, chúng ta cần phải lấy sự tinh tấn làm chìa khóa để mở những cánh cửa giác ngộ, giải thoát. Trong kinh kể câu chuyện như sau: Có lần đức Thế Tôn quở trách vị đệ tử A-nan-luật đã buông lung, phóng dật, giải đãi trong tu tập, Ngài nói Than ôi ông ham ngủ. Như sò ốc trong vỏ. Ngủ một giấc ngàn năm. Không nghe danh hiệu Phật!”. A-na-luật nghe xong, trong lòng rất hổ thẹn bèn phát nguyện tinh tấn tu hành không ngủ nữa. Cuối cùng ngài đã chứng quả A-la-hán trong bảy ngày.

Trong lời di huấn cuối cùng trước khi đức Phật nhập Niết-bàn: “Hỡi các người! Hãy tinh tấn lên để giải thoát. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Phật tử cần nên siêng năng làm những việc có lợi ích cho mọi người. Nếu còn nhỏ phải siêng năng học tập để thành đạt nhằm báo đáp công ơn sanh thành của cha mẹ.

  • Thứ năm là Thiền định.

 Thiền: phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền-na, xưa dịch là tư duy, nay dịch là tĩnh lự. Tu tư duy có nghĩa là tu tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp

Ðịnh: phiên âm theo tiếng Phạn là Tam-muội, có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán loạn. Vậy Thiền định có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho tán loạn, để tâm thể được vắng lặng.

Như chúng ta nấu một bữa cơm cho gia đình, cần phải chú tâm, đặt tâm huyết của mình vào đó để có bữa cơm ngon, bổ. Khi mọi người ăn đều sanh tâm hoan hỷ. Trong vấn đề tu tập cũng vậy, Phật tử cần chú tâm vào thời khóa tụng niệm để đạt được kết quả tốt.

 Tùy vào căn cơ của từng chúng sanh, mà đức Thế Tôn ứng cơ thuyết pháp. Tam tạng kinh điển mà Ngài để lại với 84000 pháp môn tu khác nhau. Đức Phật nói:“ Nước trong bốn biển chỉ có một vị, ấy là vị mặn. Cũng như thế đó, giáo pháp của ta tuy có muôn ngàn phương tiện pháp môn, nhưng duy nhất chỉ có một vị, đó là hương vị giải thoát”. Chính vì thế, chúng ta thấy mình phù hợp với pháp môn nào: Thiền, Tịnh, Mật, v.v…thì nên chuyên tâm nghiên cứu, tìm hiểu, tu tập để đạt được kết quả tốt. Ở thế gian chúng ta thấy cùng là ngành giáo viên, nhưng mọi người đều chuyên khoa một môn, người thì chuyên khoa văn, người thì chuyên khoa toán,v.v…Trong Phật pháp cũng vậy, nhắc đến Quán Thế Âm Bồ-tát chúng ta liền nghĩ ngay đến hạnh nguyện Từ bi, Địa Tạng Bồ-tát thì Nhẫn nhục, Văn Thù Bồ-tát thì Trí tuệ, Phổ Hiền Bồ-tát thì Thực hành, Di Lặc Bồ-tát thì Hỷ xả, v.v… Cùng là Đẳng giác Bồ tát, các Ngài đâu chỉ có một hạnh nguyện riêng biệt. Ví như Quán Thế Âm Bồ-tát ngoài hạnh nguyện Từ bi Ngài còn có vô lượng hạnh nguyện khác như Nhẫn nhục, Trí tuệ, Thực hành, Hỷ xả của các vị Bồ tát khác. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Một là tất cả, tất cả là một”. Ngày nay, mỗi khi chúng ta nhắc đến Hòa thượng Nhất Hạnh thì nghĩ ngay đến pháp môn Thiền, nhắc đến Hòa thượng Trí Tịnh thì nghĩ ngay đến pháp môn Tịnh độ, nhưng ngoài pháp môn Thiền Hòa thượng Nhất Hạnh cũng biết pháp môn Tịnh độ, và ngoài pháp môn Tịnh độ Hòa thượng Trí Tịnh cũng biết pháp môn Thiền. Bởi thế, Cổ đức dạy: “Một môn thông rồi thì tất cả môn đều thông”. Các Ngài đều là những tấm gương sáng, cho người học đời sau học theo, thực hành theo. Vậy mà, hàng Phật tử chúng ta ngày nay thì pháp môn nào cũng muốn học, cũng muốn tu, nhưng rồi có đạt được thành tựu gì không? Chúng ta phải tự hỏi, tự kiểm điểm lại mình. Người xưa có câu: “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề”. Cổ đức dạy: “Nhứt môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Tóm lại, thiền định được hiểu trong cuộc sống cũng như trong vấn đề tu hành tu tâm chúng ta luôn kiên định, vững vàng trước mọi hoàn cảnh, được – mất, hơn – thua, đúng – sai, phải – trái, khen – chê. Đó là chúng ta tu thiền định.

  • Thứ sáu là Trí huệ.

Trí: phiên âm chữ phạn là Phã-na, nghĩa là quyết đoán.

Huệ: phiên âm chữ Phạn là Bát-nhã, nghĩa là giản trạch (chọn lựa).

Thông minh có thể hiểu là một phần nhỏ của trí huệ. Nhưng trong Phật pháp thì trí tuệ là do từ công phu tu tập, nhờ giữ giới mà được thiền định, định phát sanh trí tuệ. Đây mới là trí tuệ chân thật, đúng đắn, cứu cánh. Trong xã hội có rất nhiều chuyện không như ý muốn của mình, chúng ta cần phải đầy đủ trí tuệ để giải quyết mọi công việc một cách tốt đẹp; phân biệt được đâu là chánh-tà, đúng-sai, phải-trái, v.v… Trong gia đình những bậc làm cha mẹ thường dùng tình cảm để thương yêu con cái tuy nhiên, đôi lúc cũng cần phải dùng lý trí để răn dạy con cái điều hay lẽ phải để chúng biết ứng xử với mọi người xung quanh.

 Đức Phật thuyết pháp rất khế lý, khế cơ. Khế lý là phù hợp với chân lý. Khế cơphù hợp với căn cơ của chúng sanh. Phật tử chúng ta cần phảitrí tuệ để phân biệt chọn pháp môn thích hợp với căn cơ của mình, nhằm tu tập được kết quả đem lại lợi ích cho mình và mọi người.

 Kinh Pháp cú, đức Phật dạy:

“Hương các loài hoa thơm

Không bay theo ngược gió

Hương người đức hạnh đó

 Ngược gió bay muôn phương”. 

Hương người đức hạnh đó”, đức Phật dạy cho người xuất giatại gia chứ không riêng một đối tượng nào. Mỗi khi nhìn thấy hoa, chúng ta nên liên tưởng đến việc tu nhân thiện bằng cách áp dụng pháp tu Lục độ vào trong cuộc sống, dùng tâm từ bi, yêu thương, chia sẻ, cảm thông đối với mọi người xung quanh. Nói như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “sống trong đời sống cần có một tấm lòng để gió cuốn đi”, 2 chữ tấm “tấm lòng” ở đây hàm ý phải chăng cố nhạc sĩ muốn nhắc nhở chúng ta cần có một trái tim yêu thương, chia sẻ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2024)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3027)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2638)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3549)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3374)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4212)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3724)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4267)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2355)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3518)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4200)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3986)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2918)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3397)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3521)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4581)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3919)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4808)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4070)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3059)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3799)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3948)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3115)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3639)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4487)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3751)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2288)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2657)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3067)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2757)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4623)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4972)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2866)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5361)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2890)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3324)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4418)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4976)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4741)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3282)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4591)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4312)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6174)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3535)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4071)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6056)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5442)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4100)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33285)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3205)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4196)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4764)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3117)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3845)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3584)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6591)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2804)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3256)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4624)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3489)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant