Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

22. Phật Giáo

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6610)
22. Phật Giáo

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


PHẬT GIÁO (BUDDHASASANA)

Phật giáo là lời giáo huấn của Đức Phật, từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào ngày rằm tháng tư (âm lịch) tại Đại cội Bồ đề, suốt 45 năm cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, cũng vào ngày rằm tháng tư (âm lịch) tại khu rừng Kusinārā.

Phật giáo có 3 phần chính:

Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana)
Pháp hành Phật giáo
(Paṭipattisāsana)
Pháp thành Phật giáo
(Paṭivedhasāsana)

Pháp học Phật giáo đúng đắn làm nền tảng căn bản cho pháp hành Phật giáo được phát triển đúng. Khi pháp hành Phật giáo phát triển đúng đắn dẫn đến kết quả là pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Pháp học Phật giáo là gì?

Trong chú giải Chi Bộ Kinh định nghĩa:

Pariyatti ti tepiṭakam Buddhavacanaṃ sāṭṭhakathā Pāḷi

Pháp học Phật giáo là Phật ngôn Tam Tạng cùng Chú giải Pāḷi.

Tiếng Pāḷingôn ngữ chung của Chư Phật trong quá khứ, Đức Phật hiện tại và Chư Phật vị lai.

Pháp học Phật giáo gồm những lời giáo huấn, những điều răn dạy của Đức Phật trong suốt 45 năm kể từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, được ghi chép trong Tam Tạng, mà trong đó gồm có lời của các hàng đệ tử, chư thiên, phạm thiên,... được Đức Phật nhắc lại hoặc xác nhận cũng xem như Phật ngôn, và Chú giải là lời giải thích của Đức Phật rải rác trong Tam Tạng gọi là Pakiṇṇa-kadesanā thuyết giảng giải thích những điều thắc mắc của các hàng đệ tử, cùng với lời giải thích của chư Thánh Arahán, gọi chung là Chú giải.

Pháp học là nền tảng căn bản của Phật giáo, nếu khôngpháp học Phật giáo, thì chắc chắn sẽ không có pháp hành Phật giáopháp thành Phật giáo, không thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Nếu có pháp học Phật giáo đúng, thì có pháp hành Phật giáo đúng, nếu có pháp hành Phật giáo đúng, thì có pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

1- PHÁP VỊ GIẢI THOÁT (VIMUTTIRASA)

Phật giáo có một vị duy nhấtvị giải thoát khổ như Đức Phật đã dạy:

“Seyathāpi Pahārāda, mahāsamuddo ekaraso loṇaraso. Evamevaṃ kho Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso; Ayampi Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso...”

Này Pahārāda, như đại dương chỉ có một vị duy nhấtvị mặn”. Cũng như vậy, này Pahārāda, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhấtvị giải thoát khổ”.

Này Pahārāda, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhấtvị giải thoát khổ”.

Phân loại toàn giáo pháp của Đức Phật

2- PHẬT NGÔN (BUDDHAVACANA)

Toàn giáo pháp của Đức Phật, Phật ngôn chia ra làm 3 thời kỳ:

Phật ngôn đầu tiên (Paṭhama buddhavacana).
Phật ngôn thời kỳ
giữa (Majihima buddhavacana).
Phật ngôn
cuối cùng (Pacchima buddhavacana).

Phật ngôn đầu tiên là gì?

Đức Bồ Tát Siddhattha chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, tại Đại cội Bồ đề vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), Ngài đang an hưởng vị giải thoát suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết 2 bài kệ ở trong tâm rằng:

“Anekajātisamsāram
Sandhāvissam anibbisam
Gahakāraṃgavesanto 
Dukkhājāti punappunam.
Gahakāraka! dittho’si
Puna geham na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā
Gahakūtam visaṅkhatam
Visaṅkhāram gatam cittam
Tanhānam khayamajjhagā”
.

153- Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân”
Như Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,
Nên tử sinh luân hồi vô số kiếp
Tái sinh mãi trong tam giới là khổ,
154- Này tham ái, người thợ xây nhà “thân”!
Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi !
Tất cả sườn nhà, “phiền não”
của ngươi,
Như Lai đã hủy hoại sạch cả rồi
Đỉnh nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt,
Nay ngươi không còn xây nhà Như Lai
Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn
Diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái,
Như Lai đã chứng đắc A-ra-hán.

Hai bài kệ này mà Đức Phật tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn thời kỳ đầu tiên của Đức Phật.

Phật ngôn cuối cùng là gì?

Đức Phật du hành thuyết pháp tế độ cho chúng sinh có duyên lành nên tế độ, khắp mọi nơi, từ cõi người đến cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới (không có cõi trời vô sắc giới, bởi vì phạm thiên cõi này không có sắc uẩn (không có lỗ tai để lắng nghe Chánh Pháp) suốt 45 năm ròng rã ngày đêm. Đến ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức Phật ngự đến khu rừng Kusinārā để tịch diệt Niết Bàn. Trước giờ tịch diệt Niết Bàn, vào canh chót, Đức Phật nhắc nhở khuyên dạy các hàng đệ tử đứng đầu là Tỳ-khưu rằng:

“Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo
Vayadhammā saṅkhārā
Appamādena sampādetha”

Này chư Tỳ-khưu, bây giờ Như Lai nhắc nhở khuyên dạy các con lần cuối cùng. Tất cả các pháp hữu vitrạng thái diệt là thường, các con hãy nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ Niệm Xứ.

Đó là Phật ngôn cuối cùng của Đức Phật.

Thật vậy, Đức Phật chấm dứt câu chót:

“Appamādena sampādetha”

Từ đó, không còn dạy một lời nào nữa. Đức Phật nhập các bậc thiền hữu sắc, các bậc thiền vô sắccuối cùng tịch diệt Niết Bàn, gọi là Ngũ Uẩn Niết Bàn (khandhaparinibbāna) diệt ngũ uẩn rồi, không có ngũ uẩn nào khác tái sinh nữa, hoàn toàn giải thoát khổ sinhgiải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Phật ngôn thời kỳ giữa là gì?

Ngoại trừ hai câu kệ tự thuyết đầu tiên và Phật ngôn thời kỳ cuối cùng ra, còn lại tất cả những lời giáo huấn, điều răn dạy của Đức Phật trong suốt 45 năm.

Đó là Phật ngôn thời kỳ giữa của Đức Phật.

3- PHÁP VÀ LUẬT (DHAMMA VINAYA)

Toàn giáo pháp của Đức Phật phân ra làm hai loại:

- Pháp (Dhamma) gồm có Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp.
- Luật (Vinaya) là Tạng Luật.

Trong kinh Đại Niết Bàn (Mahāparinibbānasutta), trước khi tịch diệt Niết Bàn. Đức Phật dạy Đại đức Ānanda rằng:

“Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññato, so vo mamaccayena satthā” 2 .

- Này Ānanda, Pháp mà Như Lai đã thuyết, Luật mà Như Lai đã chế định, sau khi Như Lai đã tịch diệt Niết Bàn rồi, Pháp và Luật ấy là Tôn sư của các con.

Theo Chú giải kinh Đại Niết Bàn, giải thích:

Danh từ Dhamma: Pháp có nghĩa là Tạng Kinh Tạng Vi Diệu Pháp.

Danh từ Vinaya: Luật có nghĩa là Tạng Luật.

Tiṇi piṭakāni pañca nikāyā navaṅgāni caturasītidhammakkhandhasahassāni.

Tất cả Pháp và Luật phân chia thành Tam Tạng, Ngũ bộ, Cửu chi, 84.000 Pháp môn.

- Tạng Luật: Gồm có 21.000 Pháp môn.
- Tạng Kinh
: Gồm có 21.000 Pháp môn.
- Tạng Vi Diệu Pháp
: Gồm có 42.000 Pháp môn.

Đức Phật còn giảng giải rằng:

“Iti imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbāyāmi. Ahañca kho dāni ekova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti amusāsissanti” .

Như vậy, 84.000 Pháp môn này tồn tại, chỉ có một mình Như Lai tịch diệt Niết Bàn. Thật vậy, bây giờ chỉ có một mình Như Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con. Sau khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, thì có 84.000 Pháp môn ấy làTôn sưsẽ giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con.

Trên đây là đoạn Chú giảiĐức Phật đã giải thích, giảng dạy cho các hàng đệ tử nên hiểu biết rõ rằng:

Sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn rồi, không phải không còn vị Tôn sư, mà khi ấy, 84.000 pháp môn chính là Tôn sư sẽ giáo huấn, sẽ theo dạy dỗ các hàng đệ tử.

4- TAM TẠNG (TIPIṬAKA)

Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia theo tạng thì có 3 tạng:

Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi).
Tạng Kinh
(Suttantapiṭakapāḷi).
Tạng Vi Diệu Pháp
(Abhidhammapiṭakkapāḷi)

a) Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi)

Tạng Luật gồm những lời răn dạy của Đức Phật. Đức Phật đã ban hành những điều giới Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, những phép hành tăng sự, những điều cho phép và những điều không cho phép, những việc nên làm và những việc không nên làm v.v...

Tạng Luật có 5 bộ

* Bộ Pārājikapāḷi gồm có những điều giới:

4 điều giới Pārājika
13 điều giới Saṃghādisesa
2 điều giới Aniyata
30 điều giới Nissaggiya pācittiya.

* Bộ Pācittiyapāḷi gồm có những điều giới:

92 điều giới Suddha pācittiya
4 điều giới Pāṭīdesanīya
75 điều giới Sekhiya.
7 điều Adhikaraṇasamatha
Những điều giới của Tỳ-khưu ni.

* Bộ Mahāvagga (Tạng Luật)

Bộ luật Mahāvagga này, Đức Phật thuyết giảng về chuyện chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, chuyện thuyết pháp Chuyển Pháp Luân đầu tiên tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu, Đức Phật ban hành phép xuất gia thọ Sadi, Tỳ-khưu v.v...

* Bộ Cūḷavagga

Bộ luật Cūḷavagga này, Đức Phật ban hành nhiều phép hành tăng sự đến chư Tỳ-khưu. Trong bộ này, lần đầu tiên Đức Phật cho phépMahāpajāpatigotamī xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni trong giáo pháp của Đức Phật, cùng với 500 cận sự nữ dòng Sakya cùng xuất gia thọ Tỳ-khưu ni v.v...

* Bộ Parivāra

Bộ luật Parivāra này, Đức Phật ban hành nhiều điều liên quan đến giới và nhiều vấn đề khác...

Đó là 5 bộ trong Tạng Luật mà Đức Phật là Bậc duy nhất chế định và ban hành đến chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni; còn các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử không thể chế định ra điều giới và các phép hành tăng sự ...

Tạng Luật có 3 đặc tính đặc biệt:

- Đức Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh (aṇādesanā).
- Đức Phật giáo huấn tùy theo lỗi (yathāparādhasāsana)
- Đức Phật răn dạy Tỳ-khưu giữ gìn thu thúc thân và khẩu (saṃvarāsaṃvarakāthā).

* Đức Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh như thế nào?

Đức Phật đã chế định ra điều giới, các phép hành tăng sự, điều cho phép và không cho phép, việc nên làm và không nên làm... đến chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni. Chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni phải nghiêm chỉnh hành theo những điều mà Đức Phật đã chế định, không được thêm vào hoặc bớt ra. Nếu vị nào cố ý sai phạm, vị ấy phải chịu tội nặng hay nhẹ, tùy theo mỗi điều giới, không ngoại trừ một ai.

Đức Phật là Bậc độc nhất chế định và ban hành Tạng Luật, còn các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử không có quyền chế định một điều nào cả.

* Đức Phật giáo huấn tùy theo lỗi như thế nào ?

Khi nào Tỳ-khưu hoặc Tỳ-khưu ni bị phạm lỗi lần đầu tiên, bị người đời hoặc chư thiên chê trách, làm tổn thương đến uy tín của chư Tăng. Khi ấy, Đức Phật mới chế định điều giới, ban hành đến chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, để đem lại 10 điều lợi ích như sau:

1- Saṃghasuṭṭhutāya: Để đem lại sự tốt lành cho Tỳ-khưu Tăng, Tỳ-khưu ni Tăng.

2- Saṃghaphāsutāya: Để đem lại sự an lành cho Tỳ-khưu Tăng, Tỳ-khưu ni Tăng.

3- Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya: Để khiển trách Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni phá giới, khó dạy không biết hổ thẹnghê sợ tội lỗi.

4- Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuviharāya: Để đem lại sự an lành đến những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni biết kính yêu giới.

5- Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya: Để ngăn ngừa những tai họa xảy ra trong kiếp hiện tại.

6- Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya: Để diệt trừ những tai họa 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) trong kiếp vị lai.

7- Appasannānaṃ pasādāya: Để làm cho phát sinh đức tin đến những người chưa có đức tin nơi Tam Bảo.

8- Pasannānaṃ bhiyyo bhavāya: Để làm tăng trưởng thêm đức tin cho những người đã có đức tin nơi Tam Bảo.

9- Saddhammaṭṭhitiyā: Để làm cho Chánh Pháp “pháp học, pháp hành, pháp thành” được trường tồn lâu dài.

10- Vinayānuggahāya: Để giữ gìn hộ trì giới luật được nghiêm minh.

Đức Phật chế định giới điều, sau khi có Tỳ-khưu hoặc Tỳ-khưu ni phạm lỗi đầu tiên. Cho nên, những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm lỗi đầu tiên; Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy không phạm giới ấy. Đức Phật chế định điều giới nặng hoặc nhẹ, tùy theo lỗi nặng hoặc nhẹ. Sau khi Đức Phật chế định giới điều nào rồi, ban hành đến Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni; nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào cố ý phạm giới ấy, thì Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy gọi là đã phạm giới ấy.

* Đức Phật răn dạy Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni giữ gìn thu thúc thân và khẩu như thế nào?

Đức Phật ban hành giới điều đến Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cốt để răn dạy Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni biết giữ gìn thu thúc thân và khẩu, tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu. Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni giữ gìn điều giới được trong sạch, có thể diệt được phiền não loại thô (vitikkamakilesa), để làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ được phát triển.

Đó là những đặc tính đặc biệt của Tạng Luật.

Tỳ-khưu giới

Đức Phật chế định, ban hành điều giới của Tỳ-khưu trong Bhikkhupātimokkhasīla có 227 điều giới như sau:

1) Điều giới Pārājika có 4 điều giới bất cộng trụ.

2) Điều giới Saṃghādisesa có 13 điều giới.

3) Điều giới Aniyata có 2 điều giới bất định.

4) Điều giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều giới ưng xả đối trị, trước phải xả bỏ vật bị phạm giới, sau mới xin sám hối (pācittiya āpatti).

5) Điều giới Suddha pācittiya có 92 điều giới ưng đối trị.

6) Điều giới Pāṭidesamāya có 4 điều giới sám hối riêng rẽ.

7) Điều giới Sekhiya có 75 điều học tập.

8) Điều Adhikaraṇasamatha có 7 pháp giảng hòa.

Trong giới bổn bhikkhupātimokkhasīla gồm có 227 điều giới, nếu tính theo Tạng Luật, thì điều giới của Tỳ-khưu tổng cộng 91.805.036.000 điều giới. Như trong bộ Visuddhimagga dạy:

“Navakoṭisahassāni,
Asitisatakoṭiyo.
Paññāsasatasahassāni,
Chattiṃsa ca punāpare.
Ete saṃvaravinayā,
Sambuddhena pakāsitā
Peyyālamukhena niddiṭṭhā,
Sikkhā vinayasaṃvare.”

Đức Phật đã chế định những điều giới trong Tạng Luật bằng cách hiểu rộng gồm có 91.805.036.000 điều giới, để giữ gìn thu thúc thân và khẩu tránh xa mọi hành ác.

Tỳ-khưu ni giới

Đức Phật chế định ban hành điều giới của Tỳ-khưu ni Bhikkhunipātimokkhasīla gồm có 311 điều giới như sau:

1) Điều giới Pārājika có 8 điều giới.

2) Điều giới Saṃghādisesa có 17 điều giới.

3) Điều giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều giới.

4) Điều giới Suddha pācittiya có 166 điều giới.

5) Điều giới Pāṭidesamāya có 8 điều giới.

6) Điều giới Sekhiya có 75 điều giới.

7) Điều Adhikaraṇasamatha có 7 pháp.

 

Tên điều giới

Tỳ-khưu giới

Điều giới Pārājika

4 điều giới

Điều giới Saṃghādisesa

13 điều giới

Điều giới Aniyata

2 điều giới

Điều giới Nissaggiya pācittiya

30 điều giới

Điều giới Suddha pācittiya

92 điều giới

Điều giới Pāṭidesamāya.

4 điều giới

Điều giới Sekhiya

75 điều giới

Điều giới Adhikaraṇasamatha

7 điều giới

 


----------------------

 


227 điều giới

 

Tên điều giới

Tỳ-khưu ni giới

Điều giới Pārājika

8 điều giới

Điều giới Saṃghādisesa

17 điều giới

Điều giới Nissaggiya pācittiya

30 điều giới

Điều giới Suddha pācittiya

166 điều giới

Điều giới Pāṭidesamāya

 8 điều giới

Điều giới Sekhiya

75 điều giới

Điều giới Adhikaraṇasamatha

7 điều giới

 


----------------------

 


311 điều giới

Phạm giới āpatti

Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni phạm giới āpatti có 7 loại

1) Pārājika āpatti: Phạm giới bất cộng trụ, mất phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni.

2) Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới rồi phải xin chư Tăng hình phạt.

3) Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng kém thua hai giới trên.

4) Pācittiya āpatti: Phạm giới ưng đối trị.

5) Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới xin sám hối riêng rẽ.

6) Dukkaṭa āpatti: Phạm giới tác ác.

7) Dubbhāsita āpatti: Phạm giới ác khẩu.

Phạm giới āpatti có 7 loại chia làm 2 loại chính

1- Phạm giới āpatti nặng có 2 loại

Pārājika āpatti: Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong những điều giới này; Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy bị mất phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, họ phải hoàn tục trở lại người tại gia (hoặc xuống trở thành Sadi).

Saṃghādisesa āpatti: Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong những điều giới này; Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy tuy còn phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, nhưng vị ấy phải biết xin chịu hành phạt theo luật của Đức Phật ban hành, hành Parivāsakamma, hành Mānattakamma và hành Abbhānakamma, để cho giới của mình được trở lại trong sạch.

2- Phạm giới āpatti nhẹ có 5 loại

Thullaccaya āpatti, Pācittiya āpatti, Pāṭidesanīya āpatti, Dukkaṭa āpatti, Dubbhāsita āpatti. Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong 5 loại này, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy có thể xin sám hối với một vị Tỳ-khưu khác, để cho giới của mình được trở lại trong sạch.

Quả báu của sự giữ gìn giới

Trong Tạng Luật bộ Parivāra, Đức Phật thuyết dạy quả báu của sự giữ gìn giới trong sạch đem lại sự lợi ích theo nhân quả tuần tự như sau:

1) Giữ gìn giới trong sạch đem lại sự lợi ích là có thu thúc lục căn thanh tịnh.

2) Có thu thúc, đem lại sự lợi íchtâm không nóng nảy, tâm mát mẻ.

3) Tâm không nóng nảy, đem lại sự lợi ích là có tâm thỏa thích an vui.

4) Tâm thỏa thích an vui, đem lại sự lợi ích là có tâm hoan hỷ.

5) Tâm hoan hỷ, đem lại sự lợi ích là tâm vắng lặng thanh tịnh.

6) Tâm vắng lặng thanh tịnh, đem lại sự lợi ích là tâm an lạc.

7) Tâm an lạc, đem lại sự lợi ích cho thiền định.

8) Tâm thiền định, đem lại sự lợi íchtri kiến thấy đúng theo thực tánh của các pháp.

9) Tri kiến thấy đúng theo thực tánh của các pháp, đem lại sự lợi ích cho tri kiến thiền tuệ, nhàm chán ngũ uẩn.

10) Tri kiến thiền tuệ nhàm chán ngũ uẩn, đem lại sự lợi ích diệt đoạn tuyệt được tham ái bằng Thánh Đạo Tuệ.

11) Diệt đoạn tuyệt được tham ái, đem lại sự lợi ích, giải thoát khổ bằng Thánh Quả Tuệ.

12) Giải thoát khổ bằng Thánh Quả Tuệ rồi, đem lại sự lợi ích cho trí tuệ quán xét biết rõ rằng giải thoát khổ rồi.

13) Trí tuệ quán xét biết rõ giải thoát khổ rồi, đem lại sự lợi ích chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ không còn chấp thủ.

Hành giả giữ gìn giới được trong sạch và đầy đủ, làm nền tảng đem lại nhiều sự lợi ích cho mọi thiện pháp, cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ, cho đến lợi ích cao thượng là chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Quả báu của việc học Tạng Luật

Trong Tạng Luật bộ Pavivāra, Ngài Đại đức Upāli bạch hỏi Đức Thế Tôn về quả báu của việc học Tạng Luật.

Đức Phật dạy rằng:

Này Upāli, Tỳ-khưu học Tạng Luật có được 5 quả báu là:

1) Chính mình biết giữ gìn giới luật được trong sạch.
2) Mình là nơi nương nhờ của những người khác, họ đến học hỏi để hiểu rõ giới luật
.
3) Là người có thiện tâm dũng cảm trong các hội chúng
.
4) Là người thắng kẻ thù bên trong là phiền nãokẻ thù bên ngoài bằng Chánh Pháp
.
5) Là người hành theo Chánh Pháp, để duy trì Chánh Pháp được trường tồn
.

Đó là 5 quả báu của việc học rành rẽ Tạng Luật.

b) Tạng Kinh (Suttantapiṭaka)

Tạng Kinh là tạng gồm có nhiều bài kinh, bài kệ do Đức Phật thuyết giảng, cũng có một số bài kinh, bài kệ do chư Thánh Arahán, chư thiên, chư phạm thiên, Đức vua, Samôn, Bàlamôn. Những bài kinh, bài kệ ấy được Đức Phật nhắc lại hoặc xác nhận thì xem như lời thiện ngôn.

Tạng Kinh gồm có 5 bộ lớn

Trường Bộ Kinh: Gồm có những bài kinh dài.
Trung Bộ Kinh
: Gồm có những bài kinh trung bình.
Đồng Loại Bộ Kinh
: Gồm những bài kinh có điểm đồng nhau ghép thành nhóm.
Chi Bộ Kinh
: Gồm những bài kinh có chi pháp rõ ràng.
Tiểu Bộ Kinh
: Gồm những bài kinh, bài kệ không có trong 4 bộ trên, được gom vào Tiểu Bộ Kinh này.

Tạng Kinh có 3 đặc tính đặc biệt

- Đức Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp (vohāradesanā).
- Đức Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng sinh
(yathālomasāsana).
- Đức Phật thuyết dạy chúng sinh diệt được tà kiến
(diṭṭhiviniveṭhanakathā).

* Đức Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp như thế nào?

Đức Phật thuyết pháp bằng cách dùng ngôn ngữ thích hợp đối với mỗi chúng sinh. Cho nên, Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh gồm có nhiều hạng khác nhau như Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, Vua chúa, Bàlamôn, dân chúng, cho đến chư thiên, chư phạm thiên v.v... Mỗi khi chúng sinh lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, họ đều hiểu rõ ràng các chánh pháp bởi do ngôn ngữ thích hợp theo trình độ riêng của mỗi chúng sinh. Do đó, có số chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, có số chứng đắc thành bậc Thánh Nhất Lai, có số chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, có số chứng đắc thành bậc Thánh Arahán tùy theo khả năng pháp hạnh ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tạo. Cũng có số tạo duyên lành, bồi bổ pháp hạnh ba-la-mật để chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả trong thời vị lai kiếp này, hoặc kiếp sau.

* Đức Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng sinh như thế nào?

Đức Phật có hai trí tuệ đặc biệt là:

- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí tuệ biết rõ 5 pháp chủ già dặn hoặc non nớt của mỗi chúng sinh.
- Āsayānusayañāṇa
: Trí tuệ biết rõ phiền não ngấm ngầm của mỗi chúng sinh.

Do đó, Đức Phật biết rõ được chúng sinh có duyên lành chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, hoặc không chứng đắc. Cho nên, Đức Phật thuyết pháp tế độ phù hợp với căn cơ, duyên lành của chúng sinh ấy. Khi chúng sinh ấy lắng nghe chánh pháp của Đức Phật dễ dàng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái. Ví như một vị thầy thuốc có tài đức, chẩn bệnh chính xác, biết rõ căn bệnh của bệnh nhân, liền cho thuốc tốt, nên bệnh nhân mau lành bệnh.

* Đức Phật thuyết dạy chúng sinh diệt tà kiến như thế nào?

Đức Phật biết rõ mỗi chúng sinhtà kiến khác nhau (có 62 loại tà kiến), Đức Phật thuyết dạy chúng sinh ấy phát sinh chánh kiến, nên diệt được tà kiến theo chấp ngã, các loại tà kiến khác cũng bị diệt cùng một lúc, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn một cách dễ dàng.

Đó là 3 đặc tính đặc biệt của Tạng Kinh.

c) Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)

TạngVi Diệu Pháp gồm những Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) cao siêu vi diệu, là những pháp có thực tánh như: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp không phải thiện, không phải bất thiện... Những pháp ấy là ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới... không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, đàn bà, chúng sinh....

Tạng Vi Diệu Pháp được Đức Phật thuyết tại cung trời Tam Thập Tam Thiên vào mùa hạ thứ 7 của Đức Phật, để tế độ Phật mẫu, nay kiếp hiện tại là thiên nam Santussitacõi trời Đẩu Suất Đà Thiên. Vị thiên nam Santussita hiện xuống cõi trời Tam Thập Tam Thiên lắng nghe Đức Phật thuyết Tạng Vi Diệu Pháp này suốt 3 tháng hạ. Vị thiên nam Santussita chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu cùng với 80 tỷ chư thiên, chư phạm thiên cũng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả cao thấp tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi vị.

Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 7 bộ:

1- Bộ Dhammassaṅganīpāḷi: Bộ Pháp Tụ Hội gồm tất cả các chân nghĩa pháp thành nhóm Mātikā pháp đầu đề, có tất cả 132 mātikā chia làm hai loại:

Tika mātikā: Pháp đầu đề có ba chi pháp gồm có 32 mātikā.
Duka mātikā
: Pháp đầu đề có hai chi pháp gồm có 100 mātikā...

2- Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp Phân Tích gồm các pháp phân tích thành 18 loại, uẩn (khandha), xứ (āyatana), giới (dhātu) v.v...

3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Phân Loai gồm các pháp phân loại thành ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, Tứ Đế (sacca).

4- Bộ Pugalapaññattipāḷi: Bộ Nhân Chế Định phân biệt các hạng người khác nhau.

5- Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Luận Đề đặt vấn đề phá tan mọi tà thuyết, trở lại Chánh Pháp.

6- Bộ Yamakapāḷi: Bộ Song Đối gồm các câu hỏi, câu trả lời đi đôi với nhau từng cặp.

7- Bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Duyên Hệ giải về 24 duyên có quan hệ với nhau. Bộ Duyên Hệ này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi diệu nhất trong Phật giáo.

Tạng Vi Diệu Pháp có 3 đặc tính đặc biệt

- Đức Phật thuyết giảng về Chân nghĩa pháp (Paramatthadesanā).
- Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh tùy theo căn duyên để phá chấp ngã
(yathādhammasāsana).
- Đức Phật thuyết giảng phân tích danh pháp, sắc pháp
(nāmarāpaparicchedakathā).

* Đức Phật thuyết giảng về chân nghĩa pháp như thế nào?

Đức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị thông suốt tất cả các chân nghĩa pháp (paramatthadhamma) đó là tâm (citta), tâm sở (cetasika), sắc pháp (rūpa)Niết Bàn (Nibbāna). Đức Phật Chánh Đẳng Giác đặc biệt có đầy đủ 5 pháp Ñeyyadhamma, nên Ngài có khả năng chế định ra ngôn ngữ chân nghĩa pháp, để thuyết dạy Tạng Vi Diệu Pháp này. Ngoài ra, không có một vị nào có khả năng thuyết giảng chân nghĩa pháp này, bởi vì họ không phải là Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

* Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh tùy theo căn duyên để phá chấp ngã như thế nào?

Đức Phật biết rõ tà kiến theo chấp ngã của chúng sinh khác nhau.

- Số chúng sinhtà kiến theo chấp danh pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp sắc pháp cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh ấy, Đức Phật thuyết pháp ngũ uẩn (khandha) vô ngã. Bởi vì, trong ngũ uẩn4 danh uẩn: thọ, tưởng, hành, thức thuộc về danh pháp là vô ngã, còn một sắc uẩn thuộc về sắc pháp cũng là vô ngã.

- Số chúng sinhtà kiến theo chấp sắc pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp danh pháp cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh này, Đức Phật thuyết pháp 12 xứ (āyatana) vô ngã. Bởi vì, trong 12 xứ, có 10 xứ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về sắc phápvô ngã. Còn lại ý xứ thuộc về danh pháp và một phần pháp xứ thuộc về danh pháp và sắc phápvô ngã.

- Số chúng sinhtà kiến theo chấp danh pháp và sắc pháp tương đương cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh ấy, Đức Phật thuyết pháp 18 giới (dhātu) là vô ngã. Bởi vì, trong 18 giới, có 10 giới: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về sắc phápvô ngã. Còn lại 7 giới khác: nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tỷ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới, ý giới, ý thức giới thuộc về danh pháp là vô ngã, riêng pháp xứ thuộc danh pháp và sắc phápvô ngã v.v... Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp là vô ngã, không phải ta, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng sinh ..., để phá chấp ngã.

* Đức Phật thuyết giảng phân tích danh pháp, sắc pháp như thế nào?

Đức Phật thuyết giảng phân tích cho chúng sinh thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp, mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp có thực tánh pháp, có trạng thái riêng, có 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, để diệt tâm tà kiến thấy sai chấp lầm từ danh pháp, từ sắc pháp cho là tự ngã của ta; diệt tâm tham ái nơi danh pháp, sắc pháp cho là của ta, diệt tâm ngã mạn xem ta hơn người, bằng người, kém thua người...

Đó là đặc tính đặc biệt của Tạng Vi Diệu Pháp.

Quả báu của sự học Tam Tạng

- Người theo học và hành nghiêm chỉnh đúng đắn theo Tạng Luật, giữ gìn giới đức trong sạch và đầy đủ, do nhờ giới trong sạch làm nền tảng, nương nhờ giới tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tam Minh, do năng lực quả báu của sự học Tạng Luật.

- Người học thông thuộc Tạng Kinhgiới thanh tịnh làm nền tảng, để tiến hành thiền định dẫn đến chứng đắc bát thiền, dùng bậc thiền làm nền tảng, nương nhờ bậc thiền làm đối tượng, tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Lục Thông, do năng lực quả báu của sự học Tạng Kinh.

- Người học thông thuộc Tạng Vi Diệu Phápgiới định làm nền tảng, tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, do năng lực của sự học Tạng Vi Diệu Pháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7326)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4509)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4551)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7286)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2952)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12184)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3982)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3795)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4180)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3663)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5022)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6647)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3992)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4112)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5327)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3777)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4513)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3544)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3920)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4383)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5387)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3838)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3924)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3861)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4820)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4507)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4242)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3823)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4622)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4181)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6092)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4593)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4935)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4155)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4797)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5653)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3631)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4023)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4577)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5263)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3130)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4746)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4531)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4278)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4733)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4481)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4586)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7201)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5198)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4988)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4573)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5597)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5261)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4154)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5996)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4706)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4864)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5470)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5602)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5799)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant