Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

18. Tam Bảo Trọn Vẹn Xuất Hiện

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6989)
18. Tam Bảo Trọn Vẹn Xuất Hiện

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


TAM BẢO TRỌN VẸN XUẤT HIỆN

Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên vào ngày rằm tháng sáu. Ngài Đại đức Koṇḍanna chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Đức Phật cho phép Ngài xuất gia thọ Tỳ-khưu đầu tiên. Ngay khi ấy, Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo trọn vẹn đầu tiên xuất hiện trên thế gian.

Trong nhóm 5 Tỳ-khưu, Ngài Koṇḍanna trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, còn lại 4 vị Tỳ-khưu khác, Đức Phật còn phải dạy dỗ.

Sáng ngày 16 tháng 6, Đức Phật không ngự đi khất thực, ở lại trong khu rừng để dạy dỗ Ngài VappaNgài Bhaddiya, còn 3 vị Tỳ-khưu: Ngài Koṇḍanna, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại phân chia đều cho 5 Tỳ-khưu độ trong ngày. Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu cũng theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.

Ngày 17 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài BhaddiyaNgài Mahānāma, còn Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa và Ngài Assaji đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 Tỳ-khưu. Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.

Ngày 18 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài MahānāmaNgài Assaji, còn Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa và Ngài Bhaddiya đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 vị Tỳ-khưu.

Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.

Ngày 19 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Assaji, còn 4 vị Tỳ-khưu đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần còn lại chia đều đến 5 vị Tỳ-khưu. Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.

Như vậy nhóm 5 Tỳ-khưu đều trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, mới là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo. Muốn nâng đỡ nhóm 5 Tỳ-khưu lên bậc Thánh Arahán, ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta). Thật vậy, sau khi nghe Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng xong, nhóm 5 Tỳ-khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng trong Phật giáo, diệt đoạn tuyệt hoàn toàn mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót.

Như vậy, Đức Phật có 5 vị Thánh Arahán đã xuất hiện trên thế gian này.

Tóm lược cốt yếu bài kinh Chuyển Pháp Luân

Tứ Thánh Đế là 4 sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ đó là:

1- Khổ Thánh Đế đó là danh pháp, sắc pháp trong tam giới đều là khổ, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ.

2- Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham áinhân sinh Khổ Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Tập Thánh Đế.

3- Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bànpháp diệt khổ Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Diệt Thánh Đế.

4- Pháp hành Diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Đạo Thánh Đế.

Tứ Thánh Đế này là nền tảng căn bản, là cốt lõi quan trọng trong giáo pháp của Chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai.

Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, có một đoạn mà Đức Thế Tôn khẳng định truyền dạy trong toàn cõi thế giới chúng sinh rằng:

“Yato ca kho me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evam tiparivattam dvādasākāram yathā bhūtam nānadassanam suvisuddham ahosi. Athāham bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake sassamanabrāhmaniyā pajāya devamanussāya “anuttaram sammāsambodhim abhisambuddho” ti paccannāsim...”.

- Này chư Tỳ-khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ đã thấy rõ, biết rõ đúng thực tánh của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân thành 12 loại trí tuệ trong sáng thanh tịnh, đã phát sinh đến với Như Lai.

Này chư Tỳ-khưu, khi ấy Như Lai khẳng định truyền dạy rằng: Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh: Nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma Vươngphạm thiên cả thảy.

Như vậy, Đức Thế Tôndanh hiệu Sammāsambuddha vì chính Ngài tự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân là:

- Trí tuệ học (saccanāna) trong Tứ Thánh Đế.
- Trí tuệ hành (kiccanāna) trong Tứ Thánh Đế.
- Trí tuệ thành (katanāna) trong Tứ Thánh Đế.

Ba loại trí tuệ trong Tứ Thánh Đế (3 x 4) thành 12 loại trí tuệ, mà Đức Phật đã chứng đạt một cách hoàn toàn trong sáng thanh tịnh, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddho).

Đối với hàng Phật tử là bậc xuất gia Sa di, Tỳ-khưu, cũng như hàng tại gia cư sĩcận sự nam, cận sự nữ, cùng tất cả chư thiên, phạm thiên có nguyện vọng trở thành bậc Thánh Nhân, cũng phải hành theo con đường duy nhấtĐức Phật đã tiến hành. Đó là: Pháp hành trung đạo để dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, pháp giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Tìm hiểuý nghĩa Tứ Thánh Đế

Trong bộ Thanh Tịnh Đạo giảng giải 16 ý nghĩa của Tứ Thánh Đế như sau:

1- Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới sự thật chân lý Khổ Thánh Đế có 4 ý nghĩa thực chất của khổ là:

Thực chất của khổ luôn luôn hành hạ.
Thực chất của khổ là do nhân duyên cấu tạo.
Thực chất của khổ làm nóng nảy.
Thực chất của khổ là do luôn luôn sinh diệt.

2- Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tâm tham ái Nhân sinh Khổ Thánh Đế có 4 ý nghĩa thực chất của tham ái là:

Thực chất của tham áiNhân sinh khổ.
Thực chất của tham ái làm cho phát sinh khổ đế.
Thực chất của tham ái ràng buộc trong khổ, không thoát ra khỏi khổ được.
Thực chất của tham ái dính mắc ở trong khổ đế.

3- Diệt Thánh Đế đó là Niết Bàn pháp diệt Khổ Thánh Đế, có 4 ý nghĩa thực chất của Niết Bàn là:

Thực chất của Niết Bàn giải thoát mọi cảnh Khổ Thánh Đế.
Thực chất của Niết Bàn không bị ràng buộc ở trong Khổ Thánh Đế.
Thực chất của Niết Bàn không bị nhân duyên nào cấu tạo.
Thực chất của Niết Bàn không có tử sinh luân hồi.

4- Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, có 4 ý nghĩa thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo là:

Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo là nhân dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn.
Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đầu làm phận sự biết Khổ Thánh Đế, diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, chứng ngộ Niết Bàn.

Tất cả 16 ý nghĩa thực chất của Tứ Thánh Đế này đồng thành tựu phận sự cùng một lúc ở trong Thánh Đạo Tâm, không trước không sau.

Tam Tuệ Luân (Tiparivatta)

Tam Tuệ Luân là 3 bậc trí tuệ luân chuyển theo Tứ Thánh Đế như sau:

Saccanāna: Trí tuệ học Tứ Thánh Đế.
Kiccanāna
: Trí tuệ hành phận sự Tứ Thánh Đế.
Katanāna
: Trí tuệ thành hoàn thành phận sự Tứ Thánh Đế.

1- Trí tuệ học biết Tứ Thánh Đế

1.1 Trí tuệ học biết Khổ Thánh Đế

Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Khổ Thánh Đế.

Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ.

* Ngũ uẩn chấp thủ là:

Sắc uẩn chấp thủ: Sắc uẩn là đối tượng của tà kiếntham ái chấp thủ.

Thọ uẩn chấp thủ: Thọ uẩn là đối tượng của tà kiếntham ái chấp thủ.

Tưởng uẩn chấp thủ: Tưởng uẩn là đối tượng của tà kiếntham ái chấp thủ.

Hành uẩn chấp thủ: Hành uẩn là đối tượng của tà kiếntham ái chấp thủ.

Thức uẩn chấp thủ: Thức uẩn là đối tượng của tà kiếntham ái chấp thủ.

* Danh pháp, sắc pháp trong tam giới là:

- Danh pháp đó là tâmtâm sở trong tam giới.

Tâm tam giới, có 81 tâm (không có 8 hay 40 tâm Siêu tam giới, vì không phải Khổ Thánh Đế):

Tâm dục giới có 54 tâm.

Tâm sắc giới có 15 tâm.

Tâm vô sắc giới có 12 tâm.

Tâm sở, có 51 tâm sở (không có tâm sở tham, vì tâm sở tham thuộc Tập Thánh Đế).

- Sắc pháp chỉ có trong dục giớisắc giới, không có trong vô sắc giới gồm có tất cả 28 sắc pháp.

Như vậy, danh pháp, sắc pháp trong tam giới gồm có 81 tâm tam giới + 51 tâm sở + 28 sắc phápKhổ Thánh Đế, là pháp mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ.

1.2 Trí tuệ học biết Nhân sinh khổ Thánh Đế

Trí tuệ học hiểu biết rõ chi pháp trong Nhân sinh khổ Thánh Đế.

Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tâm sở tham (lobhacetasika) có tên gọi là tham ái (tanhā) Nhân sinh Khổ Thánh Đế.

Tham ái (tanhā): Có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại, 108 loại theo cách tính như sau:

* Tham ái tính theo tính chất: Tính chất của tham ái có 3 loại:

Kāmatanhā: Dục ái, tham ái trong 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) không hợp với tà kiến.

Bhavatanhā: Hữu ái, tham ái trong 6 trần hợp với thường kiến (sassataditthi), hoặc tham ái trong cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc.

Vibhavatanhā: Phi hữu ái, tham ái trong 6 trần hợp với đoạn kiến (ucchedaditthi).

* Tham ái tính theo đối tượng có 6 loại:

Tham ái phát sinh do nương nhờ 6 đối tượng như sau:

Sắc ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng sắc trần.

Thanh ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng thanh trần.

Hương ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng hương trần.

Vị ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng vị trần.

Xúc ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng xúc trần.

Pháp ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng pháp trần.

* Tham ái có 18 loại:

Tính theo 3 tính chất tham ái nhân với 6 đối tượng của tham ái thành 18 loại tham ái.

* Tham ái có 54 loại:

Tính theo tham ái phát sinh trong 3 thời như sau:

Thời quá khứ tham ái có 18 loại.
Thời hiện tại tham ái có 18 loại.
Thời vị lai tham ái có 18 loại.

* Tham ái có 108 loại:

Tính theo tham ái phát sinh bên trong của mình và bên ngoài mình của người khác, và vật khác (có sinh mạng và không sinh mạng) như sau: Bên trong mình tham ái có 54 loại; bên ngoài mình tham ái có 54 loại.

Tổng cộng tất cả bên trong và bên ngoài gồm có 108 loại tham ái. 108 loại tham ái đều là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ.

Tâm tham ái không chỉ là nhân sinh khổ ở kiếp hiện tại, mà còn là nhân sinh khổ dẫn dắt tái sinhkiếp sau nữa. Hễ còn tâm tham ái, thì còn phải tái sinh kiếp sau, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài vô cùng, vô tận.

1.3 Trí tuệ học biết Diệt Khổ Thánh Đế

Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Diệt Khổ Thánh Đế.

Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn, pháp diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, cũng là pháp diệt quả Khổ Thánh Đế.

* Niết Bàn có 2 loại theo Bậc Thánh Arahán:

Hữu Dư Niết Bàn (Sa upādisesanibbāna): Niết Bàn đối với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, cũng gọi là Phiền Não Niết Bàn (Kilesaparinibbāna), song ngũ uẩn vẫn còn tồn tại cho đến hết tuổi thọ.

Vô Dư Niết Bàn (Anupādisesanibbāna): Niết Bàn đối với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót; đồng thời đến lúc hết tuổi thọ, ngũ uẩn tịch diệt Niết Bàn, cũng gọi là Ngũ Uẩn Niết Bàn (Khandhaparinibbāna), chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới.

* Niết Bàn có 3 loại theo đối tượng:

Vô Tướng Niết Bàn (Amimittanibbāna): Niết Bàn đối với hành giả tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp trạng thái vô thường hiện rõ hơn trạng thái khổ trạng thái vô ngã, do tín pháp chủ năng lực hơn 4 pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là “Vô Tướng Niết Bàn”: Niết Bàn không có hiện tượng pháp hành hữu vi.

Vô Ái Niết Bàn (Appanihitanibbāna): Niết Bàn đối với hành giả tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp trạng thái khổ hiện rõ hơn trạng thái vô thường trạng thái vô ngã, do định pháp chủ năng lực hơn 4 pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là “Vô Ái Niết Bàn”: Niết Bàn không có tham ái nương nhờ.

Chơn Không Niết Bàn (Sunnatanibbāna): Niết Bàn đối với hành giả tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp trạng thái vô ngã hiện rõ hơn trạng thái vô thường trạng thái khổ, do tuệ pháp chủ năng lực hơn 4 pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là “Chơn Không Niết Bàn”: Niết Bàn hoàn toàn vô ngã, không phải Ta, không phải của Ta.

Các loại Niết Bàn đều là Diệt Khổ Thánh Đế, là pháp mà chư bậc Thánh đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ.

1.4 Trí tuệ học biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế

Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế.

Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế: Đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế.

Bát Chánh Đạo:

Chánh kiến: Trí tuệ chân chínhtrí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế: Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế và Đạo Thánh Đế.

Chánh tư duy: Tư duy chân chínhtư duy thoát ra khỏi ngũ trần, tư duy không làm khổ mình khổ người, tư duy không làm hại mình hại người.

Chánh ngữ: Nói lời chân chính là không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời vô ích.

Chánh nghiệp: Hành nghiệp chân chính là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.

Chánh mạng: Nuôi mạng chân chính là tránh xa cách sống tà mạng do thân và khẩu hành ác.

Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chính

Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
Tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sinh.
Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh.
Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.

Chánh niệm: Niệm chân chínhniệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, (ngoài ra không gọi là chánh niệm).

Chánh định: Định chân chínhđịnh tâm trong các bậc thiền Siêu tam giới tâmNiết Bàn làm đối tượng. (Ngoài ra, định tâm ở bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc không gọi là chánh định).

Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh,pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế, là pháp mà chư bậc Thánh đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ.

Trên đây là 4 trí tuệ học hiểu biết các chi pháp của Tứ Thánh Đế, thuộc về phần Pháp học (pariyattidhamma).

2- Trí Tuệ hành phận sự Tứ Thánh Đế

Khi 4 trí tuệ học đã hiểu biết rõ tất cả chi pháp trong Tứ Thánh Đế xong rồi, luân chuyển đến 4 trí tuệ hành theo phận sự của mỗi Thánh Đế như sau:

2.1 Trí tuệ hành phận sự Khổ Thánh Đế

Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên biết (parinneyya), hay trí tuệ hành có phận sự nên biết danh pháp, sắc phápkhổ đế. (không phải có phận sự nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.2 Trí tuệ hành phận sự Tập Thánh Đế

Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên diệt (pāhātabba), hay trí tuệ hành có phận sự nên diệt tham ái. (không phải có phận sự nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.3 Trí tuệ hành phận sự Diệt khổ Thánh Đế

Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabba), hay trí tuệ hành có phận sự nên chứng ngộ Niết Bàn. (không phải có phận sự nên biết, nên diệt, nên tiến hành).

2.4 Trí tuệ hành phận sự Pháp hành diệt khổ Thánh Đế

Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên tiến hành (bhāvetabba), hay trí tuệ hành có phận sự nên tiến hành Bát Chánh Đạo. (không phải có phận sự nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ).

Trên đây là 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế, thuộc về phần pháp hành (patipattidhamma).

3- Trí Tuệ thành phận sự Tứ Thánh Đế

Khi 4 trí tuệ hành đang tiến hành phận sự Tứ Thánh Đế luân chuyển đến 4 trí tuệ thành hoàn thành xong phận sự của mỗi Thánh Đế như sau:

3.1 Trí tuệ thành phận sự Khổ Thánh Đế

Khổ Thánh Đế: Đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới, là pháp mà trí tuệ thành đã biết xong (parinnata), đã hoàn thành xong phận sự biết Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã biết xong danh pháp, sắc phápKhổ Thánh Đế.

3.2 Trí tuệ thành phận sự Nhân sinh Khổ Thánh Đế

Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ thành đã diệt xong (pahīna), đã hoàn thành xong phận sự diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã diệt xong tham ái.

3.3 Trí tuệ thành phận sự Diệt Khổ Thánh Đế

Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ thành đã chứng ngộ xong (sacchikata), đã hoàn thành xong phận sự chứng ngộ Diệt Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã chứng ngộ xong Niết Bàn.

3.4 Trí tuệ thành phận sự Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế

Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn là pháp mà trí tuệ thành đã tiến hành xong (bhāvita), đã hoàn thành xong phận sự tiến hành Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã tiến hành xong Bát Chánh Đạo.

Trên đây là 4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh Đế, thuộc về pháp thành (paṭivedhadhamma), đó là sự chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả Niết Bàn, gọi là 9 pháp Siêu tam giới (navalokuttaradhamma).

Nhân Quả Liên Quan Tam Tuệ Luân

* Từ quả suy ra nhân:

4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong 4 phận sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả Niết Bàn, đó là kết quả của 4 trí tuệ hành theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế.

4 trí tuệ hành hành đúng theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế, đó là kết quả của 4 trí tuệ học hiểu biếtTứ Thánh Đế.

* Từ nhân đến quả:

4 trí tuệ học hiểu biết đúng theo các chi pháp của Tứ Thánh Đế, làm nhân duyên dẫn đến kết quả 4 trí tuệ hành theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế.

4 trí tuệ hành hành đúng theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế làm nhân duyên dẫn đến kết quả 4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế. Đó là, sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán. Trí tuệ thấy rõ, biết rõ phạm hạnh đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn phải tái sinh kiếp nào khác nữa.

Như trong đoạn kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Thế Tôn khẳng định:

“Nānanca pana me dassanam udapādi, akuppā me vimutti, ayamantimājāti, natthi dāni punabbhavo”.

Trí tuệ quán xét đã phát sinh đến Như Lai, biết rõ rằng: “Arahán Thánh Quả Tuệ giải thoát của Như Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp hiện tại này, không còn phải tái sinh kiếp nào nữa.


TAM TUỆ LUÂN CỦA MỖI THÁNH ĐẾ

Trong mỗi Thánh Đế có đủ Tam Tuệ Luân như sau:

1- Khổ Thánh Đế

Trí tuệ học hiểu biết danh pháp, sắc pháp trong tam giớiKhổ Thánh Đế.

Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên biết (parinneyya).

Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên biết, thì đã biết rồi (parinnāta).

2- Nhân sinh khổ Thánh Đế

Trí tuệ học hiểu biết tham áiNhân sinh Khổ Thánh Đế.

Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ tham ái là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên diệt (pahātabba).

Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ tham áiác phápThánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên diệt, thì đã diệt rồi (pahīna).

3- Diệt Thánh Đế

Trí tuệ học hiểu biết Niết Bànpháp diệt Khổ Thánh Đế.

Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ Niết Bàn là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabba).

Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ Niết Bàn là pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ rồi (sacchikata).

4- Pháp hành diệt khổ Thánh Đế

Trí tuệ học hiểu biết Bát Chánh Đạopháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế.

Trí tuệ hành đang tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên tiến hành (bhāvetabba).

Trí tuệ thành đã tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo là pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên tiến hành, thì đã tiến hành rồi (bhāvita).

Trong mỗi Thánh Đế đều có Tam Tuệ Luân chuyển; trong Tứ Thánh Đế (4x3) gồm có 12 Tuệ Luân chuyển, có thể tượng trưng như một bánh xe Pháp Luân (Dhammacakka) có 12 căm luân chuyển.

BẢNG TÓM TẮT TUỆ LUÂN TRONG TỨ THÁNH ĐẾ

 

Tam Tuệ Luân

Tứ Thánh Đế

Khổ Thánh Đế

Tập Thánh Đế

Diệt Thánh Đế

Đạo Thánh Đế

Trí tuệ học

Danh -Sắc

Tham ái

Niết Bàn

Bát Chánh Đạo

Trí tuệ hành

Nên biết

Nên diệt

Nên chứng ngộ

Nên tiến hành

Trí tuệ thành

Đã biết

Đã diệt

Đã chứng ngộ

Đã tiến hành

 

Tứ Thánh Đế

Tam Tuệ Luân

Trí tuệ học

Trí tuệ hành

Trí tuệ thành

Khổ Thánh Đế

Danh -Sắc

Nên biết

Đã biết

Tập Thánh Đế

Tham ái

Nên diệt

Đã diệt

Diệt Thánh Đế

Niết Bàn

Nên chứng ngộ

Đã chứng ngộ

Đạo Thánh Đế

Bát Chánh Đạo

Nên tiến hành

Đã tiến hành

Tam Tuệ Luân của 4 Bậc Thánh Nhân

Mỗi bậc Thánh Nhân đều trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế, mỗi tuệ luân có năng lực trí tuệ khác nhau đối với từng bậc Thánh Nhân.

Bậc Thánh Nhập Lưu trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ nhất, Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái trong 4 tâm tham hợp tà kiến (còn 4 tâm tham không hợp tà kiến, thì chưa diệt được).

Bậc Thánh Nhất Lai trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ nhì, Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái ngũ trần loại thô trong 4 tâm tham không hợp tà kiến (còn ngũ trần loại vi tế, thì chưa diệt được).

Bậc Thánh Bất Lai trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ ba, Bất Lai Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái ngũ trần loại vi tế trong 4 tâm tham không hợp tà kiến cõi dục giới (còn tham ái trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thì chưa diệt được).

Bậc Thánh Arahán trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ tư, Arahán Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới phạm thiên trong 4 tâm tham không hợp tà kiến. Như vậy, bậc Thánh Arahán diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn tham ái không còn dư sót.

Tính chất 4 phận sự của Tứ Thánh Đế

4 trí tuệ hành 4 trí tuệ thành trong 4 phận sự của Tứ Thánh Đếtính chất liên quan đồng thời, không phận sự nào trước, không phận sự nào sau:

Trong bộ Thanh Tịnh Đạo có ví dụ rằng:

Khi đốt một cây đèn dầu (hay cây đèn cầy) trong đêm tối, có 4 sự việc xảy ra đồng thời, không trước, không sau:

Ánh sáng tỏa ra.
Bóng tối bị tan biến.
Tim đèn bị cháy mòn.
Dầu bị hao dần.

Bốn sự việc xảy ra cùng một lúc, không việc nào trước, không việc nào sau.

Cũng giống như 4 trí tuệ hành và 4 trí tuệ thành trong 4 phận sự của Tứ Thánh Đếtính chất đồng thời, không trước, không sau.

Trong Kinh Gavampaticó đoạn dạy:

Đại đức Gavampati thưa với chư Tỳ-khưu rằng:

- Này chư Pháp hữu, tôi được nghe từ nơi Đức Thế Tôn dạy rằng:

Vị Tỳ-khưu nào chứng ngộ Khổ Thánh Đế, vị Tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.

Vị Tỳ-khưu nào chứng ngộ Tập Thánh Đế, vị Tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.

Vị Tỳ-khưu nào chứng ngộ Diệt Thánh Đế, vị Tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.

Vị Tỳ-khưu nào chứng ngộ Đạo Thánh Đế, vị Tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế...

Như vậy, Tứ Thánh Đế có sự liên quan về phận sự với nhau đồng thời, không trước, không sau.

Phần giải thích:

* Bốn trí tuệ hành phận sự trong Tứ Thánh Đế

Trong 4 trí tuệ hành phận sự này, trí tuệ hành phận sự khổ đế chính, còn 3 trí tuệ hành phận sự kia là phụ. Song 4 phận sự có tính chất đồng thời, không trước, không sau, có danh phápsắc pháp làm đối tượng.

Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp nào, sắc pháp nào khổ đế, thì đồng thời, tham áiNhân sinh khổ đế không sanh trong danh pháp ấy, sắc pháp ấy; cũng đồng thời, chứng ngộ sự diệt của tham áiNhân sinh khổ đế ở danh pháp ấy, sắc pháp ấy.

Trong khi đang tiến hành thiền tuệ với chánh niệm, chánh kiến, chánh tinh tấn, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ khổ đế nên biết, tập đế nên diệt, diệt đế nên chứng ngộ, thì chính đạo đế đang nên tiến hành.

Như vậy, 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế đồng thời, không trước, không sau.

* Bốn trí tuệ thành phận sự trong Tứ Thánh Đế

4 trí tuệ thành là đã hoàn thành xong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế là quả của 4 trí tuệ hành, cũng có tính chất đồng thời, không trước, không sau, chỉ có Niết Bàn làm đối tượng.

Khi trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới đó là Thánh Đạo Tuệ đã hoàn thành xong phận sự biết Khổ Thánh Đế thì:

Đồng thời Thánh Đạo Tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự diệt tham ái Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Tập Thánh Đế).

Đồng thời Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ đã chứng ngộ Niết Bàn Diệt Khổ Thánh Đế.

Đồng thời Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, đồng sinh với Thánh Đạo Tâm, đã hoàn thành xong phận sự tiến hành Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Đạo Thánh Đế) là:

Khổ Thánh Đế nên biết, thì đã biết xong
Tập Thánh Đế nên diệt, thì đã diệt xong.
Diệt Thánh Đế nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong.
Đạo Thánh Đế nên tiến hành, thì đã tiến hành xong.

Bốn trí tuệ thành phận sự này, đã hoàn thành xong 4 phận sự Tứ Thánh Đế, đồng thời, không trước, không sau, chỉ có Niết Bàn làm đối tượng.

Vai trò 4 trí tuệ hành và 4 trí tuệ thành

Trong 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế, giai đoạn đầu, trí tuệ hành phận sự biết Khổ Thánh Đế đóng vai trò chính yếu, đó là trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc phápkhổ đế, là pháp nên biết. Trí tuệ hành phận sự của mỗi Thánh Đế còn lại, cũng thành tựu phận sự cùng một lúc, không trước, không sau.

Trong 4 trí tuệ thành phận sự của Tứ Thánh Đế, giai đoạn cuối, trí tuệ thành phận sự đã tiến hành Đạo Thánh Đế đóng vai trò chính yếu, đó là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh, đồng sinh với Thánh Đạo Tâm - Thánh Quả Tâm, có Niết Bàn làm đối tượng, hoàn thành xong phận sự đã tiến hành xong Bát Chánh Đạo, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn. Trí tuệ thành phận sự của mỗi Thánh Đế còn lại, cũng thành tựu phận sự cùng một lúc, không trước, không sau.

Tứ Thánh Đế trong giáo pháp của Đức Phật

Tứ Thánh Đếchân lý của chư bậc Thánh, là nền tảng căn bản, là pháp cốt lõi, trọng yếu trong giáo pháp của Chư Phật thời quá khứ, Đức Phật thời hiện tại và Chư Phật thời vị lai. Tứ Thánh Đế đó là:

1- Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới. Trong giáo pháp của Đức Phật, thì tất cả mọi danh pháp, sắc pháp cõi dục giới, cõi sắc giới danh pháp cõi vô sắc giới, đúng theo chân lý đều là khổ đế (dukkhasacca), không phải lạc đế. Tuy có thọ lạc, nhưng thọ lạc cũng sinh rồi diệt, luôn luôn hành hạ, nên chỉ có khổ đế mà thôi.

Trong tam giới không có pháp nào gọi là “lạc đế”, mà chỉ có “lạc đảo điên” (sukhavipallāsa), do quan niệm tâm đảo điên (cittavipallāsa), tà kiến đảo điên (ditthivipallāsa), tưởng đảo điên (sannāvipallāsa).

Đúng theo chân lý thì chỉ có khổ đế mà thôi. Dầu có thọ lạc (sukhavedanā), nhưng thọ lạc cũng bị vô thường biến đổi, nên cũng chỉ là khổ đế mà thôi.

Như Đại đức Tỳ-khưu ni Vajirā dạy rằng:

“Chỉ có khổ đế sanh, khổ đế trụ, khổ đế diệt.
Ngoài khổ đế ra, không có gì sanh, không có gì trụ, không có gì diệt...”
.

Do đó, ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới đều là khổ đế.

2- Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái Nhân sinh Khổ Thánh Đế

Tâm tham áiNhân sinh khổ trong kiếp hiện tại.

Nếu tâm tham không được thỏa mãn, thì tâm sân phát sinh, không vừa lòng, làm khổ tâm.

Nếu tâm tham mà được thỏa mãn, thì phát sinh tâm tham chấp thủ, cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh tâm sân sầu não, lo sợ cũng làm khổ tâm.

Như Đức Phật dạy trong Pháp Cú kệ rằng:

“Tanhāya jāyatī soko
Tanhāya jāyatī bhayam
Tanhāya vippamuttassa
Natthi soko kuto bhayam?”

“Sự sầu não phát sinh do tham ái
Sự lo sợ phát sinh do tham ái
Bậc Thánh Arahán không tham ái
Không sầu não, từ đâu có lo sợ?”.

Tâm tham ái là nhân dẫn dắt đi tái sinh khổ trong kiếp sau. Ngoại trừ bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái ra, còn lại tất cả mọi chúng sinh: Nhân loại, chư thiên, phạm thiên và gồm cả 3 bậc Thánh hữu học (Thánh Nhập Lưu, Thánh Nhất Lai, Thánh Bất Lai) còn tham ái, nên còn phải tái sinh khổ trong kiếp sau.

Chúng sinhngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức uẩn) trong cõi dục giớisắc giới, hay chúng sinhtứ uẩn (thọ, tưởng, hành và thức uẩn) ở cõi vô sắc giới, hay chúng sinh chỉ có nhất uẩn (sắc uẩn) trong cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên, cũng đều phải chịu khổ đế. Chỉ khác nhau là khổ nhiều, khổ ít mà thôi.

Do đó tâm tham áiNhân sinh Khổ Đế.

3- Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bànpháp diệt đoạn tuyệt được tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, cũng là pháp diệt quả Khổ Thánh Đế.

* Niết Bànpháp diệt đoạn tuyệt tham ái

Hành giả tiến hành thiền tuệ, đến khi chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo Tuệ, có đối tượng Niết Bàn, Thánh Đạo Tuệ nào có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái nào rồi tâm tham ái ấy vĩnh viễn không bao giờ phát sinh trở lại nữa, gọi là “Phiền Não Niết Bàn” (Kilesaparinibbāna). Loại phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt do Thánh Đạo Tuệ rồi, loại phiền não ấy vĩnh viễn không còn sanh trở lại.

Trường hợp Đức Phật Gotama chứng ngộ Phiền Não Niết Bàn tại Đại cội Bồ đề.

* Niết Bànpháp tịch diệt ngũ uẩn

Bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, gọi là Ngũ uẩn Niết Bàn (Khandhaparinibbāna). Ngũ uẩn của bậc Thánh Arahán khi tịch diệt Niết Bàn rồi, không còn tái sinh kiếp sau nữa, như ngọn đèn tắt.

Trường hợp Đức Phật Gotama tịch diệt Ngũ uẩn Niết Bàn tại khu rừng Kusinārā.

Do đó, Niết Bànpháp diệt Khổ Thánh Đế.

4- Đạo Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo,pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ Thánh Đế.

Hành giả tiến hành thiền tuệ, đến khi chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, có đối tượng Niết Bàn. Khi ấy, Thánh Đạo Tâm hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, đồng sanh với Thánh Đạo Tâm đã hoàn thành xong 4 phận sự:

Khổ Thánh Đế là pháp nên biết, thì Thánh Đạo Tuệ đã biết xong.

Nhân sinh khổ Thánh Đế là pháp nên diệt, thì Thánh Đạo Tuệ đã diệt xong.

Diệt Khổ Thánh Đế là pháp nên chứng ngộ, thì Thánh Đạo Tuệ đã chứng ngộ xong.

Pháp hành diệt khổ Thánh Đế là pháp nên tiến hành, thì Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh đã tiến hành xong.

Do đó, Bát Chánh Đạopháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ Thánh Đế.

Tứ Thánh Đế là nền tảng, là cốt lõi chính yếu trong giáo pháp của Chư Phật. Vì vậy, hành giả tiến hành thiền tuệ, dầu có những đối tượng thiền tuệ khác nhau như thân, thọ, tâm, pháp, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, danh pháp, sắc pháp,... đến giai đoạn cuối cùng đều đạt đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, mới chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả Niết Bàn.

Nhân quả liên quan của Tứ Thánh Đế

Chân lý Tứ Thánh Đếnhân quả liên quan với nhau như sau:

Khổ Thánh Đế: Đó là Ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới), là quả của Nhân sinh Khổ Thánh Đế.

Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tham ái Nhân sinh Khổ Thánh Đế cũng là nhân dẫn dắt tái sinh kiếp sau (tanhā ponobbhavikā).

Diệt khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn không thuộc quả của một nhân nào. Niết Bàn Pháp Vô vi (Asaṅkhatadhamma), là pháp hoàn toàn không do một nhân duyên nào cấu tạo.

Pháp hành diệt khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ Thánh Đế.

Như vậy, Bát Chánh Đạo nhân đạt đến Niết Bàn (Diệt khổ Thánh Đế) không phải là nhân sinh Niết Bàn (Diệt khổ Thánh Đế), Diệt khổ Thánh Đế cũng không phải là quả của Pháp hành diệt khổ Thánh Đế, mà chỉ là đối tượng Siêu tam giới của Pháp hành diệt khổ Thánh Đế mà thôi.

Ví dụ: Con đường dẫn đến kinh đô.

Con đường ví như Bát Chánh Đạo Pháp hành diệt khổ Thánh Đế.

Kinh đô ví như Niết Bàn là pháp Diệt khổ Thánh Đế.

Con đường dẫn đến kinh đô, chứ không phải là nhân sinh kinh đô.

Cũng như vậy, Pháp hành diệt khổ Thánh Đế không phải nhân sinh Niết Bàn Diệt khổ Thánh Đế, mà chỉ là nhân đạt đến Niết Bàn Diệt khổ Thánh Đế mà thôi.

Trong Phật giáo có hai pháp hành: Pháp hành thiền địnhpháp hành thiền tuệ, mà mỗi pháp hànhmục đích cuối cùng hoàn toàn khác nhau.

Hành giả tiến hành thiền định, để đạt đến định tâm trong một đối tượng thiền định, tâm được an lạc, để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, các bậc thiền vô sắc. Hành giả nhập thiền (jhānasamāpatti) hưởng sự an lạc trong thiền. Sau khi chết, sắc giới thiện nghiệp, hoặc vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh lên cõi sắc giới, hoặc cõi vô sắc giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, rồi lại tái sinh kiếp khác tùy theo nghiệp của mình.

Hành giả tiến hành thiền tuệ, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ Khổ đế trong các danh pháp, các sắc pháp, gọi là chánh kiến thiền tuệ (vipassanāsammādiṭṭhi) dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán. Bậc Thánh có thể nhập Thánh Quả (phalasamāpatti) hưởng an lạc Niết Bàn. Đến khi hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Như vậy, hành giả đang tiến hành thiền định, mà tâm được an lạc trong đối tượng thiền địnhhành đúng; còn hành giả đang tiến hành thiền tuệ, mà trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ Khổ đế trong đối tượng thiền tuệ là hành đúng.

- Pháp hành thiền định có trong Phật giáo và ngoài Phật giáo.

- Pháp hành thiền tuệ chỉ có trong Phật giáo mà thôi, không có ngoài Phật giáo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4035)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4928)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6514)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3893)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 3996)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5224)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3685)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3449)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3828)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5290)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3738)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3827)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3773)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4693)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4423)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4152)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3733)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4490)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4072)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5964)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4491)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4853)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4071)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4731)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5573)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3537)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3942)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4504)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5174)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3060)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4638)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4445)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4182)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4656)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4388)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4500)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7094)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5094)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4891)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4491)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5518)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4064)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5884)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4594)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4783)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5367)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5476)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5688)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4259)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4572)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4605)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5766)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3238)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5164)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2865)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant