Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Nói Đầu

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6953)
Lời Nói Đầu

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I: Tam Bảo


Lời Nói Đầu

Nền Tảng Phật Giáo là một bộ sách có 7 quyển gồm 9 chương. Mỗi chương được khái quát như sau:

* Chương thứ nhất: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga)

- Đức Phật (Buddha) - Đức Pháp (Dhamma) - Đức Tăng (Saṃgha)

* Chương thứ nhì: Tam Bảo (Ratanattaya)

- Đức Phật Bảo (Buddharatana) - Đức Pháp Bảo (Dhammaratana) - Đức Tăng Bảo (Saṃgharatana)

* Chương thứ ba: Ân đức Tam Bảo (Ratanattayaguṇa)

Ân đức Phật (Buddhaguṇa) - Ân đức Pháp (Dhammaguṇa) - Ân đức Tăng (Saṃghaguṇa)

* Chương thứ tư: Quy y Tam Bảo (Tisaraṇa)

Quy y Phật Bảo (Buddhasaraṇa) - Quy y Pháp Bảo (Dhammasaraṇa) - Quy y Tăng Bảo (Saṃghasaraṇa)

* Chương thứ năm: Giới hạnh (Sīlācāra)

Giới hạnh của người tại gia cư sĩ (Gahaṭṭhasīla)

Giới hạnh của bậc xuất gia tu sĩ (Pabbajitasīla)

* Chương thứ sáu: Nghiệp - Quả của nghiệp (Kamma-kammaphala)

Bốn loại nghiệp (Kammacatukka):

Bất thiện nghiệp (Akusalakamma)

Quả bất thiện nghiệp (Akusalavipāka)

Thiện nghiệp (Kusalakamma)

Quả thiện nghiệp (Kusalavipāka)

* Chương thứ bảy: Phước thiện (Puññakusala)

10 nhân sinh phước thiện (Puññakiriyāvatthu)

* Chương thứ tám: Pháp hạnh ba-la-mật (Pāramī)

10 pháp hạnh ba-la-mật (Dasapāramī)

* Chương thứ chín: Pháp hành (Bhāvanā)

Pháp hành thiền định (Samathabhāvanā)

Pháp hành thiền tuệ (Vipassanābhāvanā)

Bộ Nền Tảng Phật Giáo gồm 9 chương, chia thành 7 quyển, mà mỗi quyển được đặt tên theo nội dung của từng chương:

"Nền Tảng Phật Giáo, quyển I: Tam Bảo" gồm có chương thứ nhất và chương thứ nhì.

Chương thứ nhất: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga)

Đức Phật (Buddha) - Đức Pháp (Dhamma) - Đức Tăng (Saṃgha)

Đức Phật (Buddha) đó là Đức Phật Gotama.

Để trở thành Đức Phật Gotama, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã trải qua vô lượng kiếp để tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật, thời gian lâu dài trải qua 3 thời kỳ:

- Thời kỳ phát nguyện trong tâm suốt 7 a-tăng-kỳ.

- Thời kỳ phát nguyện ra bằng lời nói suốt 9 a-tăng-kỳ.

- Thời kỳ được 24 Đức Phật thọ ký xác định thời gian còn lại Đức Bồ Tát chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệuĐức Phật Gotama suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Đến kiếp chót là Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Ngài thuyết pháp tế độ chúng sinh suốt 45 năm, cho đến khi Ngài tịch diệt Niết Bàn.

Thực ra, chư Đức Bồ Tát đó là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát Độc Giác, Đức Bồ Tát Thanh Văn Giác, những tiền kiếp của quý Ngài là một cuộc hành trình tử sinh luân hồi trên con đường thẳng theo thời gian để tạo những pháp hạnh ba-la-mật, thuộc pháp thiệncứu cánh cuối cùngNiết Bàn. Cho nên, từ kiếp này sang kiếp khác, tử rồi sinh, sinh rồi tử nối tiếp nhau, dù thay đổi về phần sắc thân, còn phần tâm vẫn có phận sự tích lũy ba-la-mật diễn tiến trên con đường thẳng đến mục đích cuối cùng, tùy theo sở nguyện của mỗi vị, như để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác hoặc Đức Phật Độc Giác hoặc bậc Thánh Arahán Thanh Văn Giác, sẽ tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bồn loài. Như vậy, chư Đức Bồ Táttrải qua vô số kiếp từ vô thủy mà hữu chung (không biết kiếp bắt đầu, mà có kiếp cuối cùng).

Các hạng chúng sinh khác không phải là Đức Bồ Tát, vô số kiếp của họ cũng là một cuộc hành trình trên con đường vòng tròn tử sinh luân hồi, cũng tạo nghiệp (thiện nghiệp hoặc ác nghiệp) mà không có mục đích cuối cùng; nghĩa là không có sở nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác hoặc Đức Phật Độc Giác hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác. Bởi vì, không có mục đích cuối cùng, cho nên các chúng sinh ấy cứ luẩn quẩn trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Như vậy, các hạng chúng sinh không phải là Đức Bồ Tát thì phải trải qua vô số kiếp từ vô thủy đến vô chung (không biết kiếp bắt đầu, cũng không có kiếp cuối cùng).

Đức Pháp (Dhamma) đó là những lời giáo huấn của Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Gồm có 10 chánh pháp:

- 1 Pháp học - 9 pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đaọ + 4 Thánh quả + 1 Niết Bàn)

Hoặc nói cách khác, Phật giáo có 3 pháp:

Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana). - Pháp hành Phật giáo (Paṭipattisāsana) - Pháp thành Phật giáo (Paṭivedhasāsana)

Trong Phật giáo, người Phật tử là bậc xuất gia tu sĩ hoặc hàng tại gia cư sĩ cần phải cố gắng tinh tấn theo học pháp học Phật giáo, rồi theo hành pháp hành Phật giáo sẽ dẫn đến kết quả chứng đắc pháp thành Phật giáo đó là chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng nhất. Trí tuệ biết rõ kiếp này là kiếp chót, sau khi chết chính là lúc tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Trong đời, một người dù cố gắng tinh tấn theo học và hành một bộ môn nào, cũng khó có thể nói đã học và hành rốt ráo xong bộ môn ấy. Ví như một sinh viên đã tốt nghiệp Đại học, có bằng cấp, học vị rất cao; nhưng điều đó không có nghĩa là sinh viên ấy học và hành xong rồi, không còn phải học và hành nữa. Thật ra, sau khi tốt nghiệp ra trường sinh viên ấy cần phải học và hành nhiều hơn nữa. Bởi vì, các môn học trong đời hoàn toàn không đạt đếnchân lý” và “mục đíchcuối cùng. Do đó, thành ngữ xưa có câu: “Càng học, càng thấy dốt”.

Hơn nữa, trong đời không có môn học nào dẫn đến sự diệt đoạn tuyệt được tham ái, phiền não, nhưng ngược lại, các môn ấy có thể là nhân duyên làm phát sinh thêm phiền não, tham ái; mà tham áinhân sinh khổ. Nếu tham ái càng nhiều, thì khổ càng nhiều. Vì vậy, các môn học và hành trong đời sẽ không dẫn đến giải thoát khổ tử sinh, mà chỉ có kéo dài sự tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài mà thôi.

Đức Tăng (Saṃgha) đó là chư Thánh Tăng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật. Gồm có 4 đôi: Thánh Đạo - Thánh Quả tương xứng, thành 8 bậc Thánh.

4 đôi: Thánh Đạo - Thánh Quả tương xứng.

Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả

Nhất Lai Thánh ĐạoNhất Lai Thánh Quả

Bất Lai Thánh ĐạoBất Lai Thánh Quả

Arahán Thánh Đạo → Arahán Thánh Quả.

8 Bậc Thánh: 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả.

Nhập Lưu Thánh Đạo

Nhất Lai Thánh Đạo

Bất Lai Thánh Đạo

Arahán Thánh Đạo

Nhập Lưu Thánh Quả

Nhất Lai Thánh Quả

Bất Lai Thánh Quả

Arahán Thánh Quả

Tám bậc Thánh chia làm hai hạng:

Bậc Thánh hữu học (Sekkha) gồm có 7 bậc Thánh từ bậc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo là các bậc Thánh cần phải học và hành giới- định-tuệ.

Bậc Thánh vô học (Asekkha) đó là bậc Arahán Thánh Quả, bậc Thánh Arahán cao thượng nhất không còn học và hành giới-định-tuệ nữa; đã hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh Đế lần cuối cùng, đã thành tựu xong phạm hạnh cao thượng. Bậc Thánh Arahán ngay trong kiếp hiện tại, đến khi hết tuổi thọ đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Trong đời, các hàng đệ tử hoặc các học trò của các vị thầy khác trong các trường học trong đời, ví như những sinh viên đã tốt nghiệp Đại học, với học vị rất cao, khi ra trường, làm việc đúng theo sở học của họ, để giúp đời và nuôi mạng trong kiếp hiện tại này.

Chương thứ nhì: Tam Bảo (Ratanattaya)

Đức Phật Bảo (Buddharatana) - Đức Pháp Bảo (Dhammaratana) - Đức Tăng Bảo (Saṃgharatana)

Đức Phật gọi là Đức Phật Bảo, Đức Pháp gọi là Đức Pháp Bảo, Đức Tăng gọi là Đức Tăng Bảo; bởi vì mỗi ngôi có 5 đặc tính quý báu và cao thượng, mà các thứ báu vật trong cõi người, cõi Long vương, các cõi chư thiên, phạm thiên không thể sánh với Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Tam Bảo được. Cho nên những người nào đã từng tạo phước duyên nơi Đức Phật hoặc Bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật trong thời quá khứ, thì nay kiếp hiện tại này, những người ấy mới có duyên lành được gần gũi thân cận với Đức Phật hoặc Bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật. Họ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, được thọ phép quy y Tam Bảo, nương nhờ nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo. Như vậy, họ có Tam Bảo ở trong tâm của họ, có thiện tâm an lạc, đức tin càng tăng trưởng, mọi thiện pháp cũng càng tăng trưởng từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp đem lại sự an lạc cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai.

Nếu những người ấy có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật, thì ngay trong kiếp hiện tại, những người ấy có khả năng tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng. Có vị là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử hạng thường, có vị là bậc Thánh Đại Thanh Văn đệ tử, có vị là bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử. Mỗi vị Thánh Thanh Văn được thành tựu do sở nguyện của mình từ trong kiếp quá khứ. Ngay kiếp hiện tại, bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn, đồng thời chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Những người giàu sang phú quý trong đời, dù họ thường trang điểm kim cương, hột xoàn, ngọc mani... các thứ báu vật ấy làm nhân phát sinh tâm hoan hỷ. Tất cả báu vật quý giá ấy chỉ có thể đem lại sự lợi ích, sự an lạc trong kiếp hiện tại này mà thôi, chứ không thể đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho những kiếp vị lai.

* Nội dung diễn tiến của mỗi ngôi cao cả từ khi bắt đầu cho đến cuối cùng

Đức Phật Gotama: Tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát, từ khi bắt đầu có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Ngài đã tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn trải qua 3 thời kỳ:

1) Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát đã phát nguyện ở trong tâm, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Ngài đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật suốt thời gian 7 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

2) Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát đã có đủ năng lực ba-la-mật, nên đã phát nguyện ra bằng lời nói, để cho mọi chúng sinh biết ý nguyện của Ngài muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Ngài đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật suốt thời gian 9 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

3) Thời kỳ cuối: Đức Bồ TátĐạo sĩ Sumedha được Đức Phật Dīpaṅkara lần đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Ngài chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệuĐức Phật Gotama. Từ đó, Ngài trở thành Đức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta) bất thoái, cố gắng tinh tấn không ngừng bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Trong suốt thời gian 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, hễ một khi có Đức Phật nào xuất hiện trên thế gian, thì Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đều đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác ấy, và được Đức Phật ấy thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệu Đức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã được 24 Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký. Đức Phật KassapaĐức Phật cuối cùng thọ ký xác định thời gian, trong thời vị lai, ngay trong kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa này, Đức Bồ Tát chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệuĐức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama tiếp tục bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, cho đến kiếp chót là Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha.

Thái tử lên ngôi Vua năm 16 tuổi ngự tại kinh thành Kapilavatthu suốt 13 năm. Đức vua từ bỏ kinh thành ngự đi xuất gia năm 29 tuổi, Ngài đã hành pháp hành khổ hạnh suốt 6 năm ròng rã. Bỏ pháp hành khổ hạnh, Ngài tiến hành thiền định, và tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, mọi tham ái, mọi ác pháp; đặc biệt diệt được mọi tiền khiên tật đã tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ. Ngài đã tự mình trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh, gọi là Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệu Đức Phật Gotama, đúng như Chư Phật quá khứ đã thọ ký. Lúc ấy, Ngài tròn 35 tuổi. Đức Phật Gotama thuyết pháp tế độ chúng sinh suốt 45 hạ (năm) cho đến lúc Ngài tịch diệt Niết Bàn, năm tròn 80 tuổi.

Đó là diễn tiến cuộc hành trình trải qua vô số kiếp của Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, từ khi bắt đầu cho đến lúc Ngài tịch diệt Niết Bàn.

Đức Pháp: Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật Gotama bắt đầu từ hai câu kệ mà Ngài tự thuyết ở trong tâm tại Đại cội Bồ đề, nơi Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệuĐức Phật Gotama, vào đêm rằm tháng tư (âm lịch).

Anekajātisaṃsāraṃ...
Taṇhānaṃ khayamajjhagā
”(Dhammapadagāthā câu kệ số 153-154.)

Vào chiều rằm tháng sáu (âm lịch) Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattanasutta) lần đầu tiên, để tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu là Ngài Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana. Trong nhóm 5 Tỳ-khưu sau khi lắng nghe bài kinh ấy, chỉ có một mình Ngài Koṇḍañña chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiếnhoài nghi, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Tiếp theo mỗi ngày một vị chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, đến ngày 19 tháng 6 cả nhóm 5 Tỳ-khưu đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu. Ngày 20 tháng 6 (âm lịch) Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta) tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu này. Sau khi lắng nghe bài kinh xong, cả nhóm 5 Tỳ-khưu đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trở thành Chư Thánh Thanh Văn đệ tử đầu tiên của Đức Phật Gotama.

Từ đó về sau, suốt 45 hạ (năm) Đức Phật cùng Chư Thanh Văn đệ tử của Ngài thuyết pháp tế độ chúng sinh gần xa trong cõi người, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới. Những chúng sinh ấy gồm có nhân loại, chư thiên, phạm thiên... đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng sinh.

Giáo pháp của Đức Phật gồm có 3 phần chính:

Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana) - Pháp hành Phật giáo (Paṭipattisāsana) - Pháp thành Phật giáo (Paṭivedhasāsana)

Trong ba pháp chính này, pháp học Phật giáo là nền tảng căn bản được gom thành Tam Tạng, hoặc Ngũ Bộ, hoặc Cửu Chi, hoặc 84.000 pháp môn.

Tuy Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn cách đây 2.548 năm rồi, song vẫn còn lại 84.000 pháp môn, như là vị Tôn sư tồn tại trên thế gian, theo giáo huấn, dạy dỗ các hàng Thanh Văn đệ tử.

Phật giáo được giữ gìn duy trì bằng trí tuệ ba-la-mật của các hàng Thanh Văn đệ tử. Về sau, theo thời gian, trí tuệ ba-la-mật của các hàng Thanh Văn đệ tử càng ngày càng kém dần; do đó, Phật giáo càng ngày càng bị mai một, bị suy đồi theo thời gian.

Bắt đầu pháp thành Phật giáo bị mai một, bị suy đồi dần dần; bởi do pháp hành Phật giáo bị mai một, bị suy đồi. Pháp hành Phật giáo bị mai một, bị suy đồi dần dần; bởi do pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi.

Pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi dần dần theo thời gian tuổi thọ của Phật giáo là 5.000 năm. Đến khi các hàng Thanh Văn đệ tử không còn ai ghi nhớ được một câu kệ của Đức Phật. Pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp thành Phật giáo bị mai một, bị suy đồi. Khi ấy, Phật giáo hoàn toàn bị mai một, bị suy đồi.

Đức Pháp diễn tiến theo thời gian được phát triển, rồi cũng diễn tiến theo thời gian bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn trong cõi người này.

Đức Tăng: Đức Tăng xuất hiện trên thế gian này sau Đức Phật và Đức Pháp. Sau khi Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattanasutta) để tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu là Ngài Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji. Trong nhóm 5 Tỳ-khưu chỉ có một mình Ngài Koṇḍañña chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiếnhoài nghi, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Ngài Đại đức Koṇḍañña kính xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Sadi - Tỳ-khưu. Quán xét về phước thiệný nguyện của Ngài Đại đức Koṇḍañña xong, rồi Đức Phật cho phép Ngài Đại đức Koṇḍañña thọ Tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu!”rằng:

“Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya”.

Sau khi Đức Phật vừa dứt lời, Ngài Đại đức Koṇḍañña trở thành Tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Tỳ-khưu phát sinh do phước thiện (thần thông), có tăng tướng trang nghiêm như một vị Tỳ-khưu có 60 hạ.

Ngài Đại đức Koṇḍañña là vị Tỳ-khưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama; đồng thời, ngay khi ấy, lần đầu tiên Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo đầy đủ trọn vẹn cũng xuất hiện trên thế gian, vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch).

Đức Phật cùng nhóm 5 Tỳ-khưu an cư nhập hạ đầu tiên tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana trong xứ Bārāṇasī. Mỗi ngày tiếp theo, tuần tự Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma, Ngài Assaji chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và cũng được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu!”.

Đến ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta) tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu, quý Ngài đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Như vậy, Đức Phật đã có 5 vị Thánh Arahán Thanh Văn đệ tử của Ngài trong thế gian.

Đức Phật còn thuyết pháp tế độ công tử Yasa, công tử chứng đắc thành bậc Thánh Arahán và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu!”...

Nhóm 54 người bạn thân xưa của Ngài Đại đức Yasa, nghe tin Ngài Đại đức Yasa đã trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama; tất cả đều đến hầu đảnh lễ Đức Phật, lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, tất cả đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu!”. Sau khi trở thành Tỳ-khưu không lâu, tất cả 54 vị đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.

Trong mùa hạ đầu tiên này, Đức Phật đã có 60 vị Thánh Arahán Thanh Văn đệ tử của Ngài. Sau khi mãn 3 tháng hạ, Đức Phật truyền dạy 60 vị Thánh Arahán, mỗi vị một con đường (2 vị không nên đi chung cùng một con đường) du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng sinh.

Từ đó về sau, càng ngày càng có đông người xuất gia trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức Phật, thậm chí có số đông tu sĩ phái Bàlamôn, phái ngoại đạo cũng theo xuất gia trở thành Tỳ-khưu Phật giáo.

Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ. Ngày đêm suốt 45 hạ, Đức Phật có sự tinh tấn không ngừng làm 5 phận sự để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho tất cả chúng sinh, cho đến lúc Ngài tịch diệt Niết Bàn tại khu rừng Kusinārā, vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), năm Ngài tròn đúng 80 tuổi.

Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn rồi, chư Tỳ-khưu Tăng vẫn tiếp tục đi du hành khắp mọi nơi để thuyết pháp tế độ chúng sinh.

Vào thời kỳ Đức vua Asoka lên ngôi khoảng 218 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn; Đức vua là một Đấng Minh Quân trị vì cõi Nam Thiện Bộ Châu, Người là một cận sự namđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có nhiệt tâm hết lòng phụng sự Tam Bảo. Đức vua đã truyền lệnh xây cất 84.000 ngôi chùa tháp trên khắp cõi Nam Thiện Bộ Châu, để cúng dường Đức Phật Bảo, Đức Pháp BảoĐức Tăng Bảo. Thời kỳ ấy, Phật giáo được phát triển mạnh, số chư Tỳ-khưu Tăng, chư Tỳ-khưu ni rất đông.

Đức vua Asoka không chỉ là một đại thí chủ (mahādāyaka) chưa từng có từ trước đến nay, mà còn là một thân quyến kế thừa của Phật giáo (dāyāko sāsanassa) nữa, bởi vì, Đức vua đã cho phép Thái tử MahindaCông chúa Saṃghamittā xuất gia trở thành Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni trong Phật giáo.

Đức vua Asoka không những hộ độ chư Tỳ-khưu Tăng để quý Ngài phát triển Phật giáo trong nước, mà còn hộ độ quý Ngài truyền bá Phật giáo sang các nước lân cận.

Phật lịch năm 236 (sau Đức Phật tịch diệt Niết Bàn) Đức vua Asoka hộ độ phái đoàn do Ngài Đại đức Mahindatthera (Ngài vốn là Thái tử của Đức vua Asoka, nay Ngài là Bậc Thánh Arahán) làm trưởng đoàn cùng với 4 vị Đại đức khác đi sang đảo quốc Srilankà để truyền bá Phật giáo. Và một phái đoàn khác do Ngài Đại đức Sonatthera và Ngài Đại đức Uttaratthera đi sang vùng Suvaṇṇabhūmi: Vùng đất vàng, nay là nước Indonesia, nước Myanmar, nước Thái Lan, nước Lào, nước Campuchia... để truyền bá Phật giáo.

Đức vua Asoka cũng gởi một phái đoàn Tỳ-khưu ni do Ngài Đại đức Tỳ-khưu ni Saṃghamittā (Ngài vốn là Công chúa của Đức vua Asoka, nay là bậc Thánh nữ Arahán) làm trưởng đoàn đi sang đảo quốc Srilankā, để làm lễ xuất gia thọ Tỳ-khưu ni cho các cận sự nữ trên đảo quốc này. Từ đó, chư Tỳ-khưu ni Tăng cũng được phát triển cho đến sau thời kỳ kết tập Tam TạngChú giải Pāḷi lần thứ tư tại đảo quốc Srilankà. Theo sử liệu, thời gian sau 500 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, thì không còn Tỳ-khưu ni nữa.

Như vậy, chư Tỳ-khưu ni Tăng đã bị mai một trước, chỉ còn lại chư Tỳ-khưu Tăng tồn tại trên các nước Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda) cho đến thời hiện tại này.

Ngày nay, Phật giáo được truyền bá rộng đến nhiều nước trên thế giới. Chư Tỳ-khưu Tăng vẫn còn giữ gìn duy trì theo truyền thống từ thời kỳ Đức Phật. Nhưng trong thời vị lai, trải qua thời gian lâu dài về sau, chư Tỳ-khưu sẽ mất dần tăng tướng, thậm chí đến nỗi chỉ còn một mảnh y nhỏ quấn trên cổ, hoặc cột ở cổ tay, vẫn còn tên gọi “Tỳ-khưu: Bhikkhu” mà không hiểu rõ lời giáo huấn của Đức Phật, không hành giới mà hành ác pháp, làm ăn nuôi mạng. Cuối cùng những vị Tỳ-khưu này nghĩ rằng: “Lợi ích gì mảnh y nhỏ này!”, những vị Tỳ-khưu ấy vứt bỏ mảnh y nhỏ, cũng đồng thời chư Tỳ-khưu bị mai một hoàn toàn trên cõi thế gian này.

Đức Tăng diễn tiến theo thời gian được phát triển, rồi cũng diễn tiến theo thời gian bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn. Phật giáo cũng bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn trong cõi người này.

Trong quyển sách “Tam Bảo” này, bần sư đã cố gắng hết sức mình để sưu tầm, góp nhặt những tài liệuliên quan đến Tam Bảo, từ Tam Tạng Pāḷi và các Chú giải Pāḷi chỉ được bấy nhiêu thôi! Tuy bần sư cố gắng hết mình giảng giải để giúp cho độc giả tìm hiểu rõ về Tam Bảo, song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư.

Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn, kính mong chư bậc thiện trí từ bi chỉ giáo, góp ý chân tình. Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an lạc cho phần đông chúng ta. Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư.

Quyển sách “Tam Bảo” này được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp sức như: Đệ tử Sīlācāra (Giới Hạnh), cô Dhammanandā đã tận tình đánh máy vi tính, dàn trang, làm thành quyển; các thí chủ trong nước và ngoài nước có đức tin trong sạch lo ấn hành là: Pháp đệ Bửu Đức cùng nhóm Phật tử chùa Hương Đạo (Hoa Kỳ), gia đình anh Đinh Vạn Xuân cùng nhóm Phật tử ở Úc, các nhóm Phật tử ở Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ, Canada, Úc... gia đình anh Hoàng Quang Chung... và đã được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo cho phép ấn hành. Bần sư vô cùng hoan hỷbiết ơn tất cả quý vị.

Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (Tỳ-khưu Hộ Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Cố Vaṃsarakkhitamahāthera (Cố Đại Trưởng Lão Hộ Tông)sư phụ của con, đồng thời đến Ngài Cố Đại Trưởng Lão Thiện Luật, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Bửu Chơn, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Giới Nghiêm, Ngài Cố Trưởng Lão Hộ Giác (chùa Từ Quang) cùng chư Đại Trưởng Lão, Đại đức khác đã dày công đem Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt Nam thân yêu, và xin kính dâng đến chư Đại Trưởng Lão ở nước Thái Lan, nước Myanmar (Miến Điện), đã có công dạy dỗ con về pháp học và pháp hành.

Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Phước thiện pháp thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện này để thóat khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phước đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng sinh từ cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, chư thiên trong các cõi trời dục giới, chư phạm thiên trong các cõi trời sắc giới,... tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện pháp thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát mọi sự khổ, được an lạc lâu dài.

Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Phước thiện pháp thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tiếp tục tử sinh luân hồi, thì do năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này ngăn cản mọi ác nghiệp không có cơ hội cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; và cũng do năng lực phước thiện này chỉ hỗ trợ thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người, các cõi trời dục giới... mà thôi. Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con cũng là người có chánh kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện trí, lắng nghe chánh pháp của bậc thiện trí, có đức tin trong sạch nơi bậc thiện trí, cố gắng tinh tấn hành theo lời giáo huấn của bậc thiện trí, không ngừng tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, mong diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, trở thành bậc Thánh Arahán.

Trong vòng tử sinh luân hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng; quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, hoặc chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài, lắng nghe chánh pháp, cố gắng tinh tấn hành theo chánh pháp của Ngài, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nay chúng con hết lòng thành kính thọ phép quy y Tam Bảo: Quy y Đức Phật Bảo, quy y Đức Pháp Bảo, quy y Đức Tăng Bảo, và thành tâm hộ trì Tam Bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp. Do nhờ năng lực phước thiện thanh cao này, cầu mong cho mỗi người chúng con luôn luôn có được duyên lành sâu sắc trong Phật giáo.

Do nhờ năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con, khi thành tựu quả báucõi người (manussasampatti) như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc khi thành tựu quả báucõi trời (devasampatti) hưởng được an lạc như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời. Bởi vì mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con là cầu mong sớm thành tựu quả báu chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ
Khippameva samijjhatu.

Điều mong ước, ý nguyện của chúng con
Cầu mong sớm được thành tựu như ý.

Tỳ-khưu Hộ Pháp
Thiền viện Viên Không
Xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành
Bà Rịa-Vũng Tàu
Mùa an cư nhập hạ Pl: 2548/2004

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1405)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1226)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1279)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1440)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1173)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1552)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2724)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1729)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1268)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1180)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1302)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1838)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1582)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1788)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1716)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2257)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1675)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2007)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1996)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2161)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1865)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1847)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1998)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1832)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1765)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1846)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1784)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2054)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2159)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1864)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1976)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1742)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1801)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2296)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2195)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3693)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2351)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3006)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2373)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1947)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1709)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3207)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2238)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2928)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2593)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1939)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2902)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2540)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3428)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4106)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3602)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant