Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phụ lục: Vài nét về nhà sư Buddhadasa

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 11511)
Phụ lục: Vài nét về nhà sư Buddhadasa

Cốt Lõi Của Cội Bồ Đề

Buddhadasa Bhikkhu 

Hoang Phong 
chuyển ngữ

cotloicuacoibode


Phụ lụcVài nét về nhà sư Buddhadasa


Trong phần lời tựa dành cho ấn bản tiếng Đức của quyển "Cốt lõi của cội Bồ-đề"Jack Kornfield một Phật tửhọc giả lỗi lạc người Mỹ, đã viết như sau: "Nếu Buddhadasa sống ở Nhật thì nhất định ông sẽ phải là một danh nhân trong lịch sử hiện đại của xứ sở này. Dầu sao đi nữa thì người ta cũng đã biết đến ông vào cuối đời như là một trong số những vị Thầy uyên bácđáng kính nhất mà Phật Giáo Thái Lan từ nhiều thế kỷ nay".

 Thật thế, chiếc am nhỏ trong khuôn viên của ngôi chùa Suan Mokkh, còn gọi là "Khu vườn Giác Ngộ", tại tỉnh Surat Thani thuộc miền nam Thái lan đã bao che kín đáo một phần cuộc đời của một nhà sư thật bình dị và khiêm tốn và cả một trí tuệ bao la tàng ẩn bên trong sự bình dị và khiêm tốn ấy.

 Ngày nay, mỗi ngày đều có những chuyến xe đò dừng lại ở trạm Suan Mokkh để đổ xuống hàng toán người hành hương. Họ là những người trọng tuổi, là thanh niên, thiếu nữ và cả trẻ em. Họ đến từ mọi thành phần trong xã hội kể cả những nông dân từ vùng quê hay những người buôn thúng bán mẹt từ các chốn thị thành xa xôi.

 Giữa "khu vườn" là một ao sen thật lớn, bên cạnh là một dãy nhà xây theo mô hình một con thuyền nhằm để biểu trưng cho sự Giác Ngộ. Dãy nhà được trang trí bằng các hình tượng điêu khắc, tranh ảnh và các biểu đồ đơn giản nhằm gợi lên ý nghĩa của giáo lý. Những người dù không có kiến thức cao hoặc không được học hành nhiều mỗi khi nhìn vào đấy cũng có thể lĩnh hội được những gì chính yếu trong Đạo Pháp. Buddhadasa thường đặt các tảng đá cạnh một gốc cây hay xếp các viên đá nhỏ chung quanh để nhắc nhở khách thập phương đến viếng phải biết yêu quý thiên nhiên và cây cỏ. Thật vậy Đức Phật đã ngồi xuống cạnh một gốc cây để đạt được Giác Ngộ, và Ngài cũng đã nằm xuống giữa hai gốc cây để hòa nhập với Đại-bát Niết-bàn. Một lần Jack Kornfield tâm sự với Buddhadasa rằng trong các xã hội Tây phương có nhiều người mang những vết thương thật sâu kín trong lòng họ, và hỏi rằng phải làm thế nào để có thể giúp họ chữa khỏi. Buddhadasa kê ra cho Jack Kornfield một phương thuốc như sau: trước hết là phải mở rộng lòng từ bi, sau đó là phải hòa nhập sự sống của mình với cây cỏ, núi rừngthiên nhiên.

 "Khu Vườn Giải Thoát" không có chính điện đồ sộ với các trang trí cầu kỳ. Thật thế ông không thích những nghi thức lễ lạc và màu mè giả tạo. Nếu có ai định chắp tay vái lạy ông thì ông chộp lấy tay người ấy mà kéo xuống ngồi bên cạnh để ông trò chuyệnthăm hỏi như một người bạn lâu đời.

 Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa. Chữ Ajhan phát xuất từ tiếng Phạn acarya có nghĩa là một người hướng dẫn hay chỉ đạo, và khi đã chuyển thành tiếng Thái thì lại có nghĩa là một vị "Thầy" với một sự tôn kính đặc biệt. Thế nhưng chính ông thì chỉ muốn xem mình là một người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật: Buddhadasa Bikkhu. 

 blank

Tôi xin hiến dâng thân xác và sự sống này
cho vị Thầy của tôi là Đức Phật
Tôi chỉ là một người hầu hạ Ngài
Vì thế mà người ta gọi tôi là Buddhadasa

(chữ Pa-li dasa có nghĩa là một người hầu, một người tôi tớ để sai bảo - a bondsman)

blank

Phần lớn những tài liệu về Buddadasa được thế giới biết đến ngày nay cũng là nhờ một Phật tử người Mỹ. Người thanh niên trẻ này tham gia tổ chức Thiện Nguyện "Peace Corps" ở Thái Lan và nhờ đó đã biết được Phật Giáo. Sau đó ông đã xuất giatrở thành đệ tử của nhà sư Buddhadasa với pháp danh Santikaro. Đây là một tấm ảnh đặc biệt của Buddadasa mà Santikaro còn giữ lại, với lời ghi chú như sau:

"Trong hình này tôi chỉ là một nhà sư bé tí, ngồi dưới chân vị Thầy của tôi (bên trái) và vị giám hộ của tôi (bên phải) ở giữa là một vị đại sư thi sĩ, bạn của Thầy tôi và vị giám hộ của tôi. Cả ba đã gặp nhau vào mùa Kiết Hạ (Vassa) năm 1934 nơi " Khu Vườn Giải Thoát" và họ đã kết thân với nhau. Người dân Thái thường gọi ba vị này là "Ba Con Hổ" của miền Nam nước Thái. Ngày Thầy tôi được tám mươi tuổi thì tôi chỉ là một tỳ kheo non trẻ vừa mới thụ phong được một năm. Ảnh chụp ngày 27 tháng 5, năm 1986 đúng vào ngày sinh nhật tám mươi tuổi của Thầy tôi". Bảy năm sau đó thì Buddhadasa cũng đã từ bỏ thân xác của kiếp nhân sinh này của ông. Santikaro tiếp tục lưu lại "Khu Vườn Giải Thoát" đến năm 1999 và trong khoảng thời gian này ông cũng đã dịch sang tiếng Anh phần lớn các bài giảng Pháp của Buddhadasa. Chính nhờ vậy mà thế giới đã biết đến một nhà sư thật uyên bác, khác thường và vô cùng khiêm tốn của Á Châu. Jack Korfield cũng từng là một thành viên của tổ chức Thiện Nguyện Peace Corps và sau đó cũng đã trở thành đệ tử thân cận của nhà sư Ajhan Chah.

 Nhằm để tìm hiểu thêm về vị đại sư này, có lẽ chúng ta hãy cùng đọc hai bài thơ sau đây mà ông đã viết cách nhau gần nửa thế kỷ. Hai bài thơ có thể xem như biểu trưng cho hai quãng đời tu tập của ông:

Bài thơ thứ nhất:

Tôi làm việc vượt hơn cả sức người

Tôi làm việc vượt hơn cả sức người
thế nhưng con tim vẫn đủ sức để hân hoan nhảy múa.
 
Ấy chẳng qua trong thâm tâm, tôi đã quyết
Đạo Pháp hiến dâng kiếp sống này.
 
hoàn cảnhcơ duyên đưa đẩy
khiến tôi phải chết - vì nghiệp lực do chính mình tạo ra.
 
Thì đấy cũng ví như được nghỉ tay sau những lúc nhọc nhằn,
được yên giấc trong đêm, hay dừng tay trong một thoáng.
 
Khi bình minh ló dạng, tôi lại bắt tay
hoàn tất công việc còn bỏ lại.
 
Mỗi ngày lại một lần sinh, cả hai cũng chỉ là một:
sinh ra lúc vừng dương ló dạng, chết đi khi màn đêm buông xuống.
 
Quay đều vòng luân hồi chuyển động,
tạo ra muôn ngàn gợn sóng để vỗ vềan ủi tim ta.

Hỡi những ai mong cầu hân hoanhạnh phúc, phải nhớ rằng:
tất cả đều do mình hiểu thế nào là hân hoan.
 
Đối với tôi hân hoan chẳng mang ý nghĩa nào khác
là được sinh ra để hăng say làm việc.
 
Tạo ra cơ duyên giúp mình và tất cả mọi người
hiểu được bản chất của thế giới, hầu chinh phục và chiến thắng nó.
 
Thiên Nhiên sinh ra ta, lành mạnh cả thể xác lẫn tâm thần.
Lớn lên - cũng lại nhờ Thiên Nhiên!
 
Thế nhưng sự sáng tạo ấy cũng chỉ là được sinh ra, tan rã và để chết.
Tuy thế cũng đã tạo cho tôi dịp may (được làm người),
 
Để phấn đấu nhằm vượt lên hàng đầu,
hầu đạt được mục đích trước tất cả mọi người.
 
Bạn bè thi nhau sống trong buông thả,
Bao công việc bỏ lại, đưa vai tôi gánh vác.
 
Trong cuộc sống, bổn phận bủa vây tôi,
tựa trên đầu chất cao trăm món nợ,
 
Như cơn lốc ngăn chận bước chân tôi.
Biết khi nào vượt được, an bìnhgiải thoát còn xa một cõi nào?
 
Muốn đến được Niết-bàn bao chông gai phải vượt,
đấy là cửa ải do chính mình dựng lên.
 
Quy Luật (nhân quả) ấy nghiệt ngã hơn bất cứ một lệ luật nào,
Mạng lưới của nó, dù khôn ngoan đến đâu cũng không sao tránh thoát.
 
Bất cứ một hành động nào,
nếu mang lại lợi ích cho người khác và cho mình,
 
Thì phải thực hiện nhanh lên, phải đấu tranh và ra sức,
hoàn tất thật tốt đẹp nhằm hồi đáp món nợ của Thiên Nhiên.
 
Khi nào từ thâm tâm mọi sự bám víu
yếu dần, tan đi và biến mất,
 
Thì khi đó trí tuệ cũng sẽ loại bỏ được tham lam, giận dữ
ảo giác - luân hồi cũng sẽ ngừng quay.
 
Hãy nhanh lên, hỡi các bạn, xin đừng chậm trễ!
Bắt tay ngay, dù khó khăn nào đang đợi.
 
Nếu vượt quá sức người và phải chết sớm,
ấy ví như được nghỉ ngơi lần cuối, nào có gì khác đâu!

(Buddhadasa sáng tác bài thơ này ngày 13 tháng 2, năm 1938, lúc ông 32 tuổi. Bản dịch tiếng Anh của Santikaro Bikkhu)

 

Bài thơ thứ hai:

Buddhadasa không bao giờ chết

Buddhadasa sống mãi, chẳng có gì chết cả.
Dù thân xác phải chết, tai không còn nghe được nữa.
Hoặc còn đó hay ra đi nơi khác, nào có hệ trọng gì?
Theo dòng thời gian - một cái gì đó đã trôi đi.
 
Buddhadasa vẫn bước, chẳng có gì chết cả.
Dù đẹp trời hay những ngày giông bão,
Luôn dốc lòng tuân theo lời giảng dạy.
Đem tâm sức giữ tròn trọng trách với Như Lai.
 
Buddhadasa sống mãi, chẳng có gì chết cả.
Hết lòng phục vụ cho nhân sinh mãi mãi,
luôn nêu cao Đạo Pháp từ ngàn xưa lưu lại.
Bạn thấy chăng! Chẳng có gì chết cả!
 
Dù phải chết, chấm dứt thân xác này,
Tiếng tôi nói vẫn âm vang trong tai bạn,
Rõ ràngtrong sáng, hùng hồn như những thuở xa xưa.
Nếu Thân-Đạo-Pháp vẫn sống - thì chẳng bao giờ tôi chết cả.
 
Hãy xem tôi không bao giờ chết cả,
Luôn bên bạn như ngày xưa muôn thuở.
Hãy tỏ bày những gì trong tâm thức,
ân cần tôi giải đáp, bạn thấy chăng tôi đang ngồi cạnh bạn.
 
Hãy xem tôi không bao giờ chết cả,
Muôn dòng suối phúc hạnh sẽ dâng tràn.
Đạo Pháp, xin đừng quên những ngày ngồi bên nhau bàn bạc: 
Thực hiện được Sự Tuyệt Đối 
(của tánh không) - cái chết sẽ không bao giờ xảy đến.

(Bài thơ trên đây được Buddhadasa viết vào ngày 27 tháng 5, năm 1986, nhân sinh nhật 80 tuổi của ông. Bài thơ này được Santikaro Bikkhu dịch sang tiếng Anh vào ngày 28 tháng 4, năm 1994)

blank

Hình chụp Buddhadasa ngồi trước chiếc am nhỏ của ông
trong "Khu vườn Giải Thoát" vào ngày sinh nhật tám mươi tuổi

 

 Hai bài thơ được sáng tác cách nhau 48 năm đã cho thấy một sự khác biệt thật lớn. Thật vậy, gần nửa thế kỷ tu tập đã biến đổi hẳn một con người. Khi còn là một tỳ kheo trẻ thì Buddhadasa vẫn còn bị ám ảnh bởi cái chết:

Quay đều vòng luân hồi chuyển động,
tạo ra muôn ngàn gợn sóng để vỗ vềan ủi tim ta.
....................................
Nếu vượt quá sức người và phải chết sớm,
ấy cũng ví như được nghỉ ngơi lần cuối, nào có gì khác đâu!

 Và người tỳ kheo trẻ trong những lúc quá nhọc nhằn vẫn còn trách móc người khác:

Bạn bè thi nhau sống trong buông thả,
Công việc họ bỏ lại, đưa vai tôi gánh vác.

 Cũng xin được nhắc thêm là Buddhadasa là một người tự học và cũng đã tự tay tận lực trùng tu một ngôi chùa hoang phế để tạo ra " Khu Vườn Giải Thoát" như ngày nay.

 Thế nhưng đối với bài thơ được viết gần nửa thế kỷ sau đó thì:

Buddhadasa vẫn sống, chẳng có gì chết cả.
................................
Hãy xem tôi không bao giờ chết cả,
Luôn bên bạn như ngày xưa muôn thuở.
..................................
Buddhadasa vẫn bước, chẳng có gì chết cả,
....................................
Theo dòng thời gian - chỉ có một cái gì đó đã trôi đi.

 Nếu người tỳ kheo trẻ trước đây luôn lo âu và khắc khoải:

Trước sự sống, bổn phận bủa vây tôi,
tựa trên đầu chất cao trăm món nợ,
....................................
Như cơn lốc ngăn chận bước chân tôi.
Biết khi nào vượt được, an bìnhgiải thoát một cõi nào còn xa?

 Thì vị sư già lúc nào cũng ung dung, tự tin và thanh thản:

Dù đẹp trời hay những ngày giông bão,
Luôn dốc lòng tuân theo lời giảng dạy.
.................................................
Dù phải chết, chấm dứt thân xác này,
Tiếng tôi nói vẫn âm vang trong tai bạn,
Rõ ràngtrong sáng, hùng hồn như những thuở xa xưa.

 Ngoài sự thăng tiến rõ rệt giữa hai giai đoạn trên con đường tu tập của một nhà sư, từ sự ám ảnh của cái chết khi còn trẻ cho đến thể dạng không bao giờ chết nữa khi bước vào tuổi già, thì hai bài thơ còn nêu lên nhiều nét nổi bật khác nữa. Chỉ xin đơn cử một vài điểm như sau:

 Quan điểm tu tập của Buddhadasa cho thấy nhiều nét rất gần với Đại Thừa Phật Giáo, chẳng hạn như ông đã nâng vai trò của lòng từ bi lên một cấp bậc thật cao và đồng thời ông cũng chấp nhận các quan điểm và cách hiểu của Đai thừa về tánh không, niết-bàn, Phật tính, sự quán thấy bằng trực giác của Thiền Học,v.v... Các câu thơ sau đây trong bài thơ ông viết ngay khi còn trẻ không hẳn biểu trưng cho cách hành xử của một vị A-la-hán mà đúng hơn là lòng quyết tâmsự cố gắng phi thường của một người Bồ-tát:

Trước sự sống, bổn phận bủa vây tôi,
tựa trên đầu chất cao trăm món nợ.
...........................
Bất cứ một hành động nào,
mang lại lợi ích cho người khác và cho mình,
Thì phải thực hiện nhanh lên, phải đấu tranh và ra sức.
............................
Nếu vượt quá sức người và phải chết sớm,
ấy ví như được nghỉ ngơi lần cuối, nào có gì khác đâu!.

 Thiết nghĩ có lẽ cũng cần phải giải thích thêm một vài điểm khác trong cả hai bài thơ này. Trong bài thơ thứ hai Buddhadasa cho biết rằng "Thiên Nhiên" đã sinh ra ông. "Thiên Nhiên" ở đây không biểu trưng cho một Đấng Tối Cao nào cả mà chỉ có nghĩa là các quy luật tự nhiên chi phối sự vận hành của mọi hiện tượng trong vũ trụ: đấy là quy luật tương liên, tương kết và tương tạo (interdependence), trong đó gồm có quy luật về nguyên nhânhậu quả:

Quy Luật ấy nghiệt ngã hơn bất cứ một lệ luật nào.

 Cái Quy Luật đó đã khiến cho ông phải quay lại kiếp nhân sinh. Thế nhưng ông không hề oán trách cái Quy Luật ấy mà trái lại còn cám ơn nó đã tạo ra cho ông cơ duyên được làm người để tu tập. Tuy hiểu được những điều ấy thế nhưng khi thuyết giảng thì ông không bao giờ nêu lên bất cứ những gì mà ông cho là "vô ích", tức là không trực tiếp hướng vào mục đích nhằm loại bỏ khổ đau. Những chuyện như luân hồi, tái sinh... chỉ khiến cho người tu tập thêm hoang mang mà thôi. Một vài học giả Tây Phương phân tích các lời giảng của ông và không chịu tìm hiểu sâu xa hơn, vì thế đôi khi họ đã đánh giá ông một cách sai lầm khi cho rằng ông chủ trương đơn giản hóa và duy lý hóa Phật Giáo.

 Điểm nổi bật và đáng chú ý hơn hết trong bài thơ khi ông viết vào lúc tuổi già chính là câu sau đây:

Buddhadasa sống mãi, chẳng có gì chết cả.

 Vậy nếu Buddhadasa sống mãi và chẳng có gì chết cả thì có nghĩa là gì? Đấy có nghĩa là Buddhadasa đã hóa thành tánh không và trong cái tánh không đó chẳng còn lưu lại bất cứ gì để mà chết cả. Cái trống không ấy chính là sự Tắt NghỉTuyệt Đối, là Niết-bàn.

 Tâm thức của Buddhadasa đã đi hết con đường, đã trở thành tánh không, chỉ có thân xác tạm thời này của ông là còn lưu lại mà thôi:

Hoặc (nó vẫn) còn đó hay ra đi nơi khác, thì có hệ trọng gì?

 Mọi sự nắm bắt và bám víu cũng như các vết hằn của nghiệp, tất cả đều đã được loại bỏ và tẩy sạch trên dòng lưu chuyển liên tục của tri thức ông. Tâm thức của ông đã hòa nhập vào tánh không của tất cả mọi hiện tượng, để trở thành một với tánh không của cả vũ trụ.

 Tám mươi tuổi, tuy đang ngồi yên lặng trước cửa am trong "Khu Vườn Giải Thoát", thế nhưng tâm thức ông đã an trú trong Tánh Không Tuyệt Đối và Đích Thật của Dhamma, của Niết-bàn và Đức Phật. Cái Tánh Không ấy không bao giờ chết và chính trong không gian Trống Không của cái Tánh Không Tuyệt Đối ấy cũng chẳng còn gì sót lại để mà chết cả. Đấy là ý nghĩa của tựa bài thơ - Buddhadasa không bao giờ chết - và của câu thơ mở đầu cho toàn bộ bài thơ -Buddhadasa vẫn sống, chẳng có gì chết cả.

 Nếu đủ sức phát lộ được cảm tính về một chút tánh không nào đó trong tâm thức mình thì biết đâu chúng ta cũng sẽ có thể cảm thấy có một người tu hành nào đó trước đây từng mang tên là Buddhadasa đang ngồi bên cạnh chúng ta hôm nay để han hỏi và bàn bạc với chúng ta:

Hãy xem tôi không bao giờ chết cả,
Luôn bên bạn như ngày xưa muôn thuở.
Hãy tỏ bày nhưng gì trong tâm thức,
Ân cần tôi giải đáp, bạn thấy chăng tôi đang ngồi cạnh bạn.

 Vậy chúng ta sẽ han hỏi những gì và thắc mắc những gì? Phải chăng chúng ta muốn biết là phải làm thế nào để đạt được nước niết-bàn? Buddhadasa sẽ trả lời cho chúng ta bằng câu thơ cuối cùng trong bài thơ ông đã viết:

Thực hiện được sự Tuyệt Đối (của tánh không) - cái chết sẽ không bao giờ xảy đến!

Hoang Phong

(Bures-Sur-Yvette, 14.09.12)

 

 

 Sau đây là các bản dịch sang tiếng Anh của hai bài thơ trên đây:

Bài thơ thứ nhất:

I Work More Than I Can Bear

I work more than I can bear, but
am happy hearted enough to leap and dance.
*
This is because my mind thinks and aims
only to live in line with the Dhamma,
*
Wherever the causes and conditions lead,
according to the karma I laid down in former moments.
*
To die is like a pause from work,
to sleep for a night, to rest for a time;
*
With the new dawn, I take up the work
Vigorously carrying on the work left over from before.
*
The new day is a new birth, these two are the same:
born with the day and dying at night,
*
As the waves of the samsaric cycles create
the myriad products that soothe and comfort our hearts.
*
Whoever wishes for joy and bliss must know
that it depends on the one who can see joy for himself.
*
As for me, there is no meaning beyond
the fact that I was born only to work
*
According to conditions, so that myself and others
will know the world, conquer it, and vanquish sorrow.
*
Nature created us perfectly, physically and mentally
thriving — boundless thanks to Nature!
*
Although we are created for birth, decay, and death,
yet Nature gives me the chance to vie
*
Struggle, and contend in all duties to break ahead
in order to reach the end before anyone else.
*
While friends encourage each other to lie around,
I am working hard as if they were chasing behind.
*
The duties of life that besiege constantly
are like debts ever piling up on top of me
*
Blocking my way almost like a whirlpool,
when will I pass beyond and find the place of freedom and peace?
*
From here to Nibbana we must pass through
the checkpoint which is the work of our lives
*
This Law is more certain than any scales;
no matter how skilled, no one can escape this rule.
*
For this reason, in any activity that
aims for the benefit of others or oneself
*
We should hurry, struggle, and strive
to make it beautiful and work off our debt to Nature.
*
Until the heart’s attachments to all things
weaken, dissolve, and fade away
*
So that wisdom sees directly that greed, anger,
and delusion are finished and samsara stopped.
*
Hurry friends, don't be late!
Whatever work you may meet, tackle it immediately.
*
Much work may bring a faster death,
but it rolls along towards the final rest, just the same.

 

Bài thơ thứ hai

Buddhadasa Never Dies

Buddhadasa shall live, there's no dying.
Even when the body dies, it will not listen.
Whether it is or goes is of no consequence,
it is only something passing through time.
 
Buddhadasa carries on, there's no dying.
However good or bad the times,
Always one with the true teaching.
Having offered body and mind in ceaseless service Under Lord Buddha's command.
 
Buddhadasa lives on, there's no dying.
In service to all humanity forever
Through the Dhamma Proclamations left behind
O, Friends, can't you see! What dies?
Even when I die and the body ceases
my voice still echoes in comrades' ears
Clear and bright, as loud as ever.
Just as if I never died the Dhamma-body lives on.
 
Treat me as if I never died,
as though I am with you all as before.
Speak up whatever is on your minds
as if I sit with you helping point out the facts.
 
Treat me as if I never died, then
many streams of benefits will accrue.
Don't forget the days we set aside for Dhamma discussion;
Realize the Absolute and stop dying!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4385)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4671)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4713)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5877)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3310)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5280)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2946)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4161)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5300)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4277)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3334)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6368)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5357)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4645)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6262)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6121)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3909)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6045)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4650)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4810)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3401)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6298)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4963)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3559)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3485)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5693)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4259)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6015)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5257)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3694)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3774)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3713)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3540)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5371)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4031)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4383)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5834)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3140)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3081)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3883)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4873)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3585)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4599)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4751)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3467)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4007)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4746)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3591)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3615)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5166)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4177)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3304)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3009)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3046)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3127)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3123)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3493)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4021)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant