Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tâm và tướng

24 Tháng Chín 201200:00(Xem: 17790)
Tâm và tướng
TÂM VÀ TƯỚNG 
Thành Văn

 

tamvatuong-thanhvan Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả. Quả có quả lành, quả ác do bởi tâm lành ác sinh ra. Tu là sửa cái tâm; tức cái nhân để có thể nhận được quả theo ý muốn.

 Để cái tâm chạy theo trần cấu nhiều đời nhiều kiếp thành thói quen, thành nghiệp. Nghiệp sẽ lôi kéo chúng sanh đi theo con đường mòn nó đã vạch ra, không có gì cưỡng lại được.

 Vấn đề rất sâu rộng. Ở đây người viết chỉ dám bàn lướt qua mối tương quan nhân/ quả giữa tâm và tướng.

 Trong dân gian quần chúng sáng tác ra rất nhiều truyện ảnh hưởng đậm nét của tinh thần Phật giáo. Một trong những câu chuyện đó người viết được nghe kể như sau:

 Xưa, có một chàng nho sinh nhà nghèo lắm, không có tiền mua dầu thắp để học đêm. Mỗi tối chàng đều phải đến ngôi chùa gần nhà để xin sư cụ cho học nhờ dưới ánh sáng của những ngọn đền dầu trong chùa. Nhà nghèo, biết thân phận nên anh học trò sống rất khiêm cung, lễ phép với mọi người. Chàng cố công dùi mài kinh sử mong đến ngày lai kinh ứng thí, đỗ đạt ra làm quan để trước ấm cái thân, sau là mở mày mở mặt với họ hàng làng nước 

 Trên con đường lên chùa, hàng ngày nho sinh phải đi ngang qua một cái miễu thổ thần, trước miễu có pho tượng nhỏ bằng đất nung. Pho tượng cũng mũ mãng cân đai, được đặt ngồi trên một bệ đá.

 Nhiều năm trời như vậy, anh chàng chăm chỉ học hành. Một hôm khi vừa đi ngang qua miễu chàng ngạc nhiên thấy pho tượng bỗng nhiên đứng dậy, nghiêng người chào mình. Chàng ngạc nhiên lắm, bèn dừng chân lên tiếng lễ phép hỏi tượng:

- Tôi là gã nho sinh nhà nghèo, cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ lành. Hàng ngày phải lên chùa nhờ ánh đèn dầu nơi cửa Phật để dùi mài kinh sử. Bấy lâu nay đi ngang đây đều có nghiêng mình chào thần. Nay sao bỗng nhiên thần đứng dậy như chiều thi lễ là tại lý do làm sao?

 Tượng đất vẫn đứng vừa lên tiếng:

- Tôi vốn là thổ địa ở đây, hàng ngày chứng kiến ông qua lại. Trước đây thấy ông là nho sinh, tướng nghèo hèn, bần bạc. Lúc sau này bỗng tướng đổi khác. Tuy vẫn quần manh, áo vá, ốm yếu xanh xao, nhưng vẻ mặt và dáng đi đã lộ ra cách quyền quý giàu có. Tôi tra sổ thiên đình, thấy ông được thượng đế cho đỗ trạng nguyên kỳ này. Ông sẽ xuất chính làm quan to, cai quản cả vùng này. Tôi là thổ địa ở đây tất dưới quyền cai quản của ông, nên đứng dậy chào ông là vì thế.

 Sinh nghe thổ địa nói thế lòng mừng khấp khởi. Ít lâu sau chàng đâm chểnh mảng chuyện học hành. Hàng ngày vẫn đến chùa xin học nhờ, nhưng đi trễ về sớm, không chuyên cần như xưa. Trước đây tính tình khiêm cung. Ai nói phải quấy gì cũng vâng dạ, kính già yêu trẻ. Nay, nghĩ mình sắp trở thành giai cấp cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu), nên cử chỉ thái độ thường tỏ ra khinh bạc. Không vừa lòng ai điều gì thường buông ra lời đe dọa.

 Thời gian cứ thế trôi. Gần đến ngày triều đình mở khoa thi, nho sinh mừng thầm trong bụng ngày vinh hiển sắp đến. Thi đỗ ra làm quan, tha hồ võng lọng, vợ đẹp con xinh, của cải do dân đút lót chất đầy kho tha hồ ăn xài.

 Lòng nghĩ thế, nên tuy vẫn hàng ngày ôm sách lên chùa học nhờ, nhưng mặt mày trở nên vênh váo, mắt chỉ nhìn lên, nên không để ý thấy tượng thổ địa vẫn chỉ ngồi im, không còn đứng dây chào khi thấy sinh đi ngang qua nữa.

 Kịp gần đến ngày lên đường lai kinh ứng thí, một bữa đi ngang qua miễu sinh chợt để ý thấy chuyện thay đổi ấy nơi thổ địa, bèn lên tiếng hỏi:

- Trước ta đi ngang qua tượng vẫn đứng dậy chào. Nay sao lơ là, không chào nữa, là cớ làm sao?

 Tượng vẫn ngồi, từ tốn trả lời: - Trước đây ông chăm chỉ học hành, lòng dạ khiêm cung, biết kính trên nhường dưới, nên cảm động đến trời. Thượng đế cho ghi tên ông vào bảng vàng, thi đỗ làm quan. Nay ông đổi tính, tâm địa ngạo mạn, bỏ bê học hành, thượng đế giận, ngài đã cho xóa tên ông trong bảng vàng rồi. Ông vẫn là bần sĩ, sao tôi lại phải chào ông?

 Nho sinh nghe xong, mặt mày biến sắc, nhưng biết đã quá trễ. Kỳ thi ấy sinh cũng lều chõng đi thi, nhưng chẳng đỗ đạt gì.

 Trong dân gian từ đó mới có câu “Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng”. Vẫn chàng nho sinh ấy, nhưng tướng thay đổi theo tâm. Tâm lành sanh tướng tốt. Tâm ác hiện tướng xấu là thế. Sách cũng có câu: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt” (Có tâm không tướng, tướng tự tâm mà sinh. Có tướng, nhưng không có tâm, tướng sẽ theo tâm mà diệt đi).

 Trên đất Mỹ, ở một số nơi như thư viện, trường học, hội quán… người ta thấy có trưng bày những câu châm ngôn thế này:

 Watch your thoughts, they become words.

 Watch your words, they become actions.

 Watch your actions, they become habits.

 Watch your habits, they become character,

 Watch your character, it becomes your destiny.

 (Tạm dịch: Hãy canh chừng những tư tưởng của bạn/ Nó sẽ trở thành lời nói. Hãy canh chừng lời nói/ Chúng sẽ phát ra thành hành động. Hãy canh chừng hành động/ Chúng sẽ thành thói quen. Hãy canh chừng thói quen của bạn/ Chúng sẽ tạo nên nhân cách. Hãy coi chừng nhân cách bạn/ Nó sẽ trở thành số mệnh của bạn đấy.)

 Bên dưới ghi tên tác giả là Frank Outlaw. Tuy nhiên nhiều người cho rằng nguồn gốc câu ấy không rõ ràng. Có người bảo câu ấy là của Thánh Gandhi.

 Cho dù ai nói thì những phát biểu trên cũng phù hợp với quan niệm “Vạn pháp do tâm” của Phật giáo. Cái người ta gọi là số mệnh chẳng phải do một Thượng đế hay ông trời nào áp đặt, nó hình thành từ chính tư tưởng chúng ta

 Ở đây sẽ bàn về hai phương diện: tâm linh và khoa tâm lý học.

 Người học Phật, không ai là không biết, một trong những luận đề cơ bản vị bổn sưđức Phật cho đến các tổ sau này đều dạy tín đồ rằng “tâm là gốc của vạn pháp” (vạn pháp do tâm tạo). Các pháp khởi sinh, biến hóa, lành dữ đều do tâm. Người tu hành, trước hết là tu tâm. Sửa chữa, uốn nắn ngay từ cái tâm. Khi cái tâm đã ngay chính, mọi pháp theo sau sẽ trở nên ngay chính, trong đó có hình tướng.

 Đức Phật, bậc đại giác đã hoàn toàn làm chủ tâm. Ngài đã tu tập trong nhiều kiếp, gột rửa tâm trở nên hoàn toàn trong sạch, nên trong kinh sách mô tả Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Những tướng tốt, vẻ đẹp của Phật là gì người theo Phật đã biết. Tựu trung đó là những nét thánh thiện, tốt lành gây nên lòng kính ngưỡng, mến mộ nơi kẻ nhìn. Đấy là một sắc tướng hoàn hảo theo một quan niệm nào đó của thế gian tương đối. Thực tế, khi đạt quả vị Phật, Đức Thế tôn đã vượt thoát ra khỏi mọi pháp thế gian. Ta thường nói “không thể nghĩ bàn”.

 Cho nên nói “Phật có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp” cũng chỉ là cách nói ước lệ nhằm thỏa mãn sự ngưỡng vọng của người phàm phu chúng ta đối với bậc giác ngộ mà thôi. Chứ Phật đã nhập Niết bàn, tức chân lý tuyệt đối, vượt khỏi sự phân biệt, đối đãi nhị nguyên. Nên làm gì còn có đến 32 tướng, 80 vẻ dáng khác nhau?

 Đến chùa chiền của những quốc gia khác nhau chúng ta thấy hình dáng vẻ mặt các pho tượng Phật cũng khác nhau. Người nước nào thì tạc tượng mang vẻ mặt người nước đó. Tượng Phật ở Thái Lan có khuôn mặt của người Thái. Tượng Phật ở Trung Hoa có vẻ mặt người Trung hoa. Phật ở Nhật Bản, ở Đại Hàn, ở Việt Nam đều có vẻ mặt khác nhau, mang đường nét của người nam nước ấy.

 Từ đức Phật đầu tiên là người Ấn Độ, khi Phật giáo truyền qua các nước khác, nhân dạng ngài cũng đổi theo, trở thành người của nước khác.

 Sau này giả sử đạo Phật trở nên thịnh hànhÂu Mỹ, các tượng Phật sẽ có nét mặt của người Âu Mỹ. Tướng Phật theo tâm chúng sanhthành hình. Chùa chiền cũng vậy. Trang phục người tu sĩ và hàng phật tử cũng thế, đều theo tâm mà biến hiện.

 Nói theo khoa tâm lý học, tư tưởng mỗi con người dự phần rất lớn tạo ra hình tướng của chính cá nhân con người ấy. Có những đứa bé khi còn nhỏ rất xinh đẹp, khi lớn lên mặt mũi, hình dáng thay đổi, không còn đẹp nữa, do bởi hoàn cảnh sống thay đổi. Những va chạm trong đời sống tạo nên trạng thái tâm lý thích ứng với hoàn cảnh. Do tâm địa, do nghề nghiệp mà những đường nét trên khuôn mặt, trong phong thái cử chỉ mà tạo thành tướng trạng.

 Khoa bói toán, xem tướng chẳng qua cũng dựa trên những kinh nghiệm nhiều đời đúc kết lại để diễn giải dựa trên các quy luật về tâm lý.

 Trong các truyện cổ tích và sau này truyện đem vào phim ảnh, các mụ phù thủy đều mang một nhân dáng và khuôn mặt xấu xí đanh ác: thân thể gầy gò, lưng còng, mặt mũi xương xẩu, má hóp, mũi như sống dao, khoằm xuống như mỏ diều hâu, đôi mắt lộ, tóc tai bơ phờ…Dĩ nhiên hình ảnh bà phù thủy được mô tả trong phim, truyện đều đã được người nghệ sĩ sáng tạo ra cố tình làm nổi bật cái tâm độc ác của mụ.

 Trong thực tế, những kẻ mang tâm địa độc ác dù không đến nỗi luôn luôn phải mang bộ mặt xấu xí, nhưng trên nét mặt những hạng người ấy vẫn để lộ những nét hung dữ. Kẻ ác trong đầu họ thường suy nghĩ căng thẳng những mưu kế hại người. Tâm lý thù hằn ảnh hưởng trên các tuyến nội tiết và cơ thể họ thường xuyên tiết ra các độc tố, tràn vào trong máu, khiến sắc mặt họ thường u hãm, chứ không được tươi nhuận. Mắt nhìn thường đổ hào quang sắc lạnh. Kẻ khác nhìn vào có cảm giác ớn sợ.

 Ngược lại, một người có tâm địa hiền lương, thường nghĩ đến điều lành, họ có tâm lý thoải mãi thư giãn, các cơ bắp, nhất là các cơ vùng mặt không ở trong trạng thái co thắt, nên khuôn mặt họ thường đầy đặn, sắc mặt tươi tắn, nhìn tự nhiên ta có cảm tình. Đối với nữ giới, có thể họ không đẹp, nhưng vẫn ưa nhìn. Ta gọi là có duyên. Phụ nữ có duyên, mặt mũi phúc hậu, khi lập gia đình họ thường có cuộc sống bình lặng hạnh phúc, ít gặp trắc trở bất hạnh trong hôn nhân.

 Ngày nay khoa học tiến bộ, con ngườitham vọng làm chủ mọi thứ bằng khoa học. Khoa giải phẫu thẩm mỹ có thể sửa chữa một số khuyết tật trên thân thể con ngườiquả thật nó đã đạt được một số thành quả. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy những kết quả đạt được rất hạn chế. Những bộ phận thân thể được cắt xén, tỉa gọt, căng kéo không duy trì được hình dáng tự nhiênlâu dài. Nó thường để lại những di chứng và khi hết tác dụngtrở thành thảm họa như nhăn nhúm, chảy xệ, biến dạng…cho chủ nhân chúng. Điều này rất dễ nhận thấy.

 Trong khi đó, những người áp dụng phương pháp tu dưỡng nhằm sửa chữa cái phần tâm linh như thiền, yoga lại có thể đạt được kết quả khả quanlâu dài hơn nhiều. Người ta thấy có những phụ nữ ở tuổi thất tuần, nhưng cử chỉ vẫn linh hoạt, khuôn mặt vẫn gọn ghẽ xinh xắn mịn màng như tuổi 50. Đó là sự thật. Tuy nhiên, nhiều khi con người ta không đủ tin tưởngkiên nhẫn để thực hành. Hơn nữa sẵn tiền bạc, họ đi đến các thẩm mỹ viện cho nhanh và tiện.

 Trong văn hóa dân gian của Việt Nam cũng như một số các quốc gia Á châu khác, người ta có phong tục khi người phụ nữ mang thai, gia đình thường chọn những hình vẽ những đứa bé xinh đẹp bụ bẫm để treo trong phòng người mẹ. Nếu người mẹ thực sự không làm nghề gì xấu ác và có tâm địa hiền hậu, thường họ sẽ sinh được những đứa con đẹp đẽ gần giống trong tranh vẽ.

 Chính tâm lý (tâm) của người mẹ mang thai sẽ tạo thành hình tướng (tướng) đứa con qua những biến đổi bí mật trong từng tế bào của cơ thể họ.

 Người ta còn tránh không để cho thai phụ phải chứng kiến chuyện dữ, phải nghe những lời ác. Sự hiểu biết về tâm lý trong văn hóa Việt Nam như vậy không hề kém so với những kiến thức về tâm lý học hiện đại.

 Ngoài ra, trong dân gian còn có những hiện tượng đôi khi khó giải thích, nhưng qua chiêm nghiệm, người ta vẫn phải tin là có thật. Chẳng hạn như người làm nghề đồ tể giết heo nhiều năm thường có khuôn mặt phảng phất như mặt heo. Người ta cho rằng chính sự ám ảnh tâm lý trong một thời gian dài đã tạo ra những đường nét trên khuôn mặt người đồ tể. Những người chuyên làm thịt chó bán cũng thường mang bộ mặt hao hao giống loài vật họ giết. Rõ rệt nhất là những người làm nghề giết chó bán thịt đi đến đâu là chó sủa ran đến đó. Khi họ xuật hiện nhiều con chó bỗng nhiên sợ hãi quíu cả chân, đuôi cụp xuống, sủa không thành tiếng.

 Các vị chân tu đạo hạnh cao cả, công đức sâu dày, nhiều khi sống rất âm thầm, ẩn dật, không hề có quyền chức địa vị, họ ăn mặc đơn sơ giản dị, nhưng người phàm phu khi được diện kiến bỗng nẩy sinh lòng tôn kính, mến mộ. Dường như xung quanh họ tỏa ra một lớp sóng từ rất lạ khiến người khác cảm thấy an lạc, dễ chịu. Những người như vậy không nhất thiết phải là những chức sắc có địa vị cao trong các giáo hội. Có thể họ chỉ là một bà lão bình thường, như Mẹ Théresa chẳng hạn hay sư cụ ở một ngôi chùa hẻo lánh ít ai lui tới. Chuyện về các thánh tăng thì vô số. Nhưng trong đời sống ai may mắn mới có duyên được diện kiến một vị chân tu./.

 Thành Văn

 Aug., 2012

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8318)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15044)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12890)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7631)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16392)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15263)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8830)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7824)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 6977)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11074)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 13980)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10285)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20185)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8647)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9113)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 23732)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12442)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7635)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 15982)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8548)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7510)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14234)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9131)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15275)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 14887)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16414)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13046)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15047)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7656)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7374)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7219)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8882)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 13678)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 7876)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7704)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15534)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10117)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7543)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7365)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12576)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7702)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 7959)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13680)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7152)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9034)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9500)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 12873)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7439)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 9972)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7042)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30613)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
(Xem: 21599)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 7865)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7575)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8673)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 6976)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9153)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8638)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10095)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant