Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương IV: Nghiệp phân tích theo Vi Diệu Pháp

30 Tháng Chín 201200:00(Xem: 7642)
Chương IV: Nghiệp phân tích theo Vi Diệu Pháp
CHÁNH KIẾN VÀ NGHIỆP

Tác giả: Ledi Sayadaw và nhiều c giả khác

Dịch giả: Pháp Thông


CHƯƠNG IV:

NGHIỆP PHÂN TÍCH THEO VI DIỆU PHÁP

Bốn Loại Nghiệp (Kamma-catuka)

Kamma, hình thức Sanskrit: karma, nghĩa đen là hành động hay việc làm. Theo lẽ thường hành động tốt cho ra quả báo tốt và hành động xấu cho quả báo xấu.

Hành động có thể được thực hiện bằng thân (kāya), bằng lời nói (vacī) và bằng ý nghĩ (mano). Tuy nhiên thân và khẩu không tự ý phát động mà cần phải có tâm (citta) thúc đẩy qua sắc do tâm sanh (citta rūpa).

Tâm cũng chỉ là cái biết về một đối tượng, nó không tự ra lệnh hay điều khiển việc thực hiện một hành động được. Chính cetanā - tư hay ý chí hướng dẫn tâm và các pháp đồng sanh với nó (tâm sở) thực hiện hành động. Vì vậy cetanā mới chịu trách nhiệm cho việc thực hiện một hành động.

Do đó, nghiệp là chủ ý hay tư (cetanā) thiện và bất thiện. Ý chí hay tư, có gốc ở vô minh (moha), tham ái hoặc chấp thủ (lobha), và sân hận (dosa) là ý chí ác. Ý chí được kèm theo bởi vô tham (alobha), vô sân (adosa) và trí tuệ (paññā) là thiện.

Nói khác hơn, tư (cetanā) hiện diện trong mười hai tâm bất thiện (akusala citta)bất thiện nghiệp, trong khi tư hiện diện trong tám tâm đại thiện (mahā kusala citta), năm tâm thiện sắc giới (rūpāvacara kusala citta) và bốn tâm thiện vô sắc giới (arūpāvacara kusala citta) là những thiện nghiệp.

Ở đây cần hiểu rằng cetanā và các pháp đồng sanh với nó (là tâm và các tâm sở ngoài cetanā) diệt sau khi thực hiện xong những mục đích của chúng. Nhưng trước khi diệt, chúng để lại sản nghiệp của chúng trong dòng tâm thức. Sản nghiệp này là tiềm lực nghiệp sẽ tạo ra quả xứng đáng của nó vào một thời điểm thích hợp nào đấy và quả tất nhiên sẽ rơi chính trên người tạo nghiệp.

Điều này gần giống định luật thứ ba của Newton về sự chuyển động trong lĩnh vực vật lý. Định luật này tuyên bố: “Mọi hành động đều có phản ứng tương đương và đối nghịch.” Như vậy, khi một người thực hiện một hành động tốt hoặc xấu, họ sẽ chờ đợi một phản ứng tương đương và đối nghịch trong đời này hoặc trong một kiếp tương lai nào đó.

Hơn nữa, phản ứng đối nghịch ấy có thể xảy đến rất nhiều lần vì nghiệp đã được nhân lên hơn một tỷ lần do đặc tính của tâm. Như thế nào? Theo Vi Diệu Pháp, tâm có thể khởi lên với vận tốc hơn một tỷ lần trong một cái nháy mắt. Vì thế, trong việc đập một con muỗi thôi, hàng tỷ tâm có chủ ý muốn giết con muỗi đi kèm sẽ khởi lên. Những tâm này cùng với ý muốn giết sẽ làm lắng đọng hàng tỷ hạt giống hay chủng tử nghiệp trong dòng tâm thức.

Một hạt giống rau xanh sẽ sinh ra một cây mới cùng loại với cây đã cho ra hạt giống ấy như thế nào, ở đây cũng vậy, một hạt giống hay chủng tử nghiệp sẽ tạo ra một chúng sinh mới trong một cảnh giới tương xứng với nghiệp nguyên thủy của nó. Một nghiệp bất thiện sẽ cho quả tái sinh trong một khổ cảnh trong khi một nghiệp thiện sẽ cho quả tái sinh trong lạc cảnh.

Trong hành động giết con muỗi có nhiều tỷ bất thiện nghiệp được tạo ra như thế nào thì việc thực hiện một thiện nghiệp, như bố thí cũng thế, nhiều tỷ thiện nghiệp được tạo ra.

Do đó, số thiện nghiệp cũng như bất thiện nghiệp đã tích lũy trong đời này cũng như vô lượng đời quá khứ nhiều đến nỗi không thể nào ghi lại hết được, dù có bằng siêu máy tính (super computer). Tuy nhiên hết thảy những nghiệp ấy đều nằm trong dòng tâm thức của mỗi người và theo họ đến bất cứ nơi đâu họ xuất hiện trong một đời sống mới.

Ví như mỗi vật đều có một cái bóng đi kèm theo thế nào, mỗi nghiệp cũng có quả báo tương xứng đi kèm theo như vậy. Kamma hay nghiệp là hành động và vipāka hay dị thục quả là sự phản ứng của nó. Đó là nhân và quả. Nghiệp tựa như hạt giống, quả (vipāka) giống như cây. Chúng ta gieo thế nào sẽ gặt thế ấy hoặc trong đời này, hoặc trong một đời tương lai nào đó. Những gì chúng ta gặt hôm nay là những gì chúng ta đã gieo hoặc trong hiện tại hoặc trong quá khứ vậy thôi.

Nghiệp tự nó là một quy luậtvận hành trong lãnh vực riêng của nó không có bất kỳ sự can thiệp nào của một tác nhân bên ngoài. Sẵn có trong nghiệp là tiềm lực sẽ tạo ra quả thích đáng. Nghiệp là nhân, dị thục quả là quả. Nhân tạo ra quả, quả giải thích nhân. Luật nhân quả này ngự trị khắp mọi nơi. Mặc dù không thể biết được nghiệp riêng trong một người, song chúng ta có thể phân nghiệp thành vài loại như đức Phật đã mô tảđoán trước được khi nào và ở đâu mỗi loại sẽ cho quả ra sao.

I. Nghiệp Bốn Loại Phân Theo Phận Sự (Kicca Kamma Catuka).

1. Sanh nghiệp - Janaka kamma: Nghiệp tạo ra các danh uẩnsắc uẩn vào sát-na thụ thai cũng như trong suốt đời của một cá nhân.

2. Trì nghiệp - Upatthambhaka kamma: Nghiệp hỗ trợ cho sanh nghiệp cũng như cho hiệu quả của sanh nghiệp trong suốt đời cá nhân ấy.

3. Chướng nghiệp - Upapālaka kamma: Nghiệp cản trở, làm suy yếu, gián đoạn, hay chậm trễ quả của sanh nghiệp.

4. Đoạn nghiệp - Upaghātaka kamma: Nghiệp không những cắt đứt hiệu quả của sanh nghiệp mà còn hủy diệt luôn sanh nghiệp và tạo ra quả riêng của nó. Nói cách khác, nghiệp này làm cho người ta chết đột ngột và phải tái sinh hợp theo đoạn nghiệp.

Trường hợp của Đềbàđạtđa (Devadatta) có thể nêu như một ví dụ về hoạt động của bốn nghiệp kể trên. Sanh nghiệp tốt tạo điều kiện cho ông được tái sinh trong một gia đình hoàng tộc. Sự sung túc và phát đạt của ông là do hoạt động của sanh nghiệp và trì nghiệp. Chướng nghiệp xen vào khi ông bị trục xuất khỏi tăng đoàn (Sangha) và chịu nhục nhã. Rồi cực trọng nghiệp phá hòa hợp tăng của ông đã hoạt động như đoạn nghiệp đưa ông xuống địa ngục Atỳ.

II. Nghiệp Bốn Loại Phân Theo Ưu Tiên Cho Quả - (Pākadānaparīyāya kamma catukka)

1- Cực trọng nghiệp - Garuka kamma: Là loại nghiệp mạnh đến nỗi không nghiệp nào khác có thể chặn được phận sự của nó trong kiếp kế. Nói cách khác, nó là nghiệp chắc chắn sẽ cho quả trong đời sau.

Cực trọng nghiệp xấu có năm – pañcānantariya kamma - hay còn gọi là ngũ vô gián nghiệp, đó là: (1) phá hòa hợp tăng, (2) làm cho Đức Phật chảy máu, (3) giết một vị Alahán, (4) giết cha, (5) giết mẹ. Ngoài ra tà kiến cố định như đoạn kiến v.v… cũng được xếp vào loại này.

Ngược lại, năm thiện nghiệp sắc giới (tức năm bậc thiền tế sắc) và bốn thiện nghiệp vô sắc giới (tức bốn thiền vô sắc) là những cực trọng nghiệp tốt. Các đạo siêu thế (Lokuttara magga) cũng có năng lực cực trọng như thế, vì nó đóng kín vĩnh viễn các cánh cửa đi vào bốn ác đạo.

2- Cận tử nghiệp - Āsanna kamma: là nghiệp được thực hiện hay nhớ lại vào lúc lâm chung.

3- Thường nghiệp - Āciṇṇa-kamma: là nghiệp được thực hiện một cách đều đặn, hoặc cũng có thể được thực hiện chỉ một lần, nhưng lúc nào cũng nhớ đến nó.

4- Tích lũy nghiệp - Kaṭattā-kamma: hay nghiệp không rõ rệt, nghĩa là nghiệp được làm một lần rồi quên ngay.

Vào lúc cuối cùng của đời người, nếu chúng ta có bất kỳ một cực trọng nghiệp nào, nghiệp này sẽ tạo ra quả của nó khi chúng ta chết và làm duyên cho kiếp sống kế của chúng ta.

Nếu khôngcực trọng nghiệp, đây là trường hợp rất thường, lúc đó chúng ta sẽ dựa vào cận tử nghiệp để làm duyên cho kiếp sau. Để có được cận tử nghiệp tốt, con cháu hoặc quyến thuộc của người sắp chết phải chuẩn bị các thiện sự như cúng dường y áo đến các vị sư, hoặc cho người sắp chết được nghe pháp trên giường bệnh. Cũng có thể nhắc cho người sắp chết nhớ đến những thiện sự họ đã làm trong quá khứ v.v…

Câu chuyện về người cha của Trưởng lão Soma ở Tích Lan có thể xem là một điển hình trong trường hợp này. Sinh thời người cha sống bằng nghề săn bắn. Về già, không còn đi săn được nữa, ông xuất gia làm sư trong chùa của người con (tức trưởng lão Soma). Không bao lâu ông ngã bệnh và cứ mơ thấy lũ chó địa ngục leo lên đồi để cắn ông. Ông rất sợ và vì thế ông nhờ người con đuổi lũ chó đi giùm. Con ông, ngài Soma, là một bậc Alahán, biết rằng cha mình đã thấy một gati nimitta (thú tướng) chắc chắn sẽ bị ném vào địa ngục. Ngài nhờ các đệ tử của mình nhanh chóng hái những bông hoa trồng trong chùa và đem rải quanh ngôi tháp thờ Xá lợi, sau đó khiêng cha ngài đến tháp. Trưởng lão Soma nhắc cha đảnh lễ ngôi tháp và hoan hỷ với việc cúng dường hoa nhân danh ông.

Vị sư già trấn tĩnh lại, hết lòng đảnh lễ ngôi tháp và sung sướng khi nhìn thấy những bông hoa được cúng dường đến ngôi tháp nhân danh ông. Ngay lúc đó, thú tướng (gati nimitta) của ông thay đổi. Ông nói với người con, “Các kế mẫu xinh đẹp của con từ cõi trời đã đến rước cha đi đấy”. Người con cảm thấy hài lòng với kết quả của những cố gắng của mình. Đây là cách trả hiếu cho cha mẹ tốt nhất chúng ta có thể làm được.

Tuy nhiên, để chắc chắn có được một cận tử nghiệp tốt, chúng ta nên tu tập thường nghiệp trong lúc còn sống. Thường nghiệp thù thắng nhất là thiền chỉ hoặc thiền minh sátchúng ta thực hành hàng ngày. Khi việc hành thiền trở thành thói quen, nó sẽ được nhớ lại và thực hành vào lúc gần chết.

Vua Dutthāgamani của Tích Lan (Ceylon) có thói quen cúng dường vật thực đến chư tăng trước khi dùng bữa. Một lần, bào đệ của ngài tạo phản và đánh đuổi ngài chạy vào rừng sâu. Trong khi ẩn náu trong rừng, vua hỏi người hầu cận xem có mang gì để ăn không. Người hầu cận trả lời rằng ông có mang theo một tô cơm thượng vị. Đức vua nhận tô cơm và chia làm bốn phần - một cho ngài, một cho người hầu cận, một cho con ngựa, và một để cúng dường. Xong ngài nhờ người hầu cận đi mời các vị sư đến nhận phần cúng dường.

Tất nhiên họ không tìm đâu ra một vị sư ở quanh đó, nhưng do sự khăng khăng của đức vua, người hầu cận phải mời thật lớn. Lạ thay! Một vị sư bằng đường hư không bay đến. Vị sư là một bậc Alahán đã đắc các năng lực thần thông (abhiññā). Đức vua sung sướng đến nỗi không những chỉ cúng dường phần thứ tư của tô cơm mà còn dâng luôn phần của mình. Người hầu cận cũng theo gương đức vua, cúng dường phần của mình. Nhìn sang con ngựa, nó cũng gật đầu ra ý rằng cũng muốn cúng dường phần của nó nữa. Đức vua trong tâm trạng hân hoan được một lúc thì cảm thấy đói bụng trở lại, biết rằng vị Alahán có thiên nhĩ thông (dibba sota) có thể nghe được lời cầu khẩn của mình, vua liền nguyện xin ngài gởi cho phần ăn thừa của bữa cơm. Vị Alahán đã gởi bình bát khất thực của ngài qua hư không. Đức Vua nhận bình bát khất thực ấy và thấy trong đó đầy đủ vật thực do năng lực thần thông của vị Alahán. Đức vua, người hầu cận, và con ngựa ăn uống thỏa mãn.

Sau đó đức vua khôi phục lại quyền lực và hiến dâng một phần tài sản khổng lồ của mình cho Phật giáo để xây dựng ngôi đại tháp Mahā cetiya, rất nhiều tu viện, và các công trình phục vụ tôn giáo khác. Tất cả những thiện sự của ngài đều được ghi vào sổ sách. Khi Đức Vua lâm chung, ngài nghe lại những văn bản mà quần thần đọc. Đến khoản nói về việc cúng dường bữa cơm đến vị Alahán trong rừng, ngài yêu cầu người đọc dừng lại. Đức Vua trong tâm trạng vô cùng hoan hỷ khi nhớ lại việc làm đó và ngài băng hà. Nghiệp lành này đã cho ngài tái sinh lên cung trời Đâu Suất (Tusitā).

Ngược lại, Cunda - một người đồ tễ - sống hơn năm mươi năm bằng nghề mổ heo. Khi sắp chết, lửa địa ngục bốc lên thiêu đốt khiến ông kêu la “eng éc” như heo suốt bảy ngày. Sau khi chết ông rơi vào địa ngục liền. Như vậy, thường nghiệp (ācinna kamma) trở thành cận tử nghiệp (āsanna kamma) và tạo ra quả của nó lúc cuối đời.

Lối So Sánh Với Chuồng Bò

Ví như có nhiều con bò bị nhốt chung trong một chuồng lớn suốt đêm. Đến sáng người ta mở cửa cho chúng ra đồng. Vậy con bò nào sẽ đi ra trước?

Mọi con bò đều muốn đi ra ngay khi có thể. Nếu có một con lớn và khỏe nhất, nó sẽ oai vệ bước tới cửa và đi ra trước. Con bò to khoẻ ấy cũng giống như cực trọng nghiệp chắc chắn sẽ cho quả của nó trong kiếp kế. Bây giờ, nếu không có con bò lớn và khỏe nhất, thì con bò đứng gần cửa nhất sẽ phóng ra đầu tiên. Con này cũng giống như cận tử nghiệp cho quả của nó trong kiếp kế. Đôi khi một con có tinh thần cảnh giác, luôn luôn lưu ý đến thời gian mở cửa, có thể đi đến đó ngay trước khi cửa được mở và đi ra ngoài trước tiên khi cửa chuồng vừa được mở. Con này cũng giống như thường nghiệp cho quả của nó trong kiếp kế. Cũng có khi một con yếu bất thường, bị những con khỏe hơn xô đẩy, có thể đi ra khỏi chuồng đầu tiên. Con này cũng tựa như trường hợp một tích lũy nghiệp bất ngờ có cơ hội làm duyên cho kiếp kế vậy.

Hoàng hậu Mạc Lợi (Mallika) vợ Đức Vua Kosala đã sống một cuộc đời đức hạnh, nhưng vào lúc chết lại nhớ tới lời nói dối của bà với đức vua trước đó rất lâu, vì thế tích lũy nghiệp xấu này đã đẩy bà xuống khổ cảnh trong bảy ngày.

III. Nghiệp Bốn Loại Phân Theo Thời Gian Cho Quả- (Pākakāla kamma catuka)

1. Hiện báo nghiệp - Diṭṭhadhamma vedanāya kamma: nghiệp cho quả trong kiếp hiện tại.

2. Sanh báo nghiệp - Upapajjavedaniya kamma: nghiệp cho quả trong kiếp kế (kiếp thứ hai)

3. Hậu báo nghiệp - Aparāpariyavedaniya kamma: nghiệp cho quả từ kiếp thứ ba trở đi cho đến kiếp cuối cùng khi người ấy chứng đắc Niết Bàn.

4. Vô hiệu nghiệp - Ahosi kamma: Nghiệp không còn cho quả nữa.

Trong việc nghiên cứu các tiến trình tâm (vīthis) chúng ta thấy tâm đại thiện (mahā kusala citta)tâm bất thiện (akusala citta) làm nhiệm vụ như javana (tốc hành) bảy lần trong những trường hợp bình thường. Tư tâm sở (cetanā) kết hợp với tốc hành tâm đầu tiên được định danhDiṭṭhadhamma vedanīya kamma - hiện báo nghiệp, tức nghiệp sẽ cho quả của nó ngay trong đời này. Nếu không cho quả trong đời này nó sẽ trở thành vô hiệu lực.

Đềbàđạtđa và Cunda (người đồ tể) bị lửa địa ngục thiêu sống ngay trong kiếp hiện tại của họ. Cặp vợ chồng nghèo Kālavaliya, sau khi cúng dường cơm đến tôn giả Xá Lợi Phất, trở thành người rất giàu trong vòng bảy ngày.

Trong bảy sát-na tốc hành, tốc hành tâm thứ nhất là yếu nhất. Yếu thứ nhì là tốc hành tâm thứ bảy. Tư tâm sở kết hợp với tốc hành tâm này gọi là uppapajjavedaniya kamma hay sanh báo nghiệp. Nó sẽ tạo quả trong kiếp kế (đời thứ hai). Nếu không cho quả trong đời thứ hai, nó cũng trở thành vô hiệu nghiệp (ahosi). Năm tốc hành tâm giữa rất mạnh và tư hay ý chí kết hợp với chúng gọi là aparapāriya vedaniya-kamma - hậu báo nghiệp. Vì có hàng triệu lộ tâm (vīthis) khởi lên trong một hành động thiện hay bất thiện, nên sẽ có nhiều triệu loại nghiệp này xảy ra trong thời gian tạo tác. Vì thế hậu báo nghiệp này sẽ hoạt động một cách vô định từ kiếp thứ ba trở đi cho đến kiếp cuối cùng nhập Niết Bàn của cá nhân ấy. Không một ai, ngay cả Chư Phật và Chư Vị Alahán, được ngoại lệ khỏi loại nghiệp này.

Do vậy đối với mỗi hành động đã làm, chúng ta sẽ trông đợi những quả không chỉ trong đời này mà cảvô số kiếp tương lai trong quá trình lang thang luân hồi của chúng ta. Vì thế, hãy cẩn thận!

IV. Nghiệp Bốn Loại Phân Theo Nơi Quả Nghiệp Xảy Ra (Pākathāna kamma Catukka)

1. Bất thiện nghiệp - Akusala kamma: nghiệp cho quả trong bốn cảnh khổ (apāya - địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và atula)

2. Thiện nghiệp dục giới - Kāmāvacara kusala kamma: nghiệp cho quả trong bảy cõi vui dục giới (kāmaloka: cõi người và sáu cõi chư thiên dục giới)

3. Thiện nghiệp sắc giới - Rūpāvacara kusala kamma : nghiệp cho quả trong mười sáu cõi sắc (Rūpa loka)

4. Thiện nghiệp vô sắc giới - Arūpāvacara kusala kamma: nghiệp cho quả trong bốn cõi vô sắc (arūpā loka)

GHI CHÚ:

- Ở đây cần lưu ý rằng về cơ bản, nghiệp bất thiện = 12 cetanā (tư tâm sở) kết hợp với 12 tâm bất thiện.

- Thiện nghiệp dục giới = 8 cetanā đi kèm với 8 đại thiện tâm (mahā kusala citta)

- Thiện nghiệp sắc giới = 5 cetanā đi kèm với 5 tâm thiện sắc giới (rūpāvacara kusala citta)

- Thiện nghiệp vô sắc giới = 4 cetanā đi kèm với 4 tâm thiện vô sắc giới (arūpāvacara kusala citta)

- Quả nghiệp có hai: Dị thục danh uẩn (vipāka namakkhandha) và Dĩ tác sắc (katattā rūpa)

- Dị thục danh uẩn là tâm quả (vipāka citta) và các tâm sở của nó.

- Dĩ tác sắc là sắc do nghiệp sanh và sắc do thời tiết sanh.

Sắc do nghiệp sanh (kammaja rūpa) là sắc được tạo ra bởi nghiệp.

Sắc do thời tiết sanh (utiya rūpa) là sắc được tạo ra bởi nhiệt.

Hơn nữa, quả nghiệp khởi sanh ở thời tục sinh (patisandhi kāla), tức sát-na sanh của kiết sanh thức hay tâm tục sinh (patisandhi citta) cũng như thời chuyển khởi hay thời bình nhật (pavatti-kāla) tức từ sát-na trú của tâm tục sinh cho đến lúc chết.

Nghiệp Môn và Ba Loại Nghiệp

Nơi nghiệp phát sinh hay phương tiện qua đó nghiệp phát sinh gọi là nghiệp môn (kamma dvīra). Có ba nghiệp môn:

1. Thân môn (kāya dvāra): Sự chuyển động của thân gọi là thân biểu tri (kāyaviññatti) nơi đây thân nghiệp (kāya kamma) phát sinh.

2. Khẩu môn (vacī dvāra): Chuyển động của miệng tạo ra lời nói gọi là khẩu biểu tri (vacīviññatti) ở đây khẩu nghiệp (vacī kamma) phát sinh.

3. Ý môn (mano dvāra): Tất cả các tâm ở đây ý nghiệp (mano kamma) phát sinh.

Hợp theo ba nghiệp môn này, có ba loại nghiệp:

1. Thân nghiệp (kāya kamma) được thực hiện bằng chuyển động của thân gọi là thân biểu tri

2. Khẩu nghiệp (vaci kamma) được thực hiện bằng sự chuyển động của miệng gọi là khẩu biểu tri.

3. Ý nghiệp (mano kamma) được thực hiện bằng tâm qua sự suy nghĩ, mưu tính, thiền, v.v…

Mười Bất Thiện Nghiệp Đạo

(Akusala kamma pathas)

Kamma patha” có nghĩa là đường hướng hành động hay nghiệp đạo. Đó là tên chỉ một nhóm mười loại nghiệp thiện hoặc bất thiện. Những nghiệp bất thiện được chia thành ba nhóm hợp với ba loại nghiệp:

* Thân nghiệp bất thiện - akusala kāya kamma

1. Sát sinh - pānātipāta

2. Trộm cắp hay lấy tài sản của người khác một cách bất hợp pháp - adinnādānā.

3. Tà dâm - kamesu micchācārā.

* Khẩu nghiệp bất thiện - akusala vacākamma

4. Nói dối - musāvādā

5. Nói chia rẽ - pisunavācā

6. Nói lời thô ác - pharusavācā

7. Nói chuyện phù phiếm - samphappalāpa

* Ý nghiệp bất thiện - akusala mano kamma

8. Ý tham - abhijjhā

9. Ác ý - vyāpāda

10. Tà kiến - micchā diṭṭhi

Mười bất thiện nghiệp này cũng gọi là mười ác hạnh (ducarita). Trong đó, sát sinh, nói lời thô ác và ác ý được làm bởi các tâm căn sân (dosa mūla citta). Tà dâm, ý tham và tà kiến được làm bởi các tâm căn tham (lobha mūla citta). Trộm cắp, nói dối, nói chia rẽ, và nói chuyện phù phiếm được làm bởi hoặc các tâm căn tham hoặc các tâm căn sân.

GHI CHÚ

Ba bất thiện nghiệp đạo cuối cùng - ý tham, ác ý, và tà kiến thường chỉ nảy sinh trong tâm chứ khơng bộc lộ qua thân hoặc khẩu. Nghiẹp như vậy chỉ nảy sinh qua ý môn (manodvāra), mà ở đây là một tên chung cho tâm trong tính toàn vẹn của nó.

* Ý tham (abhijjhā)tâm sở tham, khởi sanh như ước muốn có được tài sản của người khác. Mặc dù tham khởi lên đối với tài sản của người khác, nó sẻ khơng trở thành nghiệp đạo trừ phi người ta sanh khởi ước muốn chiếm hữu tài sản đó.

* Ác ý (vyāpāda)tâm sở sân, cũng sẽ trở thành một nghiệp đạo khi nó khởi lên với ước muốn cho người khác hay chúng sinh khác gặp tai họa và khổ đau.

* Tà kiến ( micchādiṭṭhi ) trở thành một nghiệp đạo khi nó chấp nhận quan niệm bàc bỏ hoàn toàn phương diện đạo đức, nghĩa là phủ nhận giá trị của luân lýquả báo của nghiệp.

Kinh Tạng (sutta pitaka) thường đề cập đến ba quan kiến như vầy:

1. Hư vô tà kiến (natthika diṭṭhi): phủ nhận việc tái sinh dưới bất kỳ hình thức nào sau khi chết, như vậy đã phủ nhận ý nghĩa đạo đức của hành động.

2. Vô hành tà kiến (akiriya diṭṭhi): cho rằng mọi hành động đều không có tính hiệu quả trong việc tạo ra những quả báo và như vậy làm cho việc phân biệt đạo đức, như phải-trái, thiện-ác, v.v… khơng còn giá trị gì nữa.

3. Vô nhân tà kiến (ahetuka diṭṭhi): cho rằng không có nhân hay duyên cho sự thanh tịnh hay phiền não của chúng sinh, rằng chúng sinh ô nhiễm hay thanh tịnh là do tình cờ, do số phận, hoặc do quy luật tất yếu mà thôi. (Xem thêm D.2, M.60, M.76)

Mười Thiện Nghiệp Đạo

(Kusala kamma pathas)

Mười thiện nghiệp đạo này cũng gọi là mười thiện hạnh (sucaritas) và cũng được chia thành ba nhóm hợp theo ba loại nghiệp:

* Thân nghiệp thiện – Kusala kāya kamma

1. Không sát sinhPānātipātā virati

2. Không trộm cắp - Adinādāna virati

3. Không tà dâm - Kamesu micchācāra virati

* Khẩu nghiệp thiện - Kusala vacī kamma

4. Không nói dối - Musāvādā virati

5. Không nói chia rẽ - Pisunavācāvitary

6. Không nói lời thô ác - Pharusavācā vitari

7. Không nói chuyện phù phiếm - Samphappalāpa vitari. Nói cách khác, ta nên dùng lời nói chân thật, lời nóitính cách hòa giải (lấy lại được tình bạn), lời nói nhu mì, và lời nóihiểu biết.

* Ý nghiệp thiện - Kusala mano kamma

8. Không tham - Anabhijjhā

9. Không ác ý - Avyāpāda

10. Chánh kiến - Sammā diṭṭhi

GHI CHÚ

Trên phương diện thực tại cùng tột, bảy thiện nghiệp đạo đầu được xem là đồng nhất với hai tiết chế tâm sở, đó là chánh nghiệpchánh ngữ, và các tư tâm sở khởi lên cùng với các tiết chế tâm sở ấy cũng vậy. Ba thiện nghiệp đạo cuối cùng, không tham, không ác ý, và chánh kiến, là những phương thức của ba thiện căn, vô tham, vô sân, và vô si.

Phước Nghiệp Sự (Puñña-kiraya vatthu)

Nếu muốn tích lũy thiện nghiệp trong đời này, mười phước nghiệp sự cho quả thiện cần phải được thực hiện bằng mọi phương tiện.

1. Bố thí (dāna)

2. Trì giới (sīla): ngũ giới hoặc bát quan trai giới

3. Tu thiền (bhāvanā): cả thiền chỉ lẫn thiền quán

4. Cung kính (pacāyama): kính trọng các bậc trưởng lão và các bậc thánh

5. Phục vụ (veyāvacca)

6. Hồi hướng công đức (pattidāna)

7. Tuỳ hỷ công đức (pattāanumodana)

8. Thính Pháp (dhamma savana)

9. Thuyết Pháp (dhamma desanā)

10. Uốn nắn tri kiến (diṭṭhijjukamma)

Mười phước nghiệp sự trên có thể sắp thành ba nhóm:

- Nhóm Bố thí gồm bố thí, hồi hướng công đức, tuỳ hỷ công đức.

- Nhóm Trì Giới gồm trì giới, cung kính, phục vụ.

- Nhóm Tu thiền gồm tu thiền, thính pháp, thuyết pháp, uốn nắn tri kiến.

Ở đây, uốn nắn tri kiến cũng có thể kể vào trong cả ba nhóm được, vì chỉ khi có chánh kiến về nghiệp và quả của nghiệp, chúng ta mới thực hiện việc bố thí, trì giớitu thiền đúng nghĩa.

Nhóm bố thí tiêu biểu cho vô tham - alobha và đối nghịch với ganh tị - issābỏn xẻn - macchariya. Nhóm này được so sánh với đôi chân.

Nhóm giới tiêu biểu cho vô sân - adosa và đối nghịch với tham - lobha và sân - dosa. Nhóm này được ví như thân mình.

Nhóm tu thiền tiêu biểu cho vô si - amoha hay trí tuệ - paññā và đối nghich với si hay vô minh - moha. Nhóm này được so sánh với cái đầu.

Để có được đôi chân, thân mình và cái đầu hoàn hảo, chúng ta phải thực hiện cả ba nhóm – thí, giới, tuệ – của phước nghiệp sự.

Mười phước nghiệp sự được thực hiện với tám đại thiện tâm (mahā kusala citta), trừ phi chúng ta đắc thiền hay đạo quả. Vì thế chúng ta thường phát sinh những thiện nghiệp dục giới mà thôi.

Thiện nghiệp sắc giớithiện nghiệp vô sắc giới thuần là ý nghiệp và chúng thuộc về nhóm tu thiền (bhāvanā).

Thiện Nghiệp Nhị NhânThiện Nghiệp Tam Nhân (Dvihetuka Kusala Kamma & Tihetuka Kusala Kamma)

Nếu một người làm việc thiện với sự hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp, đó là nghiệp tác trí – kammassakatañāṇa, lúc đó các tâm đại thiện hợp trí (ñāna sampayutta makā kusala citta) sẽ phát sinh. Tư (cetanā) kết hợp với các tâm này có đủ ba nhân thiện, vô tham, vô sân, và vô si đi kèm. Vì thế họ có được thiện nghiệp tam nhân. Sẽ tốt hơn nữa, nếu trong khi làm những việc thiện, chúng ta có thể phát triển minh sát trí - vipassanā ñāṇa bằng cách suy xét rằng mọi vật đều vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã. Thiện nghiệp có được cũng có ba nhân thiện đi kèm như vậy.

Ngược lại, nếu chúng ta thực hiện một thiện sự không có chút hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp, hoặc không có minh sát trí, thời chúng ta đang làm việc thiện ấy với các tâm đại thiện ly trí - ñāṇa vippayutta mahā-kusala citta. Như vậy cetanā hay tư của chúng ta sẽ chỉ có hai nhân thiện đi kèm - đó là vô thamvô sân, chứ không có vô si. Vì thế chúng ta chỉ có được thiện nghiệp nhị thân.

Thiện Nghiệp Thù ThắngThiện Nghiệp Hạ Liệt (Ukkaṭṭha kusala kamma & Omaka kusala kamma)

Nếu trước và sau khi làm một việc thiện, chúng ta phát triển được các tâm thiện, thời tư thiện (cetanā) là nghiệp có được trong lúc làm thiện sẽ được vây quanh bởi các tư thiện (ý nghĩ thiện), vì thế tiềm lực của nó sẽ tăng trưởng thêm. Loại nghiệp như vậy gọi là thiện nghiệp thù thắng. Để có loại nghiệp này, chúng ta phải suy nghĩ đến thiện sự mình đã làm và phải hoan hỷ vì có cơ hội làm nó. Lại nữa, sau khi làm xong, chúng ta cũng phải ngập tràn tâm hoan hỷ về sự tốt đẹp của việc làm ấy.

Ngược lại, nếu chúng ta cảm thấy thờ ơ, miễn cưỡng hoặc ganh tị, bỏn xẻn trước một thiện sự như bố thí, v.v… và rồi hối tiếc sau khi làm, thời tư thiện sẽ bị vây quang bởi các cetanā bất thiện, và tiềm lực của nó cũng vì thế sẽ suy giảm. Thiện nghiệp có được trong trường hợp này được gọi là thiện nghiệp hạ liệt.

Giải thích thêm:

Thiện nghiệp được phân thành hai loại theo khả năng cho quả của chúng. Loại thiện nghiệp thù thắng được làm với một cái tâm đã khéo gội rửa sạch phiền não và có mặt ba nhân thiện: vô tham, vô sânvô si, trước và sau khi làm một thiện sự; chẳng hạn để bát đến một vị giới đức với tài sản có được một cách chân chính, trước và sau khi để bát tâm đều hoan hỷ. Loại hạ liệt được làm với một cái tâm mà trước và sau khi thực hiện một thiện sự bị ô nhiễm bởi phiền não như tự khen mình, chê bai người khác (tự tán, hủy tha) và sau đó là hối tiếc.

Nghiệp Cho Quả Như Thế Nào?

Mặc dù khi nói đến những dị thục quả trực tiếp của nghiệp chúng ta chỉ nói đến các tâm quả (vipāka-citta), song cần phải hiểu rằng những tâm quả này luôn luôn có những tâm sở tương ứng sanh cùng với tâm đi kèm. Một tâm quả cùng với các tâm sở đồng sanh của nó sẽ cung cấp bốn dị thục danh uẩn (vipāka nāmakkhandha). Nghiệp cũng không ngừng tạo ra các sắc nghiệp (sắc do nghiệp sanh) ở từng sát-na tiểu, và dựa trên sắc nghiệp (kammaja rūpa) này, sắc thời tiết (utuja rūpa) cũng sanh. Như vậy, bốn danh uẩnsắc uẩn hợp lại tạo thành ngũ uẩn gọi là một cá nhân.

1. Quả Của Nghiệp Bất Thiện

Mười một tư bất thiện (akasalā cetanā), ngoại trừ tư (cetanā) yếu kết hợp với tâm tương ứng trạo cử (uddahacca-sampayutta citta), vào thời tục sinh (paṭisandhi- kāla) tạo ra tâm quan sát thọ xả quả bất thiện (akusala-vipāka-upekkhā-santiraṇa citta), tâm này hình thành apāya paṭisandhi – tức thức tái sinh trong bốn cõi khổ.

Tuy nhiên, trong thời bình nhật (pavatti kāla) cả mười hai cetanā bất thiện này tạo ra bảy tâm quả bất thiện trong mười một cõi dục giới. Và trong mười lăm cõi sắc giới (trừ vô tưởng), chúng chỉ tạo ra bốn tâm quả bất thiện trừ tỷ thức (ghānaviññāna), thiệt thức (jivhāviññāna), và thân thức (kāya viññāna).

Ghi chú 

Nghiệp bất thiện trừ trạo cử hay phóng dật ở đây cần hiểu là tâm căn si kèm với phóng dật (si phóng dật) là tâm yếu nhất trong mười hai tâm bất thiện, vì vậy nó không thể đảm nhiệm vai trò tạo ra tái sinh. Bất cứ tâm nào trong mười một tâm bất thiện còn lại đều có thể tạo ra tâm quan sát quả bất thiện vốn làm những nhiệm vụ như kiết sanh, hữu phần, và tử tâm cho những chúng sinh tái sinh trong bốn cõi khổ. Tuy nhiên, trong thời bình nhật, cả mười hai tâm bất thiện này đều có thể tạo ra bảy tâm quả bất thiện ở bất cứ nơi đâu trong dục giới; đó là: ngũ thức tâm, tâm tiếp thâu và tâm quan sát.

2. Quả Của Thiện Nghiệp Dục Giới

Trước hết, có hai loại thiện nghiệp dục giới (kāmāvacara kusala kamma) là thiện nghiệp nhị nhânthiện nghiệp tam nhân. Nghiệp nhị nhân (Divhetuka kamma) lại còn phân làm hai: thù thắnghạ liệt. Nghiệp tam nhân cũng chia làm hai: thù thắnghạ liệt như vậy. Vì thế, gom hết lại, chúng ta có bốn nhóm:

chanhkienvanghiep-bieudo276

Ở đây, bốn ñāṇa vippayutta mahā kusala citta (bốn tâm đại thiện ly trí) tạo ra bốn dvihetuka mahā kusala kammas (bốn nghiệp đại thiện nhị nhân), trong khi bốn ñāṇa sampayutta mahā kusala cittas (bốn tâm đại thiện hợp trí) tạo ra bốn tihetuka mahā kusala kammas (bốn nghiệp đại thiện tam nhân).

Vì bốn nghiệp đại thiện nhị nhân có thể hoặc thù thắng hoặc hạ liệt, nên chúng ta có bốn nhóm:

4 dvihetuka ukkaṭṭha mahā kusala kamma (4 nghiệp đại thiện nhị nhân thù thắng), và

4 dvihetuka omaka mahā kusala kamma (4 nghiệp đại thiện nhị nhân hạ liệt)

Tương tự, từ bốn nghiệp đại thiện tam nhân, chúng ta có:

(3) 4 tihetuka ukkaṭṭha mahā kusala kamma (4 nghiệp đại thiện tam nhân thù thắng)

(4) 4 tihetuka omaka mahā kusala kamma (4 nghiệp đại thiện tam nhân hạ liệt)

Trong bốn nhóm trên (2) là thấp nhất, (1) và (4) là trung bình, và (3) là tốt nhất. Quả báo chúng cho sẽ tính như sau:

Nhóm (1) và (4): 4 nghiệp đại thiện nhị nhân thù thắng (4 dvihetuka ukkaṭṭha mahā kusala kamma) và 4 nghiệp đại thiện tam nhân hạ liệt (4 tihetuka omaka mahā kusala kamma), vào thời tục sinh tạo ra 4 ñāna vipayuatta mahāvipāka cittas (4 tâm đại quả ly trí) vốn hình thành 4 kāma sugati dvihetuka patisandhi (4 kiết sanh thức nhị nhân thiện thú dục giới) trong bảy cõi vui dục giới (một cõi người và sáu cõi trời dục giới).

Vào thời bình nhật, chúng tạo ra tám tâm quả thiện vô nhân (8 ahetuka kusala vipāka cittas) và bốn tâm đại quả ly trí (ñāṇa vippayutta mahāvipaka cittas) trong bảy cõi vui dục giới.

Chúng cũng tạo ra tám tâm quả thiện vô nhân (8 ahetuka kusala vipāka citta) trong bốn cõi khổ; và tạo ra năm quả thiện vô nhân trừ tỷ thức, thiệt thức, và thân thức trong mười lăm cõi sắc giới (không kể cõi chúng sinh vô tưởng - asañña satta).

Nhóm (2): Bốn nghiệp đại thiện nhị nhân hạ liệt (4 dvihetuka omaka mahā kusala kamma), vào thời tục sinh tạo ra tâm quan sát thọ xả quả thiện (kusala vipāka upekkhā santirana), tâm này hình thành kiết sanh thức vô nhân thiện thú dục giới (kāma sugati ahetuka paṭisandhi) trong cõi nhân loại và cõi tứ đại thiên vương (catumahārājka) thấp hơn.

Vào thời bình nhật, chúng tạo ra tám tâm quả thiện vô nhân (8 ahetuka-kusala vipāka citta) trong mười một cõi dục; trong mười lăm cõi sắc giới (trừ vô tưởng), chúng tạo ra năm tâm quả thiện vô nhân, trừ tỷ thức, thiệt thứcthân thức.

Nhóm (3): Bốn nghiệp đại thiện tam nhân thù thắng (4 tihetuka ukkaṭṭha mahā kusala kamma) vào thời tục sinh, tạo ra bốn tâm đại quả hợp trí (4 ñāna sampayutta mahā kusala citta) những tâm này hình thành kiết sanh thức tam nhân thiện thú dục giới (4 kāma sugati tihetuka paṭisandhi) trong bảy cõi vui dục giới; chúng cũng tạo ra tám tâm quả thiện vô nhân trong bốn cõi khổ; và tạo ra năm tâm quả thiện vô nhân (trừ tỷ thức, thiệt thức, thân thức) trong mười lăm cõi sắc giới, không kể cõi chúng sinh vô tưởng.

3. Quả Của Thiện Nghiệp Sắc Giới

Trong bốn như ý túc: dục (chanda), tâm (citta), cần (vīriya) và tuệ (paññā) kết hợp với tâm thiền (jhāna citta), lúc nào cũng có một yếu tố ưu thắng hơn. Dựa trên tính chất của yếu tố ưu thắng này, các bậc thiền có thể được phân biệt như: thấp (paritta), trung bình (majjhimā), và cao thượng (panāta).

* Thiện Nghiệp Sơ Thiền

- Thiện nghiệp sơ thiền bậc thấp (paritta first jhāna kusala kamma) cho quả tái sinh trong cõi Phạm Phụ Thiên (Brahma purohitā) với tâm quả sơ thiền kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp sơ thiền bậc trung (majjhimā-first jhāna kusala kamma) cho quả tái sinh trong cõi Phạm Phụ Thiên (Brahma purohitā) với tâm quả sơ thiền kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp sơ thiền bậc cao (panīta first jhāna kusala kamma) cho quả tái sinh trong cõi Đại Phạm Thiên (Mahā brahma) với tâm quả sơ thiền kể như thức tái sinh.

* Thiện Nghiệp Nhị ThiềnTam Thiền

- Thiện nghiệp nhị thiền bậc thấp (paritta second jhāna kusala kamma) và thiện nghiệp tam thiền bậc thấp (paritta third jhāna kusala kamma) cho quả tái sinh trong cõi Thiểu Quang Thiên (Parittābhā) với tâm quả nhị thiền và tâm quả tam thiền lần lượt kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp nhị thiền bậc trung và thiện nghiệp tam thiền bậc trung cho quả tái sinh trong cõi Vô Lượng Quang Thiên (Appamāṇābhā) với tâm quả nhị thiền và tâm quả tam thiền lần lượt kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp nhị thiền bậc cao và thiện nghiệp tam thiền bậc cao cho quả tái sinh trong cõi Quang Âm Thiên (ābhassarā) với tâm quả nhị thiền và tâm quả tam thiền lần lượt kể như thức tái sinh.

* Thiện Nghiệp Tứ Thiền

- Thiện nghiệp tứ thiền bậc thấp cho quả tái sinh trong cõi Thiểu Tịnh thiên (Parittasubhā) với tâm quả tứ thiền kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp tứ thiền bậc trung cho quả tái sinh trong cõi Vô Lượng Tịnh Thiên (Appamāṇasubhā) với tâm quả tứ thiền kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp tứ thiền bậc cao cho quả tái sinh trong cõi Biến Tịnh Thiên (subhakiṇhā) với tâm quả tứ thiền kể như thức tái sinh.

* Thiện Nghiệp Ngũ Thiền

Thiện nghiệp ngũ thiền cho quả tái sinh trong cõi Quảng Quả Thiên (vehapphalā) với tâm ngũ thiền kể như thức tái sinh.

Sau khi đắc ngũ thiền, nếu một người hành sañña virāga bhāvana (thiền ly dục đối với tưởng và thức, tức là không còn mong muốn có tưởng và thức) thời nghiệp này sẽ cho quả tái sinh trong cõi Vô Tưởng Thiên (Asaññā-satta) chỉ có sắc tục sinh (rūpa-paṭisandhi). Riêng các bậc Anahàm (Thánh tam quả) có thiện nghiệp ngũ thiền sẽ tái sinh cõi Tịnh Cư Thiên (sudhāvāsa) với tâm quả ngũ thiền kể như thức tái sinh.

Ở đây cần hiểu rằng tuỳ vào căn ưu thắng mà việc tái sinh xảy ra trong năm cõi tịnh cư như sau:

- Bậc có tín căn ưu thắng sanh về cõi Vô Phiền (Avihā)

- Bậc có tấn căn ưu thắng sanh về cõi Vô Nhiệt (Atappā)

- Bậc có niệm căn ưu thắng sanh về cõi Thiện Kiến (Sudassana)

- Bậc có định căn ưu thắng, sinh về cõi Thiện Hiện (Sudassā)

- Bậc có tuệ căn ưu thắng, sinh về cõi sắc Cứu Kính Thiên (Akaniṭṭhā)

4. Quả Của Thiện Nghiệp Vô Sắc

- Thiện nghiệp không vô biên xứ Ākāsānañcāyatana kusala kamma) cho quả tái sinh trong cõi không vô biên xứ Ākāsānañcāyatana) với tâm quả không vô biên xứ kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp thức vô biên xứ (viññānañcāyatana kusala kamma) cho quả tái sinh trong cõi thức vô biên xứ, với tâm quả thức vô thiên xứ kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatana kusala kamma) cho quả tái sinh trong cõi vô sở hữu xứ với tâm quả vô sở hữu xứ kể như thức tái sinh.

- Thiện nghiệp phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasaññānāsaññāyatama kusala kamma) cho quả tái sinh trong cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ kể như thức tái sinh.

Bốn Nguyên Nhân Của Sự Chết (Maraṇupatti-catuka)

Bốn nguyên nhân của chết có thể được so sánh với bốn cách tắt của một ngọn đèn dầu. Ngọn lửa của cây đèn có thể tắt khi:

- Tim lụn,

- Dầu hết,

- Cả tim và dầu đều hết, hoặc

- Gió thổi thình lình hoặc do cố tình dập tắt mặc dù tim và dầu vẫn còn.

Cũng vậy, một người có thể chết theo một trong bốn cách sau:

- ā yukkhaya-maraṇa, chết do thọ mạng đã tận (thọ tận tử)

- Kammakkhaya-maraṇa, chết do sanh nghiệp lực đã tận (nghiệp tận tử)

- Ubhayakkhaya-maraṇa, chết do cả thọ mạng lẫn sanh nghiệp đều đã tận (lưỡng câu tận tử)

- Upacchedaka-maraṇa, chết do sự can thiệp của một đoạn nghiệp. Đó là cái chết thình lình như khi gặp tai nạn xe cộ hay tự tử.

Giải Thích Thêm

Cái chết thường được định nghĩa như sự chấm dứt của mạng căn (jīvitindriya) trong giới hạn của một kiếp sống.

Trường hợp chết do thọ mạng đã tận là loại chết xảy ra đối với những chúng sinh trong những cõi mà thọ mạng được giới hạn bởi một định mức rõ rệt (như cõi tứ đại thiên vương là 9 triệu năm) Trong cõi nhân loại cũng vậy, cái chết này cần phải hiểu như cái chết trước tuổi già do những nguyên nhân tự nhiên. Nếu sanh nghiệp vẫn chưa tận khi cái chết xảy ra do đã đạt đến tuổi tối đa, thời nghiệp lực có thể tạo ra một tái sinh khác trong cùng cõi đó (nhân loại) hoặc trong một cõi cao hơn như trường hợp của các vị chư thiên (devas).

Trường hợp chết do nghiệp lực (sanh nghiệp) đã tận là loại chết xảy ra khi sanh nghiệp đã cạn hết năng lực của nó mặc dù thọ mạng bình thường vẫn chưa hết và có điều kiện thuận lợi khác để kéo dài sự sống.

Khi cả thọ mạng lẫn nghiệp lực đồng thời chấm dứt, thì đây gọi là cái chết do cả hai đều tận.

Trường hợp chết do sự can thiệp của một đoạn nghiệp, đây là một thuật ngữ chỉ cái chết xảy ra khi một đoạn nghiệp rất mạnh cắt đứt năng lực của sanh nghiệp ngay cả trước khi thọ mạng tận.

Ba loại chết đầu gọi là chết đúng thời (Kālamaraṇa), loại chết sau cùng (do đoạn nghiệp) là chết phi thời (Kkāla-maraṇa). Ví như một ngọn đèn dầu có thể tắt do hết tim, do hết dầu, do cả tim lẫn dầu cùng hết, hoặc do một nguyên nhân bên ngoài nào đó, như một cơn gió thổi qua làm tắt.

Sự Xuất Hiện Của Các Đối Tượng Liên Quan Đến Nghiệp

Bây giờ, đối với một người sắp chết, do sức mạnh của nghiệp sẽ làm duyên hay tạo điều kiện cho kiếp sau, một trong ba đối tượng sau luôn luôn xuất hiện qua một trong sáu môn:

- Nghiệp (Kamma): ở đây nghiệp tạo ra tái sinh trong đời sau đi vào ý môn.

- Nghiệp tướng (Kamma nimitta): là các cảnh sắc, âm thanh, mùi vị, v.v… đang hay đã được quan sát trong lúc tạo nghiệp sẽ cho quả (tái sinh).

- Thú tướng (Gati-nimitta): là các cảnh tượng về con người hay những toà nhà có liên quan đến nơi người sắp chết sẽ tái sinh theo nghiệp thành công vì lẽ nghiệp là hình thức của một tư (cetanā) quá khứ, nên nó sẽ xuất hiện theo ý môn.

Nghiệp thành công ở đây phải hiểu là nghiệp đã tìm được cơ hội cho quả tái sinh do tranh đua với những nghiệp khác.

Nếu nghiệp tướng (kamma nimitta) thuộc về nghiệp quá khứ, nó cũng tự xuất hiện qua ý môn. Nếu thuộc nghiệp hiện tại, nó có thể đi vào qua bất kỳ môn nào trong sáu môn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) tùy vào hình thức của nó. Chẳng hạn, nếu là cảnh sắc (sắc trần) nó sẽ đi vào qua nhãn môn, nếu là cảnh thinh (âm thanh) nó sẽ đi vào qua nhĩ môn v.v…

Gatinimitta (thú tướng) thuộc hiện tại, vì thế, tùy vào hình thức của nó, nó có thể xuất hiện qua bất kỳ môn nào của sáu môn.

Giải thích thêm về Maraṇāsanna Nimitta (đối tượng hay tướng liên quan đến nghiệp vào thời cận tử)

Trong kiếp hiện tại, một người sẽ còn sống bao lâu thiện nghiệp (kasala kamma) vốn đã cho họ quả tái sinh trong kiếp này còn tiếp tục hỗ trợ hay nâng đỡ họ, tức là nghiệp này còn tiếp tục tạo ra các tâm hữu phần (bhavaṅga cittas) như quả của nghiệp.

Ngay trước khi nghiệp hỗ trợ đó tàn lụi, trong số rất nhiều thiện nghiệpbất thiện nghiệp đang tranh nhau để tìm cơ hội cho quả, một nghiệp sẽ nổi lên như kẻ chiến thắng.

Nghiệp thành công này có thể xuất hiện trong tâm hữu phần (ý môn) của người đó như một nghiệp (kamma). Khi điều này xảy ra, người đó có thể nhớ lại một nghiệp tốt hay xấu mà họ đã làm trong quá khứ liên quan đến nghiệp thành công. Tâm thiện hoặc bất thiện, đã kinh nghiệm vào sát- na đặc biệt ấy, bây giờ khởi lên như một tâm mới. Nói khác hơn, đó là sự tái diễn của tâm thức mà người ấy đã kinh nghiệm trong khi thực hiện hành động (tức lúc tạo tác nghiệp).

Thỉnh thoảng, đối tượng có thể là một tướng hay một biểu tượng kết hợp với nghiệp thành công xuất hiện ở một trong các cửa giác quan (sáu môn). Nó có thể là một trong năm trần cảnh được quan sát qua một trong năm môn tương ứng như đối tượng hiện tại, hoặc được quan sát qua ý môn như đối tượng quá khứ. Đối tượng quá khứ hay hiện tại kết hợp với nghiệp thành công này gọi là nghiệp tướng (kamma nimitta). Chẳng hạn, một người lúc sắp chết được nghe pháp, và thiện nghiệp này trở thành nghiệp thành công để cho quả tái sinh kiếp kế. Trong trường hợp này, những lời pháp hiện tại được nắm bắt qua tai trở thành nghiệp tướng.

Trường hợp khác, giả sử một vị giáo sư sắp chết, qua con mắt tâm của mình (mano viññāna), ông thấy những người học trò mà ông đã dạy, đây cũng là nghiệp tướng dưới hình thức của một đối tượng quá khứ xuất hiện tại ý môn. Hoặc trong trường hợp một người đồ tể sắp chết nghe thấy tiếng kêu la của trâu bò mà ông đã giết. Thinh trần hay cảnh thinh (âm thanh) quá khứ này cũng là nghiệp tướng xuất hiện đến ông ngang qua ý môn.

Đôi khi những biểu tượng về nơi chốn mà người sắp chết sẽ tái sinh vào theo nghiệp thành công có thể xuất hiện tại ý môn. Chẳng hạn, những chúng sinh chư thiên hoặc các toà thiên cung có thể xuất hiện đến người sắp chết nếu họ sẽ tái sinh vào một trong các cõi chư thiên; hoặc nếu họ sắp tái sinh vào địa ngục, thì hình ảnh những người bất hạnh trong địa ngục hoặc những người tàn ác, hung dữ sẽ xuất hiện đến cho họ. Những đối tượng liên quan đến nơi thọ sinh này gọi là thú tướng (gatinimitta).

Như vậy, khi một người sắp chết, một trong ba loại ‘maraṇāsanna-nimitta’ (tướng liên quan đến nghiệp lúc sắp chết), đó là ‘kamma’ (nghiệp), ‘kamma nimitta’ (nghiệp tướng), và ‘gatinimitta’(thú tướng), sẽ luôn luôn xuất hiện tại một trong sáu căn môn. Người đó chẳng bao lâu sẽ chết và tái sinh trong kiếp kế. Lúc đó tâm tục sinh hay kiết sanh thức (paṭisandhi-citta), tâm hữu phần (bhavaṇga citta) và tâm tử (cuti-citta) của người ấy trong kiếp sống mới sẽ cùng bắt lấy maraṇāsanna-nimitta (tướng cận tử) của kiếp quá khứ.

Cần nhấn mạnh rằng, đối tượng (một trong ba tướng cận tử) tự xuất hiện đến tiến trình javana (tốc hành tâm) của người sắp chết, chứ không phải ở tâm tử (cuti citta). Tâm tử, tâm cuối cùng của một đời sống, bắt cùng đối tượng như tâm tục sinh và tâm hữu phần của kiếp sống sắp chấm dứt ấy bắt. Đối tượng của tiến trình tâm tốc hành (javana) cuối cùng lúc đó làm việc như đối tượng tâm tục sinh và tâm hữu phần trong kiếp kế, và nó cũng trở thành đối tượng của tâm tử ở cuối kiếp sống đó.

Tâm Lộ Cận Tử (Maraṇāsanna Vīthi)

Khi tướng cận tử (Maraṇāsanna-nimitta) xuất hiện tại một trong sáu môn, tâm chuyển hướng hay hướng tâm (āvajjana-citta) sẽ bắt lấy đối tượng và một dòng tâm thức, gọi là tâm lộ cận tử (maraṇāsanna vīthi) tiếp tục trôi chảy phù hợp với nghiệp (kamma) được xem là sẽ tạo ra sự tái sinh kế tiếp, một tâm bất thiện (akusala) hoặc một tâm thiện (kusala) bình thường làm nhiệm vụ năm lần như những tâm tốc hành (javanas) trong các tâm lộ này. Những tốc hành tâm ấy được gọi là “những tốc hành tâm cận tử” (maraṇāsanna-javanas).

A. Tâm Lộ Cận Tử Nhãn Môn Cảnh Rất Lớn (Ati-mahantā-rammaṇa cakkhu-dvāra maraṇāsanna vīthis)

Ở đây sẽ trình bày hai tâm lộ cận tử điển hình đối với một cảnh sắc (sắc trần) có cường độ rất lớn đập vào nhãn môn.

(1) Ti-Na-Da-“Pa-Ca-Sam-Na-Vo-ja-ja-ja-ja-ja-Dā-Dā-Bh-Cuti-Paṭi”-Bha-

(2) Ti-Na-Da-“Pa-Ca-Sam-Na-Vo-ja-ja-ja-ja-ja-Dā-Dā-Cuti-Paṭi”-Bha

Giải thích

Nghiệp tướng (kamma-nimitta) hiện tại hoặc thú tướng (gati-nimitta) đập vào nhãn môn ở sát-na sanh của tâm hữu phần vừa qua thứ nhất (Ti = atīta-bhavaṅga). Do có cường độ rất lớn, tướng này trở nên rõ rệt ở sát-na sanh của hữu phần rung động (Na = bhavaṅga calana). Tâm hữu phần (bhavaṅga) rung động trong hai sát na (Na-Da = bhavaṅgagupaccheda) và bị cắt đứt. Lúc đó tâm hướng ngũ môn (Pa = pañcadvārāvajjana), quan sát tướng (nimitta), và nhãn thức (Ca = cakkhuviññāna), tiếp thâu (Sam = saṃpaṭicchana), quan sát (Na = santiraṇa), đoán định (vo = voṭṭhapana), năm tốc hành (ja = javanas), hai đồng sở duyên (Dā = tadālambaṇa) và một hữu phần (Bh = bhavaṇga) nối nhau sanh lên. Rồi tâm tử (cuti) xuất hiện khi người đó chết. Trong lộ tâm thứ (2), tâm tử (cuti) trực tiếp theo sau đồng sở duyên (tadālambaṇa) mà không có bất kỳ sự can thiệp nào của tâm hữu phần (bhavaṅga).

Liền sau sự diệt của tử tâm, tâm tục sinh (piṭisandahi citta) khởi lên trong kiếp sống mới kế tiếp mà không có bất kỳ sự gián đoạn nào trong dòng tâm thức và cũng không có bất kỳ một sai sót nào trong thời gian. Đời sống kế tiếp có thể xuất hiện ở một nơi rất xa, như cõi phạm thiên chẳng hạn, song cũng không có sai sót nào về thời gian.

Như vậy, vì dòng tâm thức trôi chảy liên tục, nên không thể có chướng ngại trong vấn đề thời giankhông gian. Ý niệm về sự phi thời gian (vô tận) và phi không gian (vô biên) được thấy rõ ở đây. Cũng như quan niệm cho rằng linh hồn người chết phiêu diêu đây đó trước khi nhập vào kiếp sống mới là không đúng. Theo Vi Diệu Pháp, không có linh hồn hay con người nào cả, chỉ có một dòng danh (nāma) và sắc (rūpa) trôi chảy không ngừng phù hợp với quy luật duyên sanh (tức thập nhị nhân duyên - Paticcasamuppāda).

B Tâm Lộ Cận Tử Nhãn Môn Cảnh Lớn (Mahantā-rammana cakkhu-dvāra Maraṇāsanna Vīthis)

(1) Ti-Ti-Na-Da-“Pa-Ca-Sam-Na-Vo-ja-ja-ja-ja-ja-bha- Cuti-Pati”-Bha-

(2) Ti-Ti-Ti-Na-Da-“Pa-Ca-Sam-Na-Vo-ja-ja-ja-ja-ja-Cuti-Pati”-Bha-

C. Tâm Lộ Cận Tử Ý Môn Cảnh Rất Rõ (Ati-Vibhūta-rammaṇa Mano-dvāra Maraṇāsanna Vīthis)

(1) Na-Da-“Ma-ja-ja-ja-ja-ja-Dā-Dā-Bha-Cuti-Pati”-Bha-

(2) Na-Da-“Ma-ja-ja-ja-ja-ja-Dā-Dā-cuti-Pati”-Bha-

Giải thích

Khi nghiệp (kamma) tạo ra sự tái sinh kế tiếp hoặc khi nghiệp tướng (kamma nimitta) hoặc thú tướng (gati nimitta) liên hệ đến nghiệp đó xuất hiện tại ý môn, dòng hữu phần rung động hai lần và bị cắt đứt (Na-da). Tiếp đó ý môn hướng tâm (Ma-mano-dvārāvajjana) chuyển hướng dòng tâm thức về phía đối tượng, quan sát đối tượng và thực hiện quyết định của nó. Rồi đến năm tốc hành tâm (javanas) được theo sau bởi hai đồng sở duyên (tadālambaṇas) và một bhavaṅga hoặc không có bhavaṅga. Kế tử tâm (cuti) xảy ra khi người ấy chết. Liền sau sự chết, tâm tục sinh hay kiết sanh thức (paṭisandhi) sanh lên trong đời sống mới không có bất kỳ sự gián đoạn nào trong dòng tâm thức. Sau đó dòng hữu phần (bhavaṅga) tiếp tục trôi chảy trong kiếp sống mới.

D. Tâm Lộ Cận Tử Ý Môn Cảnh Rõ

(Vibhūtā-rammaṇa Mano-dvāra Maraṇāsanna Vīthis)

(1) Na-Da-“Ma-ja-ja-ja-ja-ja-Bha-Cuti-Paṭi”-Bha-

(2) Na-Da-“Ma-ja-ja-ja-ja-ja-Cuti-Paṭi”-Bha-

Tâm Tục Sinh Hay Kiết Sanh Thức (Paṭisandhi citta)

Tâm tục sinh khởi sanh trong kiếp sống mới như quả của nghiệp, đây là nghiệp thành công đã tìm được cơ hội để làm duyên cho kiếp sống mới. Tâm tục sinh nối liền sự sống mới với sự sống cũ, vì thế được gọi là paṭisandha citta - tâm tục sinh (tục có nghĩa là nối).

Tâm tục sinh sẽ được đi kèm bởi các tâm sở của nó. Đó chính là những hạt nhân cũng như kẻ tiên phonglãnh đạo của những pháp kết hợp với nó. Nếu đời sống mới xảy ra trong cõi ngũ uẩn (pañca-vokāra) nó sẽ có một sắc ý vật (hadaya-vatthu) do cùng nghiệp ấy (nghiệp cho quả tái sinh) cung cấp. Nếu đời sống mới xảy ra ở cõi tứ danh uẩn (catu-vokāna) tức là cõi vô sắc (arūpa), thời sẽ không có sắc ý vật này.

Tâm tục sinh nắm lấy các đối tượng mà các tốc hành tâm cận tử (maraṇā-sannajavanas) đã quan sát. Nếu các tốc hành tâm này đã quan sát nghiệp tướng, thì tâm tục sinh cũng quan sát nghiệp tướng. Hơn nữa, tất cả những tâm hữu phần (bhavaṅga cittas) trong kiếp sống mới cũng quan sát cùng một đối tượng như thế.

Trường hợp tâm tục sinh trong cõi sắc giới, đối tượng của nó là một khái niệm và luôn luôn phải là một nghiệp tướng (kamma nimitta), nghiệp tướng ở đây có thể là tợ tướng (paṭibhāga-nimitta) của đề mục kasina thường xuất hiện tại ý môn vào lúc chết.

Trường hợp tâm tục sinh trong cõi vô sắc cũng vậy, đối tượng của arūpa-paṭisandhi (kiết sanh vô sắc) luôn luôn là nghiệp tướng, nghiệp tướng này có thể là khái niệm như hư không vô biên (ākāsa) hoặc các đại hành tâm (mahaggata cittas).

Riêng những chúng sinh vô tưởng chỉ có mạng căn cửu pháp tự an lập theo cách tái sinh. Vì vậy họ được gọi là sắc tái sinh, để phân biệt với những chúng sinh sống nơi các cõi vô sắc thường gọi là danh tái sinh và những trường hợp còn lại gọi chung là danh sắc tái sinh.

Chú thích :

Mạng căn cửu pháp hay Đoàn mạng quyền (jivitanavaka kalapa) có 9 sắc là đất, nước, gió, lửa, màu, mùi, vị, dưỡng chất, và mạng căn (pathavi, àpo, tejo, vàyo, gandha, rasa, ojà, jìvitindriya)

Các Cảnh Giới Tái Sinh Sau Khi Chết

Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Nói tới chết nghĩa là nói tới sự tiêu diệt của mạng căn (jāvindriya), hơi nóng (usma = tejodhātu: hoả đại), và thức (viññāna) của một cá nhân trong một kiếp sống đặc biệt nào đó. Chết không phải là sự hủy diệt hoàn toàn của một chúng sinh. Chết ở một nơi nghĩa là sinh ở nơi khác, cũng như, theo quy ước mà nói, mặt trời mọc ở một nơi nghĩa là (mặt trời) lặn ở nơi khác vậy.

Có những cảnh giới ở đấy sự tái sinh diễn ra sau khi chết ở một nơi nào đó.

1) Khi một vị Phạm Thiên (brahma) trong cõi vô sắc chết, họ có thể tái sinh lại cùng cảnh giới ấy hoặc lên một cảnh giới cao hơn, chứ không sanh vào một cảnh giới vô sắc thấp hơn. Thêm nữa, họ có thể tái sinh nơi cõi dục với ba nhân thiện hoặc như một vị Chư Thiên, hoặc một con người. Như vậy:

- Sau khi chết trong cõi không vô biên xứ, thời 4 kiết sanh vô sắc (arūpa paṭisandhis) và 4 kiết sanh tam nhân dục giới (kāma tihetuka paṭisandhis) là có thể.

- Sau khi chết trong cõi thức vô biên xứ, 3 kiết sanh vô sắc (trừ kiết sanh không vô biên xứ) và 4 kiết sanh tam nhân dục giới là có thể.

- Sau khi chết trong cõi vô sở hữu xứ, kiết sanh vô sở hữu xứ, kiết sanh phi tưởng phi phi tưởng xứ và 4 kiết sanh tam nhân dục giới là có thể.

- Sau khi chết ở cõi phi phi tưởng xứ, kiết sanh phi phi tưởng phi phi tưởng xứ và 4 kiết sanh tam nhân dục giới là có thể.

2) Khi một vị Phạm Thiên trong cõi sắc giới (trừ cõi vô tưởngtịnh cư thiên) chết, họ có thể tái sinh trong bất kỳ cõi nào trừ bốn cõi khổ, tùy thuộc vào nghiệp của họ. Tất nhiên họ cũng sẽ không tái sinh làm người hạ cấp hoặc Atula hạ cấp. Nói khác, 4 kiết sanh nhị nhân dục giới, và 4 kiết sanh tam nhân dục giới, 6 kiết sanh sắc giới, và 4 kiết sanh vô sắc giới ngoại trừ 2 kiết sanh vô nhân là có thể.

3) Khi một người hay một vị Chư Thiên cõi dục chết, họ có thể tái sinh trong bất kỳ cõi nào nếu họ là người tam nhân, vì họ có khả năng phát triển các bậc thiền (jhānas) để được tái sinh làm một vị phạm thiên, hoặc họ cũng có thể phạm vào những nghiệp bất thiện để bị ném vào các khổ cảnh.

Khi một người hoặc một vị chư thiên thuộc loại người nhị nhân (dvihetuka) chết, bất cứ kiết sanh nào trong 10 kiết sanh dục giới là có thể.

4) Khi những người vô nhân (ahetuka) chết trong cõi người cũng như trong cõi tứ đại thiên vương thấp kém, cả 10 kiết sanh dục giới là có thể.

Khi những người từ 4 cõi khổ (địa ngục, súc sinh, dạ quỷ và Atula) chết, cả 10 kiết sanh dục giới là điều có thể xảy ra đối với họ.

Giải thích thêm

Các vị phạm thiên trong các cõi vô sắc có thể tu tập thiền vô sắc tương đương với mức tái sinh của họ hoặc có thể tu tập các bậc thiền (jhānas) cao hơn, chứ không tu tập các bậc thiền thấp hơn. Như vậy, khi chết, họ có thể tái sinh lại cõi đó hoặc lên một cõi vô sắc cao hơn chứ không thấp hơn được. Tuy nhiên nếu họ hoại thiền (mất thiền chứng), họ sẽ tái sinh trong cõi dục theo năng lực cận định của họ (upacāra samādhi) và như vậy họ sẽ tái sinh với một trong những tâm quả dục giới tam nhân.

Những người chết từ cõi vô tưởng tái sinh trong cõi dục với một tâm quả dục giới có hai hoặc ba nhân. Khi một người chết ở một nơi nào đó trong cõi sắc giới, họ có thể tái sinh trong một cõi vô sắc nếu họ có một thiền chứng vô sắc, hoặc có thể tái sinh vào một cõi sắc giới nếu họ có một thiền chứng sắc giới, hoặc có thể tái sinh trong cõi dục giới nếu họ phát khởi một nghiệp rất mạnh hướng đến cõi đó và tái sinh với tâm tái sinh có hai hoặc ba nhân.

Những người chết với ba nhân trong cõi dục có thể tái sinh vào bất cứ cõi nào, vì một chúng sinh cõi dục với tam nhân có thể thực hiện bất kỳ một nghiệp nào. Những người chết trong cõi dục với hai nhân hoặc vô nhân chỉ tái sinh trong cõi dục, họ có thể tái sinh bằng hai tâm quan sát (santirana) vô nhân hoặc với bất kỳ tâm quả dục giới có hai hoặc ba nhân nào.

(Dịch từ “The Essence of Buddha Abhidhamma” của Dr. Mehm Tin Mon, với phần chú thích thêm từ “A comprehensive Manual of Abhidhamma”, bản của Bhikkhu Bodhi.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4481)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2678)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5092)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3735)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3787)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3146)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4019)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4948)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3451)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6597)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3908)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3143)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2889)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5768)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4528)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3430)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2823)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3233)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4350)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5585)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6513)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3630)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4461)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4503)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3911)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3335)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4485)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5927)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5739)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3562)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4582)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4383)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4430)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4194)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4496)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8090)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3860)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5638)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5088)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6718)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6100)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5867)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5651)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6130)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6652)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4873)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5453)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6270)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3678)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5289)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5974)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9188)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6284)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5847)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7317)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7163)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5066)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 7937)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant