Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

28. Đức Tăng

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6730)
28. Đức Tăng

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


ĐỨC TĂNG (SAṂGHA) 

Danh từ “Tăng” là dịch âm từ tiếng Pāḷi “Saṃgha”.

Saṃgha: Chư Tăng nghĩa là đoàn thể.

Trong câu: Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn.

Hoặc danh từ ghép: Bhikkhusaṃgha: Chư Tỳ-khưu Tăng...,

SAṂGHA: CHƯ TĂNG

Chư Tăng có 2 hạng:

- Chư Thánh Tăng: Ariyasaṃgha

- Chư phàm Tăng: Puthujjanasaṃgha

Thế nào gọi là chư Thánh Tăng?

Chư Tỳ-khưu Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, rồi hành theo pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhân. Do đó, gọi chư Thánh Tăng (Ariyasaṃgha).

Chư Thánh Tăng có 4 đôi, thành 8 bậc tính theo tâm Siêu tam giới.

Bậc Thánh Tăng có 4 đôi

Thánh ĐạoThánh Quả tương xứng:

Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả

Nhất Lai Thánh ĐạoNhất Lai Thánh Quả

Bất Lai Thánh ĐạoBất Lai Thánh Quả

Arahán Thánh ĐạoArahán Thánh Quả

8 bậc Thánh Tăng

4 Thánh Đạo và 4 Thánh Quả:

Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo
Bậc Nhất Lai Thánh Đạo
Bậc Bất Lai Thánh Đạo
Bậc Arahán Thánh Đạo

Bậc Nhập Lưu Thánh Quả
Bậc Nhất Lai Thánh Quả
Bậc Bất Lai Thánh Quả
Bậc Arahán Thánh Quả

Bốn bậc Thánh Nhân

Trong Phật giáo, chư Thánh Tăng tính theo nhân vật có 4 bậc Thánh Nhân:

Bậc Thánh Nhập Lưu
Bậc Thánh Nhất Lai
Bậc Thánh Bất Lai
Bậc Thánh Arahán

Được trở thành bậc Thánh Thanh Văn trong Phật giáo, hành giả cần phải có đầy đủ hai điều kiện:

- Những tiền kiếp trong quá khứ, hành giả đã từng tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật đầy đủ hoàn toàn.

- Kiếp hiện tại, hành giả có duyên lành đến hầu gặp được Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc gặp được bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái, ác pháp... mới trở thành bậc Thánh Thanh Văn, theo tuần tự từ bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai đến bậc Thánh Arahán cao thượng nhất như sau:

Hàng thiện trí phàm nhân tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiếnhoài nghi, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, mới là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo.

Bậc Thánh Nhập Lưu tiếp tục tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não sân loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất Lai, là bậc Thánh thứ nhì trong Phật giáo.

Bậc Thánh Nhất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não sân loại vi tế, trở thành bậc Thánh Bất Lai, là bậc Thánh thứ ba trong Phật giáo.

Bậc Thánh Bất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi phiền não còn lại là tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi; mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Arahán, là bậc Thánh thứ tư cao thượng trong Phật giáo.

Quả báu của bậc Thánh Nhân

Theo lẽ tự nhiên tất cả mọi chúng sinh là những phàm nhân còn phiền não, tham ái là còn tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài từ vô thuỷ đến vô chung. Song chư bậc Thánh Nhân đã diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái rồi, thì sự tử sinh luân hồi trong tam giới được hạn chế lại tùy theo mỗi bậc Thánh Nhân.

1. Quả báu của bậc Thánh Nhập Lưu

Bậc Thánh Nhập Lưu là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được 4 tâm tham hợp tà kiến tâm si hợp hoài nghi, kể từ kiếp hiện tại cho đến kiếp vị lai, 4 tâm tham hợp tà kiến tâm si hợp hoài nghi vĩnh viễn không còn có trong tâm của bậc Thánh Nhập Lưu nữa. Bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn giải thoát khổ khỏi tà kiếnhoài nghi ở kiếp hiện tại và kiếp vị laihoàn toàn giải thoát cảnh khổ tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh.

* Bậc Thánh Nhập Lưu có 3 hạng

- Sattakkhattuparamasotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu 5 pháp chủnăng lực yếu, còn phải tái sinh làm người hoặc làm chư thiên cõi trời dục giới nhiều nhất 7 kiếp nữa. Đến kiếp thứ 7, thì chắc chắn sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới.

- Kolaṃkolasotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu 5 pháp chủ năng lực trung bình, nên còn phải tái sinh làm người hoặc làm chư thiên từ 2-3-5 kiếp nữa, mới có thể chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới.

- Ekabījīsotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu5 pháp chủ năng lực mạnh, nên chỉ còn tái sinh làm người hoặc làm chư thiên 1 kiếp nữa. Ngay trong kiếp ấy, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới.

* Bậc Thánh Nhập Lưu tái sinh hơn 7 kiếp

Trường hợp ngoại lệ, có 7 vị Thánh Nhập Lưu tái sinh hơn 7 kiếp như sau:

Phú hộ Anāthapiṇḍika
Bà Visākhā mahā upāsikā
Chư thiên Cullaratha
Chư thiên Mahāratha
Chư thiên Anekavaṇṇa
Chư thiên Nāgadatta
Đức vua trời Sakka

Bảy vị Thánh Nhập Lưu này có phát nguyện, muốn hưởng sự an lạc trong các cõi trời từ dục giới đến các cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh: Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭha), mới chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi ngay trong cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh ấy.

2. Quả báu của bậc Thánh Nhất Lai

Bậc Thánh Nhất Lai là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được tâm sân loại thô. Trong kiếp hiện tại, bậc Thánh Nhất Lai không còn khổ do bởi tâm sân loại thô nữa. Bậc Thánh Nhất Lai chỉ còn tái sinh làm người hoặc làm chư thiên 1 kiếp nữa. Ngay trong kiếp ấy sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới.

3. Quả báu của bậc Thánh Bất Lai

Bậc Thánh Bất Lai là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được tâm tham không hợp tà kiến cõi dục giới tâm sân loại vi tế. Trong kiếp hiện tại, bậc Thánh Bất Lai không còn khổ do bởi tâm tham trong cõi dục giới và tâm sân nữa. Bậc Thánh Bất Lai không còn tái sinh trở lại cõi dục giới, chỉ tái sinh lên cõi sắc giới. Nếu chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới, thì sẽ tái sinh lên tầng trời sắc giới Tịnh Cư Thiên.

* Bậc Thánh Bất Lai có 5 hạng

- Antarāparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai chưa đến một nửa tuổi thọ của cõi sắc giới phạm thiên ấy, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn tại cõi sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.

- Upahaccaparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai quá một nửa tuổi thọ của cõi sắc giới phạm thiên ấy, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn tại cõi sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.

- Asaṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai không cần phải tinh tấn nhiều, cũng chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, tại cõi sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.

- Saṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai cần phải tinh tấn nhiều, mới chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, tại cõi sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.

- Uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmī: Bậc Thánh Bất Lai khi hết tuổi thọ trong cõi trời sắc giới tầng thấp, tuần tự tái sinh từng trời sắc giới tầng cao, cho đến tầng trời sắc giới Akaniṭṭha tột đỉnh, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, tại cõi trời sắc giới Akaniṭṭha ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.

4. Quả báu của bậc Thánh Arahán

Bậc Thánh Arahán là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn tất cả mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp không còn dư sót. Trong kiếp hiện tại bậc Thánh Arahán hoàn toàn không còn khổ tâm do bởi phiền não, chỉ còn khổ thân do quả của nghiệp mà thôi. Ngay kiếp hiện tại, bậc Thánh Arahán đến khi hết tuổi thọ, sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.

* Bậc Thánh Arahán có nhiều hạng:

- Bậc Thánh Arahán Tevijja: Bậc Thánh Arahán có Tam Minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, và Lậu tận minh.

- Bậc Thánh Arahán Chaḷabhiñña: Bậc Thánh Arahán có Lục thông: Thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thônglậu tận thông.

- Bậc Thánh Arahán Catupaṭisambhidappabheda: Bậc Thánh Arahán có Tứ Tuệ Phân Tích: Nghĩa (nhân) phân tích, pháp (quả) phân tích, ngôn ngữ phân tích và ứng đối phân tích.

- Bậc Thánh Arahán Ubhatobhāgavimutta: Bậc Thánh Arahán giải thoát bằng 2 pháp hành: Thiền định chứng đắc 4 bậc thiền vô sắc giới và thiền tuệ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả.

- Bậc Thánh Arahán Paññāvimutta: Bậc Thánh Arahán giải thoát bằng pháp hành thiền tuệ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả...

Các bậc Thánh Arahán có sự khác biệt nhau về trí tuệ, thần thông trong kiếp hiện tại; song đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn rồi, đều chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới, thì hoàn toàn không có sự khác biệt nhau nữa.

108 BẬC THÁNH

Trong bài kinh Ratanasutta, có bài kệ bắt đầu bằng câu:

Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasatthā...”.

(108 bậc Thánh Nhân mà chư bậc thiện trí đều tán dương ca tụng...).

Cách tính 108 bậc Thánh Nhân:

1- Thánh Đạo có 4 bậc, mỗi Thánh Đạo nhân với 2 phận sự thành 8 bậc Thánh Đạo.

2- Thánh Quả có 4 bậc, mỗi bậc Thánh Quả nhân với 4 pháp hành (paṭipadā), nhân với 2 phận sự (dhura) như sau:

Bậc Nhập Lưu Thánh Quả: Có 3 hạng nhân với 4 pháp hành, nhân với 2 phận sự thành 24 bậc Nhập Lưu Thánh Quả. (3 x 4 x 2 = 24)

Bậc Nhất Lai Thánh Quả: Có 3 hạng nhân với 4 pháp hành, nhân với 2 phận sự thành 24 bậc Nhất Lai Thánh Quả. (3 x 4 x 2 = 24)

Bậc Bất Lai Thánh Quả: Có 5 hạng nhân với 4 cõi Tịnh Cư Thiên bậc thấp rồi cộng với 4 bậc Bất Lai Thánh Quả cõi sắc cứu cánh thiên rồi nhân với 2 phận sự thành 48 bậc Bất Lai Thánh Quả. (5 x 4 + 4) x 2 = 48

Bậc Arahán Thánh Quả: Có 2 hạng nhân với 2 phận sự thành 4 bậc Thánh Arahán Thánh Quả. (2 x 2 = 4)

Tổng cộng 4 bậc Thánh Đạo và 4 bậc Thánh Quả theo cách tính trên gồm có: 8 + 24 + 24 + 48 + 4 = 108 bậc Thánh Nhân.

THỨ BẬC THÁNH NAM THANH VĂN GIÁC

Trong Phật giáo, bậc Thánh nam Thanh Văn Giác có 3 thứ bậc:

Bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường (Pakatisāvaka).
Bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác (Mahāsāvaka).
Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác (Aggasāvaka).

1- Bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường như thế nào?

Muốn trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường, vị Bồ Tát Thanh Văn Giác hạng thường ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật trong suốt khoảng thời gian dưới 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát ấy có duyên lành đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác đệ tử của Đức Phật; vị Bồ Tát ấy có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, lắng nghe chánh pháp rồi tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu; chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhất Lai; chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai; chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán. Mỗi bậc Thánh Nhân đã chứng đắc được Thánh Đạo - Thánh Quả nào hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực ba-la-mật của vị ấy đã tạo trong những tiền kiếp.

Đức Phật Gotama vô số bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường.

2- Bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác như thế nào?

Muốn trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác, vị Bồ Tát Đại Thanh Văn Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật trong suốt khoảng thời gian 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ tát ấy chắc chắn có duyên lành đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác, lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông... và đặc biệtđức hạnh nào xuất sắc nhất trong hàng Thanh Văn Giác đệ tử của Đức Phật. Đó gọi là bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác.

Trong dịp Đức Phật chủ trì tại hội chúng chư Thanh Văn Giác, Đức Phật tuyên dương vị Thánh Đại Thanh Văn Giác ấy về đức hạnh nào xuất sắc nhất trong các hàng Thanh Văn Giác đệ tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Đại Thanh Văn Giác ấy, đã phát nguyện và đã được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký.

Đức Phật Gotama có 80 vị Thánh Đại Thanh Văn Giác.

3- Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác như thế nào?

Muốn trở thành bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, vị Bồ Tát Tối Thượng Thanh Văn Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật trong suốt khoảng thời gian 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát ấy chắc chắn có duyên lành đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác, lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông... và đặc biệtđức hạnh, trí tuệ hoặc thần thông xuất sắc nhất trong các hàng Thanh Văn Giác đệ tử.

Trong dịp Đức Phật chủ trì cuộc Đại hội Thánh Tăng, Ngài tuyên dương vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác ấy giữa chư Thánh Thanh Giác Văn đệ tử của Đức Phật, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác ấy, đã phát nguyện và đã được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký.

Đức Phật Gotama có 2 vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác là:

- Ngài Đại đức Sāriputta có trí tuệ xuất sắc nhất trong hàng Thánh Thanh Văn Giác.

- Ngài Đại đức Māhāmoggallāna có thần thông xuất sắc nhất trong hàng Thánh Thanh Văn Giác.

THỨ BẬC THÁNH NỮ THANH VĂN GIÁC

Trong Phật giáo, bậc Thánh nữ Thanh Văn Giác có ba bậc:

Bậc Thánh nữ Thanh Văn Giác hạng thường (Pakatisāvikā).
Bậc Thánh nữ Đại Thanh Văn Giác
(Mahāsāvikā).
Bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn Giác
(Aggasāvikā).

Người cận sự nữ phát nguyện trở thành một trong ba bậc Thánh nữ Thanh Văn Giác này, cách tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật và sự phát nguyện cũng giống như những bậc Thánh nam Thanh Văn Giác.

Đức Phật Gotamavô số vị Thánh nữ Thanh Văn Giác hạng thường.

Đức Phật Gotama có số vị Thánh nữ Đại Thanh Văn Giác không rõ, nhưng điều chắc chắn có 13 Thánh nữ Arahán, mỗi vị có đức hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ Thanh Văn Giác đệ tử của Đức Phật.

Đức Phật Gotama có 2 vị Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn Giác là:

- Ngài Đại đức Tỳ-khưu ni Khemā là vị Thánh nữ Arahán Tối Thượng Thanh Văn Giáctrí tuệ đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ Thanh Văn.

- Ngài Đại đức Tỳ-khưu ni Uppalavaṇṇā là vị Thánh nữ Arahán Tối Thượng Thanh Văn Giácthần thông đặc biệt xuất sắc bậc nhất trong hàng Thánh nữ Thanh Văn Giác.

Vị Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn Giác bậc nào cũng đều do phát nguyện và đã được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký.

Thế nào gọi là chư phàm Tăng?

Chư Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, rồi đang hành theo pháp hành giới-định-tuệ, mà chưa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, vẫn còn là phàm nhân, do đó, gọi là chư phàm Tăng (Puthujjanasaṃgha).

Chư Tăng có hai hạng

- Paramatthasaṃgha: Chư Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng.
- Sammutisaṃgha
: Chư Tăng do chế định.

Chư Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng như thế nào?

Chư Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng, nghĩa là đã trở thành Thánh Nhân bậc cao, thì không bao giờ trở xuống Thánh Nhân bậc thấp, hoặc Thánh Nhân bậc thấp không bao giờ bị thoái hóa trở xuống thành hạng phàm nhân. Thật ra, chỉ có Thánh Nhân bậc thấp tiến hóa, chứng đắc thành Thánh Nhân bậc cao là bậc Arahán mà thôi.

Do đó, chư Thánh Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng.

Chư Tăng do chế định như thế nào?

Chư Tỳ-khưu này được thành tựu do chư Tăng làm lễ hành tăng sự nâng đỡ lên thành Tỳ-khưu. Vị Tỳ-khưu này vẫn còn là hạng phàm nhân, chưa phải Thánh Nhân. Chư Tỳ-khưu này hành giới giống như bậc Thánh Tăng và cũng hành tăng sự chung với bậc Thánh Tăng.

Nhóm Tỳ-khưu thuộc phàm Tăng này có thể tiến hóa trong pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo, tiến hành thiền tuệ để chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Nhân cao thượng. Và ngược lại, nhóm Tỳ-khưu phàm nhân này cũng có thể thoái hóa trong Phật giáo, hoàn tục trở lại đời sống người tại gia cư sĩ. Do đó, chư phàm Tăng do chế định khác với chư Thánh Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng.

CÁCH THỨC THỌ TỲ KHƯU

Trong Phật giáo, Đức Phật đã chế định ra 8 cách thức thọ Tỳ-khưu Upasampadā.

* Đối với Tỳ-khưu có 5 cách như sau:

- Ehi Bhikkhūpasampadā: Thọ Tỳ-khưu bằng cách Đức Phật gọi “Ehi Bhikkhu”.

- Saraṇagamanūpasampadā: Thọ Tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy y Tam Bảo.

- Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ Tỳ-khưu bằng cách thọ nhận lời giáo huấn của Đức Phật.

- Pañhābyākaraṇūpasampadā: Thọ Tỳ-khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi của Đức Phật.

- Ñatticatutthakammūpasampadā: Thọ Tỳ-khưu bằng cách tụng 1 lần Ñatti (Tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn).

* Đối với Tỳ-khưu ni có 3 cách như sau:

- Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ Tỳ-khưu ni bằng cách thọ nhận 8 trọng pháp.

- Dūtenūpasampadā: Thọ Tỳ-khưu ni bằng cách nhờ qua người đại diện.

- Aṭṭhavācikūpasampadā: Thọ Tỳ-khưu ni bằng cách hành tăng sự giữa chư Tăng phái: Tỳ-khưu ni Tăng trước, Tỳ-khưu Tăng sau, mỗi phái tụng một lần Ñatti và 3 lần Kammavācā, trở thành 8 lần tụng (aṭṭhavācika).

Giải Thích:

* THỌ TỲ KHƯU (BHIKKHU UPASAMPADĀ):

Đức Phật chế định ban hành phép xuất gia trở thành Tỳ-khưu có 5 cách:

1- Ehi Bhikkhūpasampadā như thế nào?

Người cận sự nam (hoặc đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo) sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, muốn thọ Tỳ-khưu; người cận sự nam ấy đến hầu Đức Phật, đảnh lễ xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu. Đức Phật dùng Phật nhãn quán xét đến tiền kiếp người cận sự nam ấy, và thấy rõ rằng: “Người cận sự nam ấy là người có ba-la-mật đầy đủ, nhất là hạnh bố thí ba-la-mật, đã từng bố thí 8 thứ vật dụng của Sa môn (tam y, quả bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc nước), và đã phát nguyện trở thành Ehi Bhikkhu”.

Do đó, khi Đức Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ truyền dạy rằng:

“Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya”.

“Con hãy đến với Như Lai! Con trở thành Tỳ-khưu theo ý nguyện! Chánh phápNhư Lai đã thuyết giảng hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối; con hãy nên cố gắng tinh tấn thực hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”.

Khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, người cận sự nam ấy (hoặc đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo) trở thành Tỳ-khưu, có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Sa môn, được thành tựu là do quả của phước thiện (thần thông) của mình, vị Tỳ-khưu có tăng tướng trang nghiêm, ngũ căn thanh tịnh, như một vị Tỳ-khưu 60 hạ.

Như vậy gọi là thọ Tỳ-khưu bằng cách gọi: Ehi Bhikkhūpasampadā.

Đại Đức Aññasi Koṇḍañña là vị đầu tiên thọ Tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu”, cũng là vị Tỳ-khưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, và tiếp theo tuần tự các Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma, Ngài Assaji cũng đều thọ Tỳ-khưu bằng cách gọi: “Ehi Bhikkhu”.

Chỉ có Đức Phật mới có khả năng cho phép giới tử thọ Tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” mà thôi. Ngoài ra, chư bậc Thánh Thanh Văn không có oai lực cho thọ Tỳ-khưu theo cách ấy.

Đức Phật Gotama cho phép giới tử thọ Tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” tất cả gồm có 28.647 vị Tỳ-khưu.

- Trong Luật Tạng có 1.344 vị như sau:

Nhóm Pañcavaggī: 5 vị
Đại Đức Yasa và bạn hữu: 56 vị
Nhóm Bhaddavaggī anh em và bạn hữu: 1.030 vị
Nhị vị Aggasāvaka và nhóm đệ tử: 252 vị
Đại Đức Aṅgulimāla: 1 vị

- Trong Kinh Tạng có 27.303 vị như sau:

Bàlamôn Sela và nhóm đệ tử: 301 vị
Đức vua Mahākappina và các quan cận thần: 1.001 vị
Dân thành Kapilavatthu: 10.000 vị
Bàlamôn Pārāyanika và nhóm đệ tử: 16.001 vị

Gồm có tất cả 28.647 vị Tỳ-khưu Ehi Bhikkhu.

2- Saraṇagamanūpasampadā như thế nào?

Chư bậc Thánh Tăng(mỗi vị một con đường) đi khắp nơi thuyết pháp để tế độ chúng sinh, nếu có người cận sự nam nào có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, có ý nguyện muốn thọ Tỳ-khưu, thì Đức Phật cho phép chư bậc Thánh Tăng rằng:

“Anujānāmi bhikkhave, imehi tīhi saraṇagamanehi pabbajjaṃ upasampadaṃ”.

Này chư Tỳ-khưu, Như Lai cho phép thọ Sadi, Tỳ-khưu bằng cách cho thọ phép quy y Tam Bảo.

Giới tử thọ Sadi, Tỳ-khưu trước tiên phải cạo tóc, râu, mặc y cà sa màu lõi mít, để chừa vai bên phải, ngồi chồm hổm, chắp 2 tay để trên trán xin thọ phép quy y Tam Bảo: “Quy y Phật Bảo, Quy y Pháp Bảo, Quy y Tăng Bảo”, bằng tiếng Pāḷi, đọc theo vị Thầy tế độ như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Dutiyampi, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi, Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi, Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Tatiyampi, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi, Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi, Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Khi người giới tử nào thọ phép quy y Tam Bảo xong, người giới tử ấy trở thành Tỳ-khưu.

Đó gọi là thọ Tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy y Tam Bảo.

3- Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào?

Đức Phật giáo huấn Đại Đức Mahākassapa 3 điều rằng:

- “Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: trước tiên con nên có tâm hổ thẹn tội lỗighê sợ tội lỗi đối với vị cao hạ, vị bằng hạ, vị nhỏ hạ.

- Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: con nên lắng nghe chánh pháp, nên cung kính mọi chánh pháp ấy, ghi nhớ đầy đủ mọi chánh pháp ấy.

- Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: con nên tiến hành đề mục niệm thân”.

Khi Đại Đức Mahākassapa thọ nhận 3 điều giáo huấn của Đức Phật, chính là sự thành tựu thọ Tỳ-khưu của Ngài.

Đó gọi là trường hợp thọ Tỳ-khưu bằng cách thọ nhận lời giáo huấn của Đức Phật.

Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho Ngài Đại Đức Mahākassapa mà thôi.

4- Pañhābyākaraṇūpasampadā như thế nào?

Tại chùa Pubbārāma, Đức Phật đang ngự đi kinh hành, khi ấy Sadi tên là Sopāka đến hầu Đức Phật. Đức Phật bèn hỏi Sadi Sopāka câu hỏi liên quan đến đề mục asubha “bất tịnh” rằng:

“Uddhamātakasaññā’ti vā Sopāka, rūpasaññā’ti vā ime dhammā nānatthā nānā byañjanā, udahu ekatthā byañjanameva nānā...”

“Này Sopāka, niệm tưởng tử thi 2-3 ngày sình lên hoặc niệm tưởng sắc pháp, hai pháp này nghĩa khác nhau, danh từ gọi khác nhau? Hay nghĩa giống nhau, danh từ gọi khác nhau?”.

Vị Sadi Sopāka mới lên 7 tuổi, bạch với Đức Phật rằng:

“Uddhamātakasaññā’ti vā Bhagavā rūpasaññā’ti vā ime dhammā ekatthā byañjanameva nānā....”

“Kính bạch Đức Thế Tôn, niệm tưởng tử thi 2-3 ngày sình lên hoặc niệm tưởng sắc pháp, nghĩa giống nhau, chỉ có danh từ gọi khác nhau. Bạch Ngài”.

Đức Phật hài lòng câu trả lời của Sadi Sopāka, nên Ngài cho phép Sadi Sopāka trở thành Tỳ-khưu.

Đó gọi là thọ Tỳ-khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi của Đức Phật.

Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho vị Sopāka mà thôi.

5- Ñatticatutthakammūpasampadā như thế nào?

Giáo pháp của Đức Phật càng ngày càng phát triển, Tỳ-khưu càng ngày càng đông. Cho nên, Đức Phật bỏ cách thọ Tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy y Tam Bảo rằng:

“Yā sā bhikkhave, mayā tīhi saraṇagamanehi upasampadā anuññatā, taṃ ajjatagge paṭikkhipāmi.
Anujānāmi bhikkhave, ñatticatutthena kammena upasampādetuṃ”
.

“Này chư Tỳ-khưu, Như Lai đã cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách thọ Tam quy, kể từ nay về sau, Như Lai bỏ cách thọ Tỳ-khưu ấy.

Này chư Tỳ-khưu, Như Lai cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách tụng một lần Ñatti (Tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), gọi là ñatticatuttha- kammavācā”.

Cách thọ Tỳ-khưu này bắt đầu từ Đại đức Rādha và được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.

Hiện nay, trong các nước Phật giáo theo truyền thống Theravāda, như các nước Tích Lan (Srilankā), nước Miến Điện (Myanmar), nước Thái Lan, nước Campuchia, nước Lào Phật giáo Nguyên Thuỷ Theravāda Việt Nam... mặc dầu mỗi nước có ngôn ngữ khác nhau, song tất cả đều căn cứ theo Tạng Luật Pāḷi làm cơ bản. Cho nên các nước Phật giáo Theravàda vẫn cố gắng giữ gìn, duy trì y nguyên theo truyền thống thọ Sadi theo cách thọ phép quy y Tam Bảo bằng tiếng Pāḷi, vị Thầy tế độ hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảo, giới tử thọ phép quy y Tam Bảo, cả hai bên đều phải phát âm từng chữ, từng câu, đúng theo văn phạm Pāḷi gọi là “Ubhato suddhi”.

nghi thức thọ Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu Tăng từ 5 vị trở lên hội họp tại nơi Sīmā. Có 2 hoặc 3 vị Tỳ-khưu luật sư tụng ñatticatutthakammavācā: Tụng một lần Ñatti (Tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), phải phát âm từng chữ, từng câu đúng theo văn phạm Pāḷi.

Đó gọi là thọ Tỳ-khưu bằng cách tụng ñatticatutthakammavācā.

Ngoài cách thọ Tỳ-khưu này ra, còn lại tất cả mọi cách hành Tăng sự (Saṃghakamma) khác, chư Tỳ-khưu Tăng hội họp tại Sīmā cũng tụng ñattikammavācā bằng tiếng Pāḷi, hầu như giống hệt nhau, kể cả tụng những bài kinh Parittapāḷi nữa.

Đây là đặc tính của các nước Phật giáo theo truyền thống Theravāda, bởi vì các nước này đều căn cứ y theo Tam Tạng Pāḷi làm nền tảng cơ bản chính.

THỌ TỲ KHƯU NI (BHIKKHUNĪ UPASAMPADĀ)

Đức Phật chế định ban hành phép thọ Tỳ-khưu ni có 3 cách:

1- Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào?

Thời kỳ Đức Phật ngự tại tịnh xá trong khu rừng lớn thuộc xứ Vesalī,Mahāpajā-patigotamī cùng nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya đứng trước cổng Tịnh xá buồn tủi khóc than, vì Đức Phật không cho phép phái nữ thọ Tỳ-khưu ni.

Đại Đức Ānanda nhìn thấy tình cảnh thật đáng thương như vậy, nên Ngài vào xin với Đức Phật cho phép phái nữ được thọ Tỳ-khưu ni. Đức Phật truyền dạy: “Nếu dì mẫu Mahāpajāpatigotamī chấp thuận thọ nhận 8 trọng pháp (garudhamma), thì đó là sự thọ Tỳ-khưu ni, của dì mẫu”.

Mahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận, thọ nhận 8 trọng pháp mà Đức Phật đã chế định ban hành.

Đó là thọ Tỳ-khưu ni bằng cách thọ nhận 8 trọng pháp.

Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho Mahāpajāpatigotamī mà thôi. Đại Đức Tỳ-khưu ni Mahāpajāpatigotamī là vị Tỳ-khưu ni đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

2- Dūtenūpasampadā như thế nào?

Trường hợpAḍḍhakāsī, trước khi thọ Tỳ-khưu ni, cô là một kỹ nữ nổi tiếng. Nay nữ giới tử Aḍḍhakāsī đã thọ Tỳ-khưu ni giữa Tỳ-khưu ni Tăng rồi, nữ giới tử Aḍḍhakāsī chuẩn bị lên đường đi đến kinh thành Sāvatthi để hầu Đức Phật và xin thọ phép thọ Tỳ-khưu ni giữa Tỳ-khưu Tăng. Cô hay tin có một nhóm trai trẻ ăn chơi sẽ đón đường bắt cô. Do đó, cô không dám đi đến hầu Đức Phật, cô nhờ một người đại diện đến bạch với Đức Phật về sự khó khăn, trở ngại của cô trong việc đến xin phép thọ Tỳ-khưu ni giữa Tỳ-khưu Tăng. Đức Phật biết như vậy, nên đặc biệt cho phép cô rằng:

“Anujānāmi bhikkhave, dūtena pi upasampadetuṃ”.

“Này chư Tỳ-khưu, Như Lai cho phép nữ giới tử Aḍḍhakāsī thọ Tỳ-khưu ni bằng cách nhờ qua người đại diện”.

Đó gọi là thọ Tỳ-khưu ni bằng cách nhờ qua người đại diện.

Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho nữ giới tử Aḍḍhakāsī mà thôi.

3- Aṭṭhavācīkūpasampadā như thế nào?

Trước khi thọ Tỳ-khưu ni, giới tửSikkhāmānā được tu tập giữ gìn 6 giới hoàn toàn trong sạch và tròn đủ suốt 2 năm (nếu phạm giới nào, phải bắt đầu trở lại). Khi giới tử Sikkhāmānā đủ 2 năm rồi, được phép thọ giới Tỳ-khưu ni, gồm 2 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất: Chư Tỳ-khưu ni Tăng hội họp tại nơi Sīmā (ranh giới Sīmā), vị Tỳ-khưu ni luật sư tụng một lần Ñatti (Tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), gọi là ñatticatutthakammavācā.

Giai đoạn thứ hai: Giới tử Tỳ-khưu ni ấy đến trình chư Tỳ-khưu Tăng hội họp tại nơi Sīmā, vị Tỳ-khưu luật sư tụng 1 lần Ñatti (Tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), gọi là ñatticatutthakammavācā.

Như vậy, sự thọ Tỳ-khưu ni phải hành Tăng sự giữa chư Tăng 2 phái: Chư Tỳ-khưu ni Tăng và chư Tỳ-khưu Tăng, mỗi phái đều tụng ñatticatutthakammavācā, gồm đủ 8 lần, gọi là Aṭṭhavācīkūpasampadā.

Cách thọ Tỳ-khưu ni này áp dụng chung cho tất cả Tỳ-khưu ni.

Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế, bà Mahāpajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya đến xin Đức Phật thọ Tỳ-khưu ni. Đặc biệtMahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận thọ nhận 8 trọng pháp của Đức Phật đã ban hành, đó là sự thọ Tỳ-khưu ni của bà Mahāpajāpatigotamī. Còn nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya, Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu ni chỉ có chư Tỳ-khưu Tăng tụng 1 lần Ñatti (Tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), gọi là ñatticatutthakammavācā, bởi vì, khi ấy chưa có Tỳ-khưu ni Tăng. Tất cả nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya trở thành Tỳ-khưu ni.

Kể từ đó về sau, nghi thức thọ Tỳ-khưu ni giữa chư Tăng 2 phái: Chư Tỳ-khưu ni Tăng và chư Tỳ-khưu Tăng, mỗi phái tụng ñatticatutthakammavācā, gồm đủ 8 lần.

Do đó, gọi là Aṭṭhavācīkūpasampadā.

Tám trọng pháp là:

1) Dầu Tỳ-khưu ni có 100 hạ, cũng phải đứng dậy đón tiếp, chắp tay cung kính đảnh lễ Tỳ-khưu vừa mới thọ Tỳ-khưu trong ngày hôm ấy.

Đó là điều mà Tỳ-khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

2) Tỳ-khưu ni không nên an cư nhập hạ nơi chùa không có Tỳ-khưu Tăng.

Đó là điều mà Tỳ-khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

3) Tỳ-khưu ni luôn luôn quan tâm 2 điều:

- Hỏi ngày Uposatha: ngày lễ tụng giới bổn.

- Nghe lời giáo huấn của Tỳ-khưu Tăng hằng nửa tháng một lần.

Đó là điều mà Tỳ-khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

4) Tỳ-khưu ni sau khi an cư nhập hạ xong, phải làm lễ Pavāraṇā: thỉnh mời giữa chư Tăng 2 phái “Tỳ-khưu ni Tăng và Tỳ-khưu Tăng”.

Đó là điều mà Tỳ-khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

5) Tỳ-khưu ni phạm tội nặng (saṃghādisesa), phải bị hành phạt mānatta suốt 15 ngày giữa chư Tăng 2 phái “Tỳ-khưu ni Tăng và Tỳ-khưu Tăng”.

Đó là điều mà Tỳ-khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

6) Giới tửSikkhāmānāđã thực tập 6 giới trong sạch và đầy đủ suốt 2 năm, rồi mới được làm lễ thọ Tỳ-khưu ni giữa chư Tăng 2 phái “Tỳ-khưu ni Tăng trước và Tỳ-khưu Tăng sau”.

Đó là điều mà Tỳ-khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

7) Tỳ-khưu ni không được chửi rủa mắng nhiếc Tỳ-khưu Tăng trong bất cứ trường hợp nào.

Đó là điều mà Tỳ-khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

8) Sau khi thọ Tỳ-khưu ni rồi, cấm dạy Tỳ-khưu Tăng, chỉ có Tỳ-khưu dạy Tỳ-khưu ni mà thôi.

Đó là điều mà Tỳ-khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

Tỳ-khưu đầu tiên và cuối cùng của Đức Phật

Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ngài thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ suốt 45 hạ (năm: vassa).

Vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch), Đức Phật thuyết pháp bài kinh Chuyển Pháp Luân đầu tiên, tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu có Ngài Koṇḍanna trưởng nhóm. Sau khi lắng nghe bài kinh này xong, chỉ có Ngài Koṇḍanna là vị đầu tiên chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu (Sotapanna) đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Ngài Koṇḍanna xin Đức Phật cho phép thọ Sadi-Tỳ-khưu.

Đức Phật cho phép Ngài Đại đức Koṇḍanna thọ Tỳ-khưu theo cách thức gọi “Ehi Bhikkhu!... khi Đức Phật vừa dứt lời, Ngài Đại đức Koṇḍanna trở thành Tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Tỳ-khưu, có tăng tướng trang nghiêm, ngũ căn thanh tịnh như một vị Tỳ-khưu có 60 hạ.

Như vậy, Ngài Đại đức Koṇḍanna là vị Tỳ-khưu Thánh Tăng đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama; đồng thời Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo đầy đủ trọn vẹn xuất hiện trên thế gian.

Từ đó, Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh suốt 45 năm, đến ngày rằm tháng tư (âm lịch), tại khu rừng Kusinārā, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, có vị Đạongoại đạo Subhadda đến hầu Đức Phật, xin phép hỏi những điều thắc mắc mà chưa tìm gặp một vị Đạo sư nào có thể giải đáp làm cho ông thỏa mãn được.

Đức Phật biết rõ vị ĐạoSubhadda này có duyên lành với Ngài, chỉ có Ngài mới tế độ Đạo sĩ Subhadda được, nên Ngài đến khu rừng Kusinārā này để tịch diệt Niết Bàn, chờ tế độ Đạo sĩ Subhadda người đệ tử cuối cùng của Ngài.

Vị ĐạoSubhadda bạch hỏi những điều hoài nghi, nhưng Đức Phật không trực tiếp giải đáp câu hỏi, mà Ngài thuyết giảng trong giáo pháp của Ngài, có pháp hành bát chánh đạo hợp đủ 8 chánh, nên mới có bậc Thánh thứ nhất mới là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh thứ nhì là bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh thứ ba là bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh thứ tư là bậc Thánh Arahán cao thượng nhất. Đạo sĩ Subhadda lắng nghe phát sinh đức tin trong sạch trong giáo pháp của Đức Phật, xin Đức Phật cho phép thọ Sadi - Tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức Phật.

Sau khi trở thành Tỳ-khưu không lâu, vị Tỳ-khưu Subhadda tiến hành thiền tuệ liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.

Như vậy, Ngài Đại đức Subhadda là vị Tỳ-khưu cũng là bậc Thánh Arahán cuối cùng của Đức Phật Gotama.

* Đức Tăng có hai hạng hiện hữu

- Thánh Tăng (Ariyasaṃgha) - Phàm Tăng (Puthujjanasaṃgha)

1- Thánh Tăng là thế nào?

Thánh Tăng (Ariyasaṃgha) gồm có nhiều Tỳ-khưu Thánh Nhân (Ariyabhikkhu), đã diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái, ác pháp... tùy theo khả năng Thánh Đạo Tuệ của mỗi bậc Thánh Nhân.

Tỳ-khưu Thánh Nhân có 4 bậc

Tỳ-khưu Thánh Nhập Lưu mới là bậc Thánh thứ nhất đã diệt đoạn tuyệt được hai loại phiền não: tà kiến, hoài nghi, và các pháp khác liên quan đến tà kiếnhoài nghi.

Tỳ-khưu Thánh Nhất Lai là bậc Thánh thứ nhì đã diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não sân loại thô và các ác pháp khác liên quan đến tâm sân loại thô.

Tỳ-khưu Thánh Bất Lai là bậc Thánh thứ ba đã diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não sân loại vi tế và các ác pháp khác liên quan đến tâm sân loại vi tế.

Tỳ-khưu Thánh Arahán là bậc Thánh thứ tư đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi phiền não còn lại là tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi; tất cả mọi tham ái và tất cả mọi ác pháp không còn dư sót.

2- Phàm Tăng là thế nào?

Phàm Tăng (Puthujjanasaṃgha) gồm có nhiều Tỳ-khưu phàm nhân (puthujjana) từ 4 - 5 vị trở lên, chưa diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái, ác pháp nào.

Phàm nhân có hai hạng:

Andhaputhujjana: Phàm nhân tối trí là người không có trí tuệ, không học hỏi nghiên cứu các pháp học như tứ niệm xứ, Tứ Thánh Đế, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới v.v...

Kalyāṇaputhujjana: Phàm nhân sáng trí, là người có trí tuệ sáng suốt học hỏi nghiên cứu các pháp học như Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Đế, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới v.v...

Khả năng bậc Thánh Nhân

Chư bậc Thánh Nhân đã chứng đắc bậc Thánh bằng nhau, có khả năng biết lẫn nhau, qua cuộc đàm đạo với nhau, hoặc bằng tha tâm thông của bậc Thánh Nhân.

Chư Thánh bậc thấp không có khả năng biết chư Thánh bậc cao, mà chỉ có chư Thánh bậc cao có khả năng biết chư Thánh bậc thấp mà thôi.

Tất cả mọi hạng phàm nhân hoàn toàn không có khả năng biết đến chư Thánh Nhân; bởi vì, muốn biết chư Thánh Nhân phải biết bằng tuệ nhãn (paññācakkhu), không phải thấy bằng mắt thường (maṃsacakkhu) hoặc trí tuệ của hạng phàm nhân.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12247)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11014)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10904)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13349)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11772)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13652)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11887)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11156)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12172)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12380)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20565)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12398)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12434)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11699)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11565)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22387)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13550)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29622)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11536)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16706)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11981)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16815)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12054)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17904)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12618)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13141)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14736)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22592)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10567)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14033)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13865)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13696)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13843)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13904)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14813)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13832)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18400)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22778)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15382)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17302)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22395)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14241)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12563)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11144)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17747)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13187)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13088)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18777)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17165)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13485)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12892)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14691)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14637)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15841)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13496)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27409)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13211)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16673)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21368)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant