Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

20. Chúng Sinh Trong Tam Giới

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7855)
20. Chúng Sinh Trong Tam Giới

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


CHÚNG SINH TRONG TAM GIỚI

Tất cả chúng sinh trong tam giới có 3 loài:

1- Chúng sinhngũ uẩn trong 11 cõi dục giới (4 cõi ác giới, 1 cõi người, 6 cõi trời dục giới) và 15 cõi sắc giới (trừ cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên).

2- Chúng sinh có tứ uẩn (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn) trong 4 cõi vô sắc giới.

3- Chúng sinh có nhất uẩn (sắc uẩn) trong cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên.

Chúng sinhngũ uẩn

Ngũ uẩnsắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Chúng sinhngũ uẩn như chúng sinhcõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, loài người, chư thiên trong cõi dục giới và chư phạm thiên trong 15 cõi sắc giới.

- Sắc uẩn thuộc về phần thân.

- Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn thuộc về phần tâm.

Ví dụ: Khi con người sống thì thân với tâm luôn luôn nương nhờ lẫn nhau. Phần thân hay sắc uẩn là riêng biệt, và phần tâm gồm có 4 uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn luôn luôn nương nhờ lẫn nhau và không bao giờ tách rời nhau, bởi vì mỗi tâm luôn luôn có một số tâm sở.

Trong mỗi tâm phát sinh, thì có một số tâm sở ít hoặc nhiều đồng sinh với tâm ấy, chính tâm ấy là thức uẩn và các tâm sở đồng sinh với tâm, như tâm sở thọthọ uẩn, tâm sở tưởng tưởng uẩn, tâm sở còn lạihành uẩn. Cho nên, trong mỗi tâm đều có 4 uẩn nương nhờ lẫn nhau, không tách rời nhau.

Nếu khi nào tâm tách rời khỏi thân, thì khi ấy gọi là người chết, thân trở thành tử thi.

Con người chưa phải là bậc Thánh Arahán, thì sau khi chết rồi, chắc chắn nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp sau thuộc loài chúng sinh nào, hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp của người ấy cho quả tái sinh. Do đó, thân người chết là xong kiếp người, không thể tái sinh kiếp sau được, mà chỉ có nghiệp của người ấy đã tạo trong kiếp hiện tại hoặc kiếp quá khứ, chính nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau mà thôi. Tất cả mọi chúng sinh khác cũng giống như vậy.

Không nên hiểu rằng: con người chết sẽ tái sinh làm chư thiên, hoặc súc sinh..., và cũng không nên hiểu rằng: “Chư thiên chết, rồi tái sinh làm người, hoặc một loài thú vật chết, rồi tái sinh làm người v.v...”.

Sự thật, mỗi kiếp chúng sinh nào đến khi chết rồi, chấm dứt kiếp chúng sinh ấy; phần thân không liên quan đến kiếp sau, mà chỉ có phần tâm liên quan đến kiếp quá khứ, hiện tạivị lai mà thôi.

Còn tái sinh kiếp sau, do năng lực của tham ái dẫn dắt tái sinh, và chính nghiệp của chúng sinh ấy trực tiếp cho quả tái sinh kiếp sau.

- Nếu nghiệp ác cho quả, thì sẽ tái sinh 1 trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.

- Nếu nghiệp thiện cho quả, thì được tái sinh một trong những cõi thiện giới: Làm người trong cõi người, làm chư thiên trong cõi trời dục giới, làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới, vô sắc giới.

Cho nên, tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh không liên quan đến phần thân, chỉ liên quan đến phần tâm mà thôi.

Pháp ngũ uẩn

Uẩn (khandha) có nghĩa là “phần” gồm những phần có trạng thái giống nhau, liên kết vào với nhau.

Ví dụ: Con ngườingũ uẩn.

Sắc uẩn đó là 28 sắc pháp thuộc phần thân.

Thọ uẩn đó là tâm sở thọ.

Tưởng uẩn đó là tâm sở tưởng.

Hành uẩn đó là 50 tâm sở nói chung (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng).

Thức uẩn đó là 89 hay 121 tâm nói chung, mỗi tâm là thức uẩn.

Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn thuộc về phần tâm hay gọi là danh uẩn.

Giải thích:

1) Sắc uẩn

Sắc uẩn đó là 28 sắc pháp như sau:

Sắc tứ đại: là 4 sắc pháp lớn rõ ràng.

Địa đại: chất đất có trạng thái cứng hoặc mềm.
Thủy đại
: chất nước có trạng thái lỏng hoặc đông đặc.
Hỏa đại
: chất lửa có trạng thái nóng hoặc lạnh.
Phong đại
: chất gió trạng thái lưu động, phồng hoặc xẹp.

Sắc tứ đại này là nơi nương nhờ của 24 sắc pháp phụ thuộc.

24 sắc pháp phụ thuộc vào sắc tứ đại:

5 sắc tịnh căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân.
5 - 7 sắc đối tượng
: sắc, thanh, hương, vị, xúc.
2 sắc tính
: sắc nam tính, sắc nữ tính.
1 sắc ý căn.
1 sắc mạng chủ.
1 sắc vật thực.
1 sắc chân không.
2 sắc cử động
: sắc thân cử động, sắc khẩu cử động.
3 sắc biến chuyển
: sắc nhẹ nhàng, sắc mềm mại, sắc uyển chuyển.
4 sắc trạng thái
: sắc sanh, sắc liên tục, sắc già dặn, sắc vô thường.

28 sắc pháp này đều gọi là sắc uẩn.

Một người bình thường, không bị khuyết tật, thân thể có đầy đủ 27 sắc pháp.

Nếu là người nam, thì trừ sắc nữ tính.
Nếu là người nữ, thì trừ sắc nam tính.
Nếu người bị đui mù, câm điếc, thì người ấy có số lượng sắc pháp giảm xuống theo bệnh tật.

2) Thọ uẩn.

Thọ uẩn đó là tâm sở thọ, có trạng thái cảm thọ trong đối tượng.

Thọ có 3 loại tính theo cảm thọ trong đối tượng:

Thọ khổ có trạng thái khổ khó chịu.
Thọ lạctrạng thái lạc dễ chịu.
Thọ xả có trạng thái không khổ, không lạc.

Thọ có 5 loại tính theo cảm thọ đối tượng do thân, tâm làm chủ:

Thọ khổ đồng sinh với thân thức tâm (thân khổ).
Thọ lạc đồng sinh với thân thức tâm
(thân an lạc).
Thọ hỷ đồng sinh với ý thức tâm
(tâm an lạc).
Thọ ưu đồng sinh với sân tâm
(tâm khổ não).
Thọ xả đồng sinh với ý thức tâm
(tâm không khổ, không lạc).

Mỗi tâm phát sinh có tâm sở thọ đồng sinh với tâm, tâm sở thọ ấy là thọ uẩn.

3) Tưởng uẩn.

Tưởng uẩn đó là tâm sở tưởngtrạng thái ghi nhớ trong 6 đối tượng.

Sắc tưởng ghi nhớ các hình ảnh màu sắc.
Thanh tưởng
ghi nhớ các loại âm thanh, tiếng nói.
Hương tưởng
ghi nhớ các thứ mùi thơm, hôi.
Vị tưởng
ghi nhớ các thứ vị ngon, dở.
Xúc tưởng
ghi nhớ các loại cảm xúc nóng lạnh, cứng mềm...
Pháp tưởng
ghi nhớ các tâm, tâm sở, sắc pháp, các ngôn ngữ chế định, môn học và cả Niết Bàn.

Mỗi tâm phát sinh, đều có tâm sở tưởng đồng sinh với tâm, tâm sở tưởng ấy là tưởng uẩn.

4) Hành uẩn.

Hành uẩn đó là 50 tâm sở (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng).

trạng thái cấu tạo, tạo các pháp; tâm sở tác ý (cetanā) đồng sinh với bất thiện tâm, tạo nên bất thiện nghiệp (ác nghiệp) do thân, khẩu, ý; tâm sở tác ý (cetanā) đồng sinh với thiện tâm, tạo nên thiện nghiệp, do thân, khẩu, ý.

Mỗi tâm phát sinh, có các tâm sở này ít hoặc nhiều, tùy theo năng lực và phận sự của mỗi tâm. Ngoại trừ hai tâm sở thọtâm sở tưởng ra, các tâm sở còn lại đều là hành uẩn.

5) Thức uẩn.

Thức uẩn đó là tất cả các tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm có trạng thái biết đối tượng. Đối tượng có 6 loại, do đó tất cả tâm chia ra làm 6 loại tâm.

Nhãn thức tâm: có 2 tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần, các hình ảnh.
Nhĩ thức tâm
: có 2 tâm làm phận sự lắng nghe thanh trần, các âm thanh.
Tỷ thức tâm
: có 2 tâm làm phận sự ngửi các thứ mùi hương.
Thiệt thức tâm
: có 2 tâm làm phận sự nếm các thứ vị.
Thân thức tâm
: có 2 tâm làm phận sự cảm giác xúc trần nóng, lạnh, cứng, mềm...
Ý thức tâm
: có 79 tâm làm nhiều phận sự biết pháp trần: tâm, tâm sở, sắc pháp, các ngôn ngữ chế định ra môn học,... và cả đối tượng Niết Bàn tùy theo năng lực của mỗi tâm.

Mỗi tâm là mỗi thức uẩn.

Thật ra, mỗi tâm phát sinh đều có một số tâm sở ít hoặc nhiều tùy theo năng lực và phận sự của tâm ấy. Các tâm sở này đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng đối tượng với tâm, đồng nơi phát sinh với tâm.

Cho nên, khi mỗi tâm phát sinh nghĩa là 4 danh uẩn đồng sinh; khi tâm diệt nghĩa là 4 danh uẩn đồng diệt.

Mỗi tâm phát sinh đều nương nhờ nơi môn đó là sắc pháp.

Như vậy:

Sắc pháp mà tâm ấy nương nhờ thuộc sắc uẩn.
Tâm
ấy làm chủ thuộc thức uẩn.
Tâm sở thọ
đồng sinh với tâm ấy thuộc thọ uẩn.
Tâm sở tưởng
đồng sinh với tâm ấy thuộc tưởng uẩn.
Tâm sở
còn lại (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) đồng sinh với tâm ấy thuộc hành uẩn

Những chúng sinhngũ uẩn:

Khi mỗi tâm phát sinh là ngũ uẩn phát sinh,
Khi mỗi tâm diệtngũ uẩn diệt.

Vốn trạng thái của tâm sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục không ngừng, bởi do nhân duyên hỗ trợ từ vô thủy cho đến nay, từ kiếp này sang kiếp khác tiếp nối nhau, trên cuộc hành trình tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh.

Vốn trạng thái của thân hoặc sắc uẩn cùng sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục không ngừng giới hạn trong mỗi kiếp, do bởi nghiệptuổi thọ của mỗi chúng sinh. Khi nghiệp ấy tận cùng, tuổi thọ hết, thân mạng chủ (sắc mạng chủ: Rūpujīvitindriya) bị cắt đứt, chấm dứt một kiếp, đồng thời tâm tách rời khỏi thân, gọi là chết.

Sau khi chết, nếu chúng sinh ấy còn phiền não, tham ái, thì nghiệp còn cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp trước với kiếp sau không liên quan đến phần thân, mà chỉ liên quan đến phần tâm.

Đức Phật dạy ngũ uẩn này đều là vô ngã.

Vô ngã với nghĩa:

- Anattā asārakaṭṭhena: Vô ngã với ý nghĩavô dụng, không có cốt lõi vững chắc, không có tính chất bền vững lâu dài.

- Avasavattanaṭṭhena anattā: Vô ngã với ý nghĩa không chiều theo ý muốn của ai.

Những ví dụ về Ngũ uẩn

Trong bài kinh PheṇapiṇḍasuttaĐức Phật thuyết dạy những ví dụ về mỗi uẩn có ý nghĩa được tóm lược như sau:

1- Sắc uẩn ví như bọt nước (pheṇapiṇḍūpamaṃ rūpaṃ).

Nghĩa là sắc uẩn (thân), đó là 28 sắc pháp ví như bọt nước.

Trong mùa mưa lụt lớn, trên dòng sông nước chảy kết tụ những bọt nước thành đống bọt nước lớn. Đống bọt nước này dù nhỏ, dù lớn cũng không thể sử dụng làm vật gì, để đem lại sự lợi ích lâu dài; nếu đống bọt nước này trôi đi chưa bị tan rã giữa đường, thì khi trôi ra đến biển chắc chắn phải bị tan rã, trở nên vô dụng. Cũng như vậy, sắc uẩn (thân) này đó là 28 sắc pháp sanh rồi diệt có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, trạng thái bất tịnh, thường có mọi thứ bệnh hoạn ốm đau. Sắc uẩn (thân) này khi tái sinh đầu thai ban đầu nhỏ xíu, theo thời gian, to lớn dần như thân hình của con voi, con cá mập,... rồi cuối cùng cũng bị tan rã, trở thành vô dụng.

Cho nên, Đức Phậtsắc uẩn (thân) này như bọt nước.

2- Thọ uẩn ví như bong bóng nước (vedanāpubbuḷūpamā)

Nghĩa là thọ uẩn, đó là tâm sở thọ, ví như bong bóng nước.

Trời mưa lớn, hạt mưa nặng hạt rơi xuống hồ, vũng nước... nổi lên những bong bóng nước. Những bong bóng nước này nổi lên liền vỡ ngay, không thể sử dụng làm gì để đem lại sự lợi ích, trở thành vô dụng. Cũng như vậy, thọ uẩn này đó là thọ khổ, thọ lạc, thọ xả ... sinh rồi diệt mau lẹ, không tồn tại lâu dài, chỉ có khổ mà thôi, trở thành vô dụng.

Cho nên, Đức Phậtthọ uẩn này như bóng nước.

3- Tưởng uẩn ví như ảo ảnh (maricikūpamā saññā).

Nghĩa là tưởng uẩn, đó là tâm sở tưởng ví như ảo ảnh.

Trong mùa hè nóng bức, khách lữ hành nóng nực và khát nước đi trên đường, nhìn về phía trước trời nắng chập chờn gợn sóng giống như đằng trước có nước sông. Khi đi đến, gợn sóng kia di chuyển đến phía trước, luôn luôn có một khoảng cách. Đó là ảo ảnh không có thật chỉ là vô dụng. Cũng như vậy, tưởng uẩn này ghi nhớ, tưởng nhớ những đối tượng không còn thật nữa. Ví như khi khát nước, tưởng nhớ đến nước, nhưng không giúp làm cho đỡ cơn khát được, trở thành vô dụng.

Cho nên, Đức Phậttưởng uẩn này ví như ảo ảnh.

4- Hành uẩn ví như cây chuối (saṅkhārā kadalūpamā).

Nghĩa là hành uẩn, đó là 50 tâm sở, (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) ví như cây chuối.

Một người cần cây có lõi, đi vào rừng nhìn thấy cây chuối lớn trơn tru, người ấy chặt cây chuối đem về nhà. Khi bóc bẹ chuối từ ngoài vào trong ruột, không tìm thấy lõi cây, chỉ là vô dụng mà thôi. Cũng như vậy, hành uẩn này tạo tác các pháp hữu vi, mà các pháp hữu vi sinh rồi diệt, có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, không phải ta, không phải của ta, chỉ là vô dụng mà thôi.

Cho nên, Đức Phậthành uẩn này như cây chuối.

5- Thức uẩn ví như nhà ảo thuật (mayūpamaṃ viññāṇaṃ).

Nghĩa là thức uẩn, đó là 89 hoặc 121 tâm, ví như nhà ảo thuật.

Các nhà ảo thuật biểu diễn các trò ảo thuật rất nhanh tay, để đánh lừa khán giả một cách tinh xảo. Cũng như vậy, đối với các hàng phàm nhân, thức uẩn biết mọi đối tượng cho là ta biết, nhưng biết sai lầm đảo điên; các pháp hữu vivô thường, biết cho là thường; các pháp hữu vi là khổ, biết cho là lạc; các pháp hữu vivô ngã, biết cho là ngã (ta); các pháp hữu vibất tịnh, biết cho là tịnh, xinh đẹp,... nhưng thật ra, các pháp hữu vivô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Thế mà thức uẩn của các hàng phàm nhân biết bị đánh lừa đảo điên.

Cho nên, Đức Phậtthức uẩn này như nhà ảo thuật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4483)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4519)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7244)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2932)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12145)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3958)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3778)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4165)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3645)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5005)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6608)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3966)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4081)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5302)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3754)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4485)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3520)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3893)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4362)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5351)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3816)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3895)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3826)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4778)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4484)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4215)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3799)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4600)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4159)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6047)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4559)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4913)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4125)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4786)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5635)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3593)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3994)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4560)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5233)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3108)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4718)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4502)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4254)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4706)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4452)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4571)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7177)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5169)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4973)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4560)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5578)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5234)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4122)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5963)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4680)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4832)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5449)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5574)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5773)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4964)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant