Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

27. Phật Giáo Suy Đồi

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7678)
27. Phật Giáo Suy Đồi

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


PHẬT GIÁO SUY ĐỒI (SÀSANA ANTARADHÀNA)

Phật giáo đó là lời giáo huấn của Đức Phật vô cùng cao siêu, vô cùng vi tế. Cho nên, các hàng Phật tử là bậc xuất gia cũng như hàng tại gia cư sĩ giữ gìn, duy trì cho được trọn vẹn không phải là điều dễ dàng. Bởi vì, Phật giáo được giữ gìn duy trì bằng trí tuệ ba-la-mật, không phải bằng cách nào khác; mà trí tuệ ba-la-mật càng ngày càng bị giảm dần, giảm dần theo thời gian. Do đó, Phật giáo cũng bị mai một, bị giảm dần, giảm dần theo thời gian theo tuổi thọ 5.000 năm của Phật giáo.

Phật giáo phát triển theo thời gian, rồi lại bị mai một cũng theo thời gian; bởi vì, các hàng Phật tử không đủ khả năng trí tuệ ba-la-mật, để giữ gìn duy trì Phật giáo vô cùng cao siêu, vô cùng vi tế. Đó là nguyên nhân chính làm cho Phật giáo bị mai một dần theo thời gian.

Trong Chú giải Chi Bộ Kinh phần ekakanipāta, giải thích về Phật giáo suy đồi như sau:

- Pháp thành Phật giáo suy đồi (Adhigama antaradhāna).
- Pháp hành Phật giáo suy đồi
(Paṭipatti antaradhāna).
- Pháp học Phật giáo suy đồi
(Pariyatti antaradhāna).

Pháp thành Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp học Phật giáo cả 3 loại Phật giáo này thuộc về danh pháp, không phải sắc pháp; nên Phật giáo suy đồi không phải do lửa thiêu hủy, cũng không phải nước lũ cuốn trôi, cũng không phải do bão tàn phá, mà Phật giáo suy đồi do bởi các hàng Phật tử là các bậc xuất gia, các hàng tại gia càng ngày càng kém pháp hạnh ba-la-mật, nhất là trí tuệ ba-la-mật, nên ngày càng kém đức tin, kém trí nhớ, kém trí tuệ. Đó là nguyên nhân làm cho pháp thành Phật giáo ngày càng suy đồi, pháp hành Phật giáo ngày càng suy đồi, pháp học Phật giáo ngày càng suy đồi. Cả ba loại Phật giáo này có sự liên quan trực tiếp định luật nhân-quả với nhau.

Sở dĩ pháp thành Phật giáo càng ngày càng suy đồi, là do pháp hành Phật giáo càng ngày càng suy đồi. Pháp hành Phật giáo càng ngày càng suy đồi, là do pháp học Phật giáo càng ngày càng suy đồi.

Phật giáo dần dần bị suy đồi theo thời gian tuổi thọ 5.000 năm của Phật giáo.

Pháp thành Phật giáo suy đồi như thế nào?

Theo Chú giải Chi Bộ Kinh phần ekakanipāta trình bày Pháp thành Phật giáo bị suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm như sau:

- Một ngàn năm thứ nhất: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích (Catupaṭisambhidā).

- Một ngàn năm thứ nhì: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Lục thông (Chaḷābhiññā).

- Một ngàn năm thứ ba: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Tam Minh (Tevijja).

- Một ngàn năm thứ tư: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán chỉ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não (sukkhavipassaka) mà thôi.

- Một ngàn năm thứ năm: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Nhập Lưucuối cùng không còn ai có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu trên cõi người này nữa. Tuy vậy, những bậc Thánh Nhân còn có sinh mạng trong cõi người này, thì pháp thành Phật giáo vẫn chưa hoàn toàn bị tiêu hoại. Cho đến khi nào những bậc Thánh Nhân mãn kiếp, hết tuổi thọ, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời. Khi ấy, trong cõi người hoàn toàn không còn bậc Thánh Nhân nào.

Đó là lúc pháp thành Phật giáo suy đồi hoàn toàn không còn trong cõi người này nữa.

Trong Chú giải bài kinh Gotamīsuttavaṇṇanācó đoạn giải thích pháp thành Phật giáo suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm như sau:

- Một ngàn năm thứ nhất: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, Tam Minh.

- Một ngàn năm thứ nhì: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán chỉ diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não mà thôi.

- Một ngàn năm thứ ba: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Bất Lai.

- Một ngàn năm thứ tư: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Nhất Lai.

- Một ngàn năm thứ năm: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Nhập Lưu, và cuối cùng không còn bậc Thánh Nhân nào trong cõi người này nữa.

Đó là lúc pháp thành Phật giáo bị suy đồi hoàn toàn.

Pháp hành Phật giáo suy đồi như thế nào?

* Pháp hành thiền tuệ suy đồi: Thời gian đầu Phật giáo, hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc các bậc Thánh, càng ngày càng tăng trưởng. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, hành giả tiến hành thiền tuệ còn có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán. Về sau trải qua thời gian theo tuần tự, hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc các bậc Thánh bậc thấp dần, theo tuần tự thời gian từ bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Nhập Lưu; đến thời kỳ gần mãn tuổi thọ của Phật giáo, hành giả tiến hành thiền tuệ không đúng theo pháp hành Trung Đạocuối cùng không còn hành giả tiến hành thiền tuệ nữa.

Đó là thời kỳ pháp hành thiền tuệ bị suy đồi trong cõi người.

* Pháp hành thiền định suy đồi: Cũng như pháp hành thiền tuệ, thời kỳ đầu Phật giáo, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc, ngày càng tăng trưởng. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc giảm dần từ các bậc thiền vô sắc đến các bậc thiền hữu sắc. Về sau, trải qua thời gian theo tuần tự, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc các bậc thiền bị giảm xuống theo tuần tự từ bậc thiền cao xuống dần bậc thiền thấp, cho đến thời kỳ hành giả tiến hành thiền định không đúng theo phương phápcuối cùng không còn hành giả tiến hành thiền định nữa.

Đó là thời kỳ pháp hành thiền định bị suy đồi trong cõi người.

* Pháp hành giới suy đồi: Cũng như pháp hành thiền tuệpháp hành thiền định, thời kỳ đầu Phật giáo, hành giả giữ gìn giới trong sạchtrọn vẹn hoàn toàn. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, chư Tỳ-khưu có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, nên hết lòng tôn kính tất cả mọi điều giới mà Đức Phật đã chế định, ban hành cho Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni. Chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nghiêm chỉnh giữ gìn mọi điều giới của mình được trong sạch trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Về sau, trải qua thời gian theo tuần tự, chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni càng ngày càng giảm dần đức tin, xem thường những điều giới nhẹ, nên phạm giới dubbhāsita āpati (ác khẩu), phạm giới dukkaṭa āpati (tác ác), và dần dần tiếp theo phạm giới pācittiya āpati (ưng đối trị), phạm giới thullaccaya āpati (giới trọng) các loại giới này còn thuộc về loại giới nhẹ. Từ đó về sau, thời gian theo tuần tự Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni phạm giới nặng, như phạm giới Saṃghādisesa āpati (Tăng tàn) song vẫn còn giữ phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni; cho đến khi Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm giới pārājika āpati (bất cộng trụ). Khi ấy, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy không còn phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nữa.

Thời gian khoảng 500 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, Tỳ-khưu ni không còn nữa, chỉ còn có Tỳ-khưu, theo tuần tự thời gian đến khi gần mãn tuổi thọ Phật giáo 5.000 năm; Tỳ-khưu càng ngày càng kém đức tin, nên giữ gìn giới hạnh của mình không còn trong sạch, cho đến khi không còn hành giới nữa.

Đó là thời kỳ pháp hành giới bị suy đồi và cũng là thời kỳ pháp hành Phật giáo bị suy đồi trong cõi người.

Pháp học Phật giáo suy đồi như thế nào?

Pháp học Phật giáo đó là học thuộc lòng Tam TạngChú giải Pāḷi, lời giáo huấn của Đức Phật.

Pháp học Phật giáo là nhân, pháp hành Phật giáo là quả, nhân và quả đi đôi với nhau. Sở dĩ, pháp hành Phật giáo bị suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm tuổi thọ của Phật giáo, là vì pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi theo thời gian ấy.

Ban đầu, chư Đại Trưởng Lão giữ gìn duy trì Tam TạngChú giải Pāḷi, pháp học Phật giáo đầy đủ y theo bổn chánh qua các kỳ kết tập Tam TạngChú giải Pāḷi. Về sau, tuần tự theo thời gian chư Đại đức càng ngày càng kém đức tin, kém pháp hạnh ba-la-mật, kém trí nhớ, trí tuệ, nên không đủ khả năng thông thuộc Tam TạngChú giải Pāḷi. Đó là nguyên nhân làm cho pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian như sau:

Trước tiên, Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakapāḷi) bị mai một, bị suy đồi.

Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 7 bộ lớn:

- Dhammasaṅganīpāḷi (bộ Pháp Tụ Hội)
- Vibhaṅgapāḷi
(bộ Pháp Phân Tích)
- Dhātukathāpāḷi
(bộ Pháp Phân Loại)
- Puggalapaññattipāḷi
(bộ Nhân Chế Định)
- Kathāvatthupāḷi
(bộ Pháp Luận Đề)
- Yamakapāḷi
(bộ Pháp Song Đối)
- Paṭṭhānapāḷi
(bộ Pháp Duyên Hệ)

Trong 7 bộ này, đầu tiên bộ Paṭṭhānapāḷi (bộ Pháp Duyên Hệ), là bộ lớn nhất, vi tế sâu sắc nhất bị mai một trước, tiếp theo bộ Yamakapāḷi (bộ Pháp Song Đối), tuần tự bộ Kathāvatthupāḷi (bộ Pháp Luận Đề), bộ Puggalapaññattipāḷi (bộ Nhân Chế Định), bộ Dhātukathāpāḷi (bộ Pháp Phân Loại), bộ Vibhaṅgapāḷi (bộ Pháp Phân Tích), cuối cùng bộ Dhammasaṅganīpāḷi (bộ Pháp Tụ Hội).

Tạng Vi Diệu Pháp bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn còn Tạng Kinh và Tạng Luật là pháp học Phật giáo vẫn còn tồn tại.

Tiếp theo Tạng Kinh (Suttantapiṭakapāḷi) bị mai một, bị suy đồi.

Tạng Kinh có 5 bộ lớn:

- Dīghanikāyapāḷi (Trường Bộ Kinh)
- Majjhimanikāyapāḷi
(Trung Bộ Kinh)
- Samyuttanikāyapāḷi
(Đồng Loại Bộ Kinh)
- Aṅguttaranikāyapāḷi
(Chi Bộ Kinh)
- Khuddakanikāyapāḷi
(Tiểu Bộ Kinh)

Trong 5 bộ này, đầu tiên Aṅguttaranikāyapāḷi (Chi Bộ Kinh) bị mai một trước. Chi Bộ Kinh gồm có 11 phần, gồm những bài kinh (bài pháp) 1 chi, 2 chi v.v... cho đến những bài kinh có 11 chi. Đầu tiên, những bài kinh có 11 chi bị mai một trước, tiếp theo những bài kinh có 10 chi và tuần tự những bài kinh có 9 chi, có 8 chi, có 7 chi, có 6 chi, có 5 chi, có 4 chi, có 3 chi, có 2 chi, cuối cùng những bài pháp 1 chi bị mai một hoàn toàn.

Chi Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

Tiếp theo Saṃyuttanikāyapāḷi (Đồng Loại Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi.

Đồng loại Bộ Kinh có 5 phần:

- Sagāthavaggasamyuttapāḷi
- Nidānavaggasamyuttapāḷi
- Khaṇdhavaggasamyuttapāḷi
- Sāḷāyatanasamyuttapāḷi
- Mahāvaggasamyuttapāḷi

Trong 5 phần này, đầu tiên phần Mahāvaggasamyuttapāḷi bị mai một trước, tiếp theo phần Sāḷāyatanasamyuttapāḷi, tuần tự phần Khaṇdhavaggasamyuttapāḷi, phần Nidānavaggasamyuttapāḷi, và cuối cùng phần Sagāthavaggasamyuttapāḷi, bị mai một hoàn toàn.

Đồng Loại Bộ Kinh bị suy đồi, bị mai một hoàn toàn.

Tiếp theo Majjhimanikāyapāḷi (Trung Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi.

Trung Bộ Kinh có 3 phần:

- Mūlapaṇṇāsapāḷi
- Majjhimapaṇṇāsapāḷi
- Uparipaṇṇāsapāḷi

Trong 3 phần này, đầu tiên phần Uparipaṇṇāsapāḷi bị mai một trước, tiếp theo phần Majjhimapaṇṇāsapāḷicuối cùng phần Mūlapaṇṇāsapāḷi bị mai một hoàn toàn.

Trung Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

Tiếp theo Dīghanikāyapāḷi (Trường Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi.

Trường Bộ Kinh có 3 phần:

- Sīlakkhandhavaggapāḷi
- Mahāvaggapāḷi
- Pāthikavaggapāḷi

Trong 3 phần này, đầu tiên phần Pāthikavaggapāḷi. bị mai một, bị suy đồi, tiếp đến phần Mahāvaggapāḷicuối cùng phần Sīlakkhandhavaggapāḷi bị mai một hoàn toàn.

Trường Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

Tiếp theo Khuddakanikāyapāḷi (Tiểu Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

Cuối cùng Tạng Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, còn Tạng Luật là pháp học Phật giáo vẫn tồn tại.

Tạng Luật (Vinayapitākapāḷi) bị mai một, bị suy đồi.

Tạng Luật có 5 bộ:

- Bộ Pārājikapāḷi
- Bộ Pācittiyapāḷi
- Bộ Mahāvaggapāḷi
- Bộ Cūḷavaggapāḷi

- Bộ Parivārapāḷi

Trong Tạng Luật có 5 bộ, đầu tiên bộ Parivārapāḷi bị mai một trước, tiếp theo bộ Cūḷavaggapāḷi tuần tự đến bộ Mahāvaggapāḷi, bộ Pācittiyapāḷicuối cùng bộ Pārājikapāḷi bị mai một, song chỉ còn Uposathakkhan-dhaka là pháp học Phật giáo vẫn chưa bị mai một. Về sau, Uposathakkhandhaka bị mai một, cuối cùng không còn một ai thuộc lòng được bài kệ gồm có 4 câu. Khi ấy, pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

Tóm lại, pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp thành Phật giáo trong 3 loại Phật giáo này, pháp học Phật giáo là nguồn gốc, là nền tảng căn bản của pháp hànhpháp thành Phật giáo.

Thật vậy, nếu học pháp học hiểu biết đúng đắn, kỹ càng, thì khi hành pháp hành mới đúng đắn được; nếu hành pháp hành đúng, thì pháp thành mới phát sinh, dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Ngược lại, nếu học pháp học mà hiểu sai, thì khi hành pháp hành sai, nếu hành pháp hành sai, thì pháp thành không phát sinh, không thể giải thoát khổ sinh, mà vẫn tiếp tục chịu khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Pháp học Phật giáo gồm có Tam TạngChú giải Pāḷi lời giáo huấn của Đức Phật. Tam Tạng: Tạng Luật, Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu Pháp; trong 3 tạng ấy Tạng Luật là nền tảng căn bản của Phật giáo, cũng là tuổi thọ của Phật giáo.

Thật vậy, dù Tạng Vi Diệu PhápTạng Kinh bị mai một hoàn toàn, chỉ còn có Tạng Luật, Phật giáo vẫn còn tồn tại. Trong Tạng Luật phần Uposathakkhandhaka liên quan đến hành Tăng sự, Uposatha tụng đọc, Bhikkhupāṭīmokkha tụng điều giới của Tỳ-khưu... là quan trọng. Chư Tỳ-khưu còn hành tăng sự, còn tụng đọc Bhikkhupāṭimokkhisīla hằng tháng vào ngày rằm và ngày cuối tháng, là Phật giáo vẫn còn tồn tại trên cõi người này.

Trong kỳ kết tập Tam TạngChú giải Pāḷi lần thứ nhất, phần đầu Nidāna dạy rằng:

Vinayo nāma Buddhasāsanassa āyu
Vinaye ṭhite, sāsanaṃ ṭhitaṃ hotu
.

Tạng Luật là tuổi thọ Phật giáo
Khi Tạng Luật còn được trường tồn
Thì Phật giáo còn được trường tồn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12247)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11014)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10902)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13346)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11770)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13652)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11885)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11156)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12165)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12378)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20562)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12396)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12430)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11697)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11563)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22386)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13546)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29621)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11532)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16706)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11978)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16811)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12053)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17903)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12617)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13141)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14727)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22583)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10566)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14029)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13863)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13694)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13840)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13903)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14812)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13830)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18399)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22777)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15381)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17300)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22393)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14238)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12559)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11143)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17744)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13184)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13087)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18777)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17164)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13485)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12890)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14690)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14635)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15839)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13491)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27407)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13211)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16671)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21364)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant