Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Đức Phật (Buddha)

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7770)
01. Đức Phật (Buddha)

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I

BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)

 

Đạo Phật có ba ngôi cao cả đó là:

Đức Phật (Buddha) - Đức Pháp (Dhamma) - Đức Tăng (Saṃgha)

Đức Phật (Buddha) là Bậc tự chính mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trên toàn cõi thế giới chúng sinh, nên có danh hiệu Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammā-sambuddha) độc nhất vô nhị; rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành nên tế độ, cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng sinh.

Đức Pháp (Dhamma)chánh phápĐức Phật đã giác ngộ, Ngài có khả năng đặc biệt chế định ra ngôn ngữ để giáo huấn chúng sinh cho hiểu biết rõ và thực hành đúng theo lời dạy của Ngài; để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc trong kiếp hiện tại, những kiếp vị laiđặc biệt đạt đến cứu cánh Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Chánh pháp có 10 pháp là:

- Pháp học (Pariyattidhamma).

- 9 pháp Siêu tam giới (Navalokuttaradhamma) (4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả + 1 Niết Bàn).

Đức Tăng (Saṃgha) là những bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, đã thực hành đúng theo lời giáo huấn của Ngài, trở thành bậc Thánh Nhân.

Trong Phật Giáo bậc Thánh Thanh Văn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm Siêu tam giới):

Bốn đôi: Thánh Đạo - Thánh Quả tương xứng

Nhập Lưu Thánh Đạo --> Nhập Lưu Thánh Quả
Nhất Lai Thánh Đạo --> Nhất Lai Thánh Quả
Bất Lai Thánh Đạo --> Bất Lai Thánh Quả
Arahán Thánh Đạo --> Arahán Thánh Quả

Tám bậc Thánh: 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả

Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo (Sotāpattimagga)
Bậc Nhất Lai Thánh Đạo
(Sakadāgāmimagga)
Bậc Bất Lai Thánh Đạo
(Anāgāmimagga)
Bậc Arahán Thánh Đạo
(Arahattamagga)
Bậc Nhập Lưu Thánh Quả
(Sotāpattiphala)
Bậc Nhất Lai Thánh Quả
(Sakadāgāmiphala)
Bậc Bất Lai Thánh Quả
(Anāgāmiphala)
Bậc Arahán Thánh Quả
(Arahattaphala)

Nếu tính theo Thánh nhân (Ariyapuggala)

Có 4 bậc:

Bậc Thánh Nhập Lưu (Sotāpanna)
Bậc Thánh Nhất Lai
(Sakadāgāmi)
Bậc Thánh Bất Lai
(Anāgāmi)
Bậc Thánh Arahán (Arahanta)

Trong Phật giáo, mỗi bậc Thánh Nhân là kết quả của những pháp hạnh ba-la-mật đã được tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, cho đến kiếp hiện tại. Trong những kiếp quá khứ, mỗi vị đã từng gieo duyên lành với Đức Phật quá khứ, hoặc với chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật quá khứ.

Trong kiếp hiện tại, mỗi vị đến hầu Đức Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài, lắng nghe chánh pháp, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến kết quả chứng đắc thành bậc Thánh từ thấp đến cao tuần tự như sau:

Nếu bậc thiện trí phàm nhân tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, mới là bậc Thánh Nhân thứ nhất trong Phật giáo.

Nếu bậc Thánh Nhập Lưu tiếp tục tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhất Lai, mới là bậc Thánh Nhân thứ nhì trong Phật giáo.

Nếu bậc Thánh Nhất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Bất Lai, mới là bậc Thánh Nhân thứ ba trong Phật giáo.

Nếu bậc Thánh Bất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, là bậc Thánh thứ tư cao thượng nhất trong Phật giáo.

Mỗi bậc Thánh Nhân đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật chỉ dạy, còn chứng đắc thành mỗi bậc Thánh nào, thì hoàn toàn do ba-la-mật của mỗi bậc Thánh Nhân, do thời gian tạo pháp hạnh ba-la-mật khác nhau, năng lực của 5 pháp chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) khác nhau; do đó, mỗi bậc Thánh Nhân có khả năng đặc biệt khác nhau. Song chư bậc Thánh Arahán đến khi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi đều giống hệt nhau.

Mỗi bậc Thánh Nhân đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật chỉ giáo, còn chứng đắc thành mỗi bậc Thánh Nhân như thế nào, nghĩa là trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường, hoặc bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác, hoặc bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, hoàn toàn do sở nguyện của mỗi bậc Thánh Nhân đã phát nguyện, trong những kiếp quá khứ. Nếu Vị nào phát nguyện trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác hoặc bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, thì cần phảiĐức Phật quá khứ thọ ký xác định mới thành tựu.

Mỗi Đức Bồ Tát Thanh Văn Giác đều có sự khác nhau về thời gian mau hoặc lâu để tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật:

1. Bố thí ba-la-mật; 2. Giữ giới ba-la-mật; 3. Xuất gia ba-la-mật; 4. Trí tuệ ba-la-mật; 5. Tinh tấn ba-la-mật; 6. Nhẫn nại ba-la-mật; 7. Chân thật ba-la-mật; 8. Chí nguyện ba-la-mật; 9. Tâm từ ba-la-mật; 10. Tâm xả ba-la-mật.

Do năng lực già dặn hoặc non yếu khác nhau của 5 pháp chủ (tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ), khi chứng đắc thành mỗi bậc Thánh Nhân, quý Ngài có khả năng đặc biệt khác nhau. Tuy nhiên, chư bậc Thánh Arahán khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài đều hoàn toàn giống nhau cả thảy.

ĐỨC PHẬT (BUDDHA)

 

I - Buddha nghĩa là gì?

Buddhā ti catusaccasambodhena Buddhā.

Buddha nghĩa là chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhân.

Trong bộ chú giải Udāna phân loại ra 3 hạng Buddha

Sāvakabuddha: Bậc Thánh Thanh Văn Giác.

Paccekabuddha: Đức Phật Độc Giác.

Sammāsambuddha: Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

1- Bậc Thánh Thanh Văn Giác (Sāvakabuddha) là những Bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đã được lắng nghe chánh pháp trực tiếp từ Đức Phật, hoặc các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác.

Thánh Thanh Văn Giác có 3 hạng

a) Bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường (Pakatisāvaka) là Bậc đã lắng nghe chánh pháp trực tiếp từ Đức Phật, hoặc từ các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, rồi đã thực hành đúng theo chánh pháp, nên đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, hoặc bậc Thánh Nhất Lai, hoặc bậc Thánh Bất Lai, hoặc bậc Thánh Arahán. Những bậc Thánh Thanh Văn Giác ấy gọi là hạng thường, bởi vì quý Ngài chỉ có diệt đoạn tuyệt được phiền não mà thôi, không có hạnh nguyện xuất sắc nào trong các hàng Thánh Thanh Văn Giác.

Để trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường này, vị Bồ Tát Thanh Văn Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật, trong suốt thời gian dưới 100 ngàn đại kiếp trái đất(1 đại kiếp trái đất: Trải qua thời gian 4 a-tăng-kỳ thành-trụ-hoại-không. Con số thời gian không nhất định.) Gặp thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc thời kỳ giáo pháp của Đức Phật đang còn lưu truyền trên thế gian; Vị Thanh Văn Giác Bồ Tát hạng thường ấy được lắng nghe chánh pháp, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả đến bậc nào tùy theo năng lực pháp hạnh ba-la-mật của mình, đã tích lũy từ nhiều kiếp trong quá khứ.

b) Bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác (Mahāsāvaka) là Bậc đã lắng nghe chánh pháp trực tiếp từ kim ngôn của Đức Phật, rồi đã thực hành đúng theo chánh pháp, nên đã chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán có hạnh nguyện đặc biệt xuất sắc trong hàng Thánh Thanh Văn Giác.

Để trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác, vị Bồ Tát Đại Thanh Văn Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật trong suốt thời gian 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát Đại Thanh Văn Giác ấy chắc chắn đến hầu Đức Phật, trực tiếp lắng nghe chánh pháp từ kim ngôn của Ngài, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, khi Đức Phật đang còn trên thế gian. Mỗi bậc Thánh Arahán là Đại Thanh Văn Giác, thường có hạnh nguyện đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh Thanh Văn Giác, do tiền kiếp đã phát nguyện và được Đức Phật quá khứ thọ ký.

Đức Phật Gotama có 80 vị Thánh Đại Thanh Văn Giác.

c) Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác (Aggasāvaka) là Bậc đã lắng nghe chánh pháp trực tiếp từ kim ngôn của Đức Phật, đã thực hành đúng theo chánh pháp, nên đã chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng nhất trong các hàng Thanh Văn Giác.

Để trở thành bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, vị Bồ Tát Tối Thượng Thanh Văn ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật, trong suốt thời gian 1 a-tăng-kỳ(Là thời gian không thể tính hay đếm bằng số lượng, cứ vô số kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ thành-trụ-hoại-không.) và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát Tối Thượng Thanh Văn ấy chắc chắn đến hầu Đức Phật, trực tiếp lắng nghe chánh pháp từ kim ngôn của Ngài, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán có trí tuệ hoặc thần thông đặc biệt xuất sắc nhất trong các hàng Thánh Thanh Văn Giác, khi Đức Phật đang còn trên thế gian.

Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác đã thành tựu do tiền kiếp đã phát nguyện và đã được Đức Phật quá khứ thọ ký.

Đức Phật Gotama có 2 vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác đệ tử là:

- Ngài Đại đức Sāriputta có trí tuệ đặc biệt xuất sắc nhất.
- Ngài Đại đức Mahāmoggallāna có thần thông đặc biệt xuất sắc nhất, trong các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật.

2- Đức Phật Độc Giác (Paccekabuddha) là Bậc đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả trở thành Đức Phật Độc Giác, trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian, và cũng không có giáo pháp của Ngài.

Để trở thành Đức Phật Độc Giác, vị Bồ Tát Độc Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 20 pháp hạnh ba-la-mật: “10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường và 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung”, ít nhất trong suốt 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát Độc Giác này sinh làm người trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian và cũng không có giáo pháp của Ngài. Vị Bồ Tát Độc Giác ấy xuất gia, rồi tự mình tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cũng là Đức Phật Độc Giác, mà không cần phải lắng nghe chánh pháp từ một vị Thầy nào. Đức Phật Độc Giác có thể có hàng trăm, hàng ngàn vị cùng trong một thời kỳ, nhưng mỗi vị đều do tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế. Tuy Chư Phật Độc Giác đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, nhưng không có khả năng chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng sinh để cùng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo các Ngài đã chứng ngộ.

3- Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha) là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, có danh hiệuĐức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị, trên toàn cõi muôn ngàn thế giới chúng sinh.

Đức Phật Chánh Đẳng Giác có 3 hạng

- Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt nghĩa là trí tuệ của Đức Phật có nhiều năng lực hơn đức tintinh tấn.

- Đức Phật Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt nghĩa là đức tin của Đức Phật có nhiều năng lực hơn trí tuệtinh tấn.

- Đức Phật Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt nghĩa là tinh tấn của Đức Phật có nhiều năng lực hơn trí tuệđức tin.

a) Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt như thế nào?

Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, thì Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật:

- 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường (pāramī): Khi tạo pháp hạnh ba-la-mật thuộc về sự hy sinh của cải, vợ con... bên ngoài thân mình, không liên quan đến thân thể và sinh mạng.

- 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung (upapāramī): Khi tạo pháp hạnh ba-la-mật nào thuộc về sự hy sinh những bộ phận trong thân thể, không liên quan đến sinh mạng của mình.

- 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng (paramatthapāramī): Khi tạo pháp hạnh ba-la-mật liên quan trực tiếp đến sự hy sinh sinh mạng của mình.

Đức Bồ Tát ấy cần phải tạo pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ:

- Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện ở trong tâm, có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác để mong tế độ chúng sinh, trong khoảng thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ kiếp trái đất, tiếp đến thời kỳ giữa.

- Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh biết ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác của mình, trong khoảng thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

Qua hai thời kỳ trên, Đức Bồ Tát vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định (Aniyata-bodhisatta) nghĩa là Đức Bồ Tát ấy có thể thay đổi ý nguyện không muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, chỉ muốn trở thành Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác mà thôi. Nếu như Đức Bồ Tát vẫn giữ ý nguyện tiếp tục tạo pháp hạnh ba-la-mật, thì sẽ dẫn đến thời kỳ cuối.

- Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi ấy, Đức Bồ Tát ấy sẽ trở thành Đức Bồ Tát cố định (Niyatabodhisatta). Đức Bồ Tát tiếp tục tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật.

Trong suốt thời kỳ bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật, mỗi khi có Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát ấy đều đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác ấy, và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại. Đến kiếp chót, Đức Bồ Tát ấy chắc chắn tái sinh làm người, trong thời kỳ không có Đức Phật nào xuất hiện trên thế gian. Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy xuất gia, rồi tự chính mình tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên, có danh hiệuĐức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị, trên toàn cõi muôn ngàn thế giới chúng sinh. Đức Phật Chánh Đẳng Giác có khả năng đặc biệt chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng sinh có đầy đủ duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tạo trong những kiếp quá khứ và trong kiếp hiện tại này.

b) Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt như thế nào?

Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt, thì Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật giống như Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, nhưng về thời gian khác với Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt. Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt tạo pháp hạnh ba-la-mật trong mỗi thời kỳthời gian gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, nghĩa là:

- Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát ấy phát nguyện trong tâm, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong suốt thời gian 14 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

- Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát ấy phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh biết ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của mình, trong suốt thời gian 18 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

- Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát ấy được Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại là 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Bồ Tát ấy tiếp tục tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót.

Khi Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật, đến kiếp chót tái sinh làm người trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy xuất gia, rồi tự mình tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên, có danh hiệuĐức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị, trên toàn cõi muôn ngàn thế giới chúng sinh. Đức Phật Chánh Đẳng Giác thuyết pháp tế độ chúng sinh có đầy đủ duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tích lũy trong những kiếp quá khứ và kiếp hiện tại.

c) Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt như thế nào?

Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt, thì Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật giống như Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, nhưng về thời gian thì khác với Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt và Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt. Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt, cần phải tạo pháp hạnh ba-la-mật trong mỗi thời kỳthời gian gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt, và gấp 4 lần thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, nghĩa là:

- Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát ấy phát nguyện ở trong tâm có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong suốt thời gian 28 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

- Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh biết ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của mình, trong suốt thời gian 36 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.

- Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát ấy được Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại là 16 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Bồ Tát này tiếp tục tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót.

Khi Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật, đến kiếp chót tái sinh làm người trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy xuất gia, rồi tự mình tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên, có danh hiệuĐức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị, trên toàn cõi muôn ngàn thế giới chúng sinh. Đức Phật Chánh Đẳng Giác thuyết pháp tế độ chúng sinh có đầy đủ duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tích lũy trong những kiếp quá khứ và kiếp hiện tại.

Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian là một điều vô cùng hy hữu. Thật vậy, theo lịch sử Đức Phật Gotama trong bộ Jinakālamālī và bộ Chú giải Buddha-vaṃsa dạy:

Trong quá khứ, có khi trải qua thời gian 1 a-tăng-kỳ kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không mà không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian gọi là Suññakappa nghĩa là trái đất không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian.

Thật vô cùng diễm phúc, trong kiếp trái đất mà chúng ta đang sống, có năm Đức Phật đã tuần tự xuất hiện trên thế gian: Trong quá khứ Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa đã xuất hiện; trong hiện tại Đức Phật Gotama đã xuất hiện và đã tịch diệt Niết Bàn cách đây 2.548 năm, song giáo pháp của Ngài vẫn còn được lưu truyền trên thế gian này cho đến 5.000 năm, rồi sẽ bị mai một hoàn toàn trên cõi người. Khi ấy, không còn một ai nghe biết đến Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng nữa. Sau đó, trong thời vị lai, Đức Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4997)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4385)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4673)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4715)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5879)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3311)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5282)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2948)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4162)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5307)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4277)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3336)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6370)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5359)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4645)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6264)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6121)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3911)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6046)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4650)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4811)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3401)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6298)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4963)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3560)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3490)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5695)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4260)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6016)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5261)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3694)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3777)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3714)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3541)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5376)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4033)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4384)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5834)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3140)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3083)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3885)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4875)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3585)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4602)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4752)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3468)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4007)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4746)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3591)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3618)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5167)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4177)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3304)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3009)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3047)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3127)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3124)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3494)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4021)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant