Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

21. Pháp Vô Ngã (Anattà)

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7268)
21. Pháp Vô Ngã (Anattà)

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


PHÁP VÔ NGÃ (ANATTÀ)

Pháp vô ngã không những có trong ngũ uẩn, mà còn gồm có trong các pháp hữu vipháp vô vi.

Đức Phật dạy: Sabbe dhammā anattā.

Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã.

Pháp hữu vi: Đó là ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới...là pháp được cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Các pháp hữu vi này đều là pháp vô ngã.

Pháp vô vi: Đó là Niết Bàn (kể cả pháp chế định) là pháp không bị cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Pháp vô vi này cũng đều là pháp vô ngã.

Pháp vô ngã này chỉ có trong Phật giáo; ngoài Phật giáo, hoàn toàn không có quan niệm về pháp vô ngã này.

Thật vậy, trong đời, người nào không biết về Phật giáo, người ấy có thể có quan niệm về vô thường, quan niệm về khổ, nhưng không bao giờ có quan niệm về vô ngã.

Ví dụ: Khi người ta gặp trường hợp người hoặc vật đang có hiện hữu rồi chết hoặc mất, không còn hiện hữu nữa. Người ta than rằng: Vô thường! Vô thường! Có rồi không có!

Khi người ta mắc bệnh hoạn hoặc ốm đau, bệnh nan y khó chữa, hoặc gặp phải tai nạn bi thương... người ta thốt lên rằng: Khổ quá! Khổ quá! Không chịu đựng nổi!

Trong những trường hợp ấy chẳng bao giờ nghe người ta thốt lên: Vô ngã! Vô ngã!

Bởi vì, những người ấy không có quan niệm về vô ngã, mà chỉ có tà kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác) cho là ngã, ta, người, chúng sinh v.v... mà thôi.

Vả lại, những người ấy có quan niệm về vô thường, khổ quá thô thiển; nghĩa là mỗi khi gặp hoàn cảnh xấu, trường hợp có rồi không có, lâm bệnh, tai nạn... thì mới thốt lên: Vô thường! Khổ quá!

Trong cuộc sống bình thường, những người ấy có tà kiến thấy sai chấp lầm đảo điên, trong ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác), chúng sinh khác cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh.

Trong Phật giáo, những người nào học hỏi nghiên cứu, thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, những người ấy có ý thức rõ ràng về vô thường, khổ, vô ngã vô cùng vi tế, sâu sắc. Thật ra: Vô thường, khổ, vô ngã có trong thật tánh của các pháp hữu vi, bởi vì pháp hữu vi sinh rồi diệt không ngừng, nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã. Đặc biệt nhất đối với hành giả đang tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, nên trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn bằng chánh kiến thiền tuệ mới diệt được tà kiến, thấy sai chấp lầm nơi sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh.

Tự ngã có thật hay không?

Đức Phật dạy: Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã. Như vậy, theo giáo pháp của Đức Phật thì không có tự ngã, cái ta thật.

Thật vậy, người ta có quan niệm rằng ta đi, ta đứng, ta ngồi, ta nằm, ta thấy, ta nghe, ta ngửi, ta nếm, ta cảm giác, ta suy nghĩ, ta buồn, ta vui, v.v...v.v... Trong vô số cái ta ấy, thử hỏi cái ta nào là cái ta thật?

Sở dĩ, có vô số cái ta ấy, là do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hay nói cách khác do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc pháptừ danh pháp cho là ta, ngã. Khi có tà kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn, hoặc sắc pháp, danh pháp bên trong của mình cho là ta, ngã; thì cũng thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp bên ngoài (của người khác) của chúng sinh khác cho là người, chúng sinh v.v...

Như vậy, cái ta thật không có, mà chỉ có tâm tà kiến là có thật.

Tự ngã, cái ta không có thật, thì phương pháp diệt ngã cũng không có.

Tâm tà kiến có thật, nên phương pháp diệt tâm tà kiến có thật

Nếu khi đã diệt được tâm tà kiến theo chấp ngã rồi, thì chắc chắn không còn thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, hoặc từ sắc pháp, từ danh pháp cho là ta, là người, là chúng sinh v.v... vĩnh viễn không phát sinh lại được nữa.

Phương pháp diệt tâm tà kiến chỉ có cách tiến hành thiền tuệ mà thôi. Khi trí tuệ thiền tuệ phát sinh tuần tự từ thấp đến cao qua 16 trí tuệ thiền tuệ, lần thứ nhất, đến trí tuệ thứ 14 gọi là Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ. Chính trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới này có Niết Bàn làm đối tượng, mới có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tâm tà kiến theo chấp ngũ uẩn (sakkāyaḍiṭṭhi) hoặc tà kiến theo chấp ngã (attānuḍiṭṭhi). Cho nên, đối với bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn không còn tà kiến theo chấp ngũ uẩn, hoặc tà kiến theo chấp ngã, bất cứ lúc nào trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị lai (nhiều nhất 7 kiếp nữa).

Chấp ngã có 3 loại

Sự chấp ngã có 3 loại:

Tà kiến theo chấp ngã.
Tham ái theo chấp ngã
.
Ngã mạn theo chấp
ngã.

Tà kiến theo chấp ngã: Tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn... cho là tự ngã của ta (eso me attā). Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tà kiến theo chấp ngã này không còn dư sót, còn lại tham ái theo chấp ngã ngã mạn theo chấp ngã vẫn còn. Song bậc Thánh Nhập Lưu không bao giờ tạo ác nghiệp nặng nào có thể cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; chỉ tái sinh cõi người hoặc cõi trời dục giới nhiều nhất là 7 kiếp, đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh Arahán, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Tham ái theo chấp ngã: Tham ái theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là của ta (etaṃ mama). Bậc Thánh Bất Lai có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tham ái theo chấp ngã trong cõi dục giới. Còn tham ái loại vi tế trong bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc, trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới chưa diệt được và ngã mạn theo chấp ngã cũng chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh Bất Lai mãn kiếpcõi người, không trở lại tái sinh cõi dục giới, mà chính bậc thiền hữu sắc (hoặc bậc thiền vô sắc) sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới (hoặc cõi trời vô sắc giới) và chắc chắn sẽ trở thành Bậc Thánh Arahán trên cõi trời sắc giới ấy, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Ngã mạn theo chấp ngã: Ngã mạn theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn... cho là ta (eso hamasmi). Bậc Thánh Arahán có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại ngã mạn theo chấp ngã này, và tham ái theo chấp ngã loại vi tế trong các bậc thiền và cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới. Cho nên, bậc Thánh Arahán mãn kiếpcõi người, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hối trong ba giới bốn loài.

Chấp ngã - không chấp ngã

Tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng, hễ còn là phàm nhân, chưa phải Thánh Nhân, thì còn chấp ngã do bởi phiền não, nhất là tà kiến, tham ái, ngã mạn.

Sở dĩ một số phàm nhân vẫn còn có chấp ngã, là vì họ không đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn; không được lắng nghe chánh pháp, không hiểu biết chánh pháp, không hành pháp hành thiền tuệ, không chứng đắc thành bậc Thánh Nhân... Do đó, số phàm nhân ấy có phiền não nặng nề, nên còn chấp ngã, rồi tự làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ mình lẫn người, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

Còn những hạng thiện trí phàm nhân thường đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn Giác; được lắng nghe chánh pháp, hiểu biết chánh pháp, tiến hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não trở thành bậc Thánh Arahán. hoàn toàn không còn tà kiến, tham ái, ngã mạn nữa, bậc Thánh Arahán có trí tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn này là:

Không phải tự ngã của ta (na me so attā).
Không phải của ta (netaṃ mama).
Không phải là ta (nesohamasmi).

Cho nên, bậc Thánh Nhân không còn làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ mình lẫn người.

Nếu hành giả tiến hành thiền tuệ mà chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, thì vẫn còn là hạng thiện trí phàm nhân (kalyāṇaputhujjana) chưa diệt được tà kiến chấp ngã. Tuy hạng thiện trí phàm nhân còn tà kiến chấp ngã, nhưng tà kiến chấp ngã này chỉ có trở ngại cho Siêu tam giới thiện pháp mà thôi, chứ không làm trở ngại cho việc tạo mọi tam giới thiện pháp đó là dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp. Cho nên, hạng thiện trí phàm nhân này sau khi chết:

- Nếu có dục giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm người, hoặc làm thiên nam hoặc làm thiên nữ ở 1 trong 6 cõi trời dục giới.

- Nếu có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm phạm thiên ở 1 trong 16 cõi sắc giới phạm thiên.

- Nếu có vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì sinh làm phạm thiên ở 1 trong 4 cõi vô sắc giới phạm thiên.

Như vậy, tà kiến chấp ngã của hạng thiện trí phàm nhân chỉ có trở ngại cho pháp Siêu tam giới, nghĩa là ngăn cản sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 45)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 640)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1522)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant