Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

30. Xá Lợi Đức Phật Niết-bàn

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7891)
30. Xá Lợi Đức Phật Niết-bàn

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


XÁ LỢI PHẬT NIẾT BÀN (DHĀTUPARINIBBĀNA)

Đức Phật Gotama có ba loại Niết Bàn:

Kilesaparinibbāna: Phiền não Niết Bàn.
Khandhaparinibbāna
: Ngũ uẩn Niết Bàn.
Dhātuparinibbāna
: Xá lợi Phật Niết Bàn.

Parinibbāna: Có nghĩa là “tịch diệt” khi tịch diệt rồi không còn duyên (paccaya) phát sinh gọi là parinibbāna, cũng gọi là Nibbāna.

Theo thông thường pháp hữu vi này do 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết và vật thực cấu tạo, cho nên khi diệt rồi còn có duyên (paccaya) phát sinh pháp hữu vi khác liên tục không ngừng, từ đời này sang đời khác. Song Niết Bàn thuộc về pháp vô vi, không do bởi một nhân duyên nào cấu tạo, cho nên khi diệt rồi không còn duyên nào để phát sinh nữa.

Đức Bồ Tát Siddhattha đạt đến Phiền não Niết Bàn tại Đại cội Bồ đề trong khu rừng Uruvela (nay gọi là Buddhagayā) vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch) trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, lúc ấy Ngài tròn đúng 35 tuổi.

Trải qua 45 năm sau, khi Đức Phật tịch diệt Ngũ uẩn Niết Bàn tại khu rừng Kusinārā vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), lúc ấy Ngài tròn đúng 80 tuổi.

Trong thời vị lai, khi Phật giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn trên cõi người này. Khi ấy, sẽ có Xá lợi Phật Niết Bàn.

Xá lợi Phật Niết Bàn như thế nào?

Xá lợi Đức Phật Niết Bàn nghĩa là tất cả mọi Xá lợi cỡ lớn - nhỏ của Đức Phật Gotama tịch diệt Niết Bàn, không còn dư sót lại trong toàn cõi thế giới chúng sinh.

Chư Phật Chánh Đẳng Giác mới có Xá lợi Phật Niết Bàn, còn chư Phật Độc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác có Phiền não Niết BànNgũ uẩn Niết Bàn, mà không có Xá lợi Phật Niết Bàn.

Do năng lực phát nguyện của Đức Phật Gotama, đến khi Phật giáo bị mai một, bị suy đồi, hoàn toàn biến mất trên cõi người này, loài người không còn biết lễ bái cúng dường Xá lợi của Đức Phật nữa. Lúc đó, tất cả Xá lợi của Đức Phật Gotama hiện có trên toàn cõi người, cõi Long vương, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới phạm thiên; Xá lợi của Đức Phật dù lớn, dù nhỏ như hạt cải cũng đều tụ hội lại một chỗ tại Đại cội Bồ đề xưa, nay gọi là Buddhagayā, tại nước Ấn Độ, nơi Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Tất cả Xá lợi Phật kết dính lại thành pho tượng kim thân Đức Phật, tư thế ngồi kiết già có đầy đủ 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ ngồi ngự tại Đại cội Bồ đề, phát ra hào quang sáu màu, có phép thần thông, giống như hồi Đức Phật hóa phép thần thông yamakapaṭihāriya. Thời kỳ ấy, loài người không có đến chiêm bái cúng dường, bởi vì loài người không còn ai hiểu biết đến Đức Phật, mà chỉ có chư thiên, chư phạm thiên trong mười ngàn thế giới tụ hội chiêm bái cúng dường, than vãn rằng:

“Ajja satthā parinibbāti, ajja sāsanaṃ osakkati, pacchimadassanaṃ dāni idaṃ amhākaṃ”.

Hôm nay Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn, hôm nay Phật giáo bị tiêu hủy hoàn toàn. Bây giờ, đây là sự chiêm bái cúng dường Xá lợi Đức Phật lần cuối cùng của chúng ta”.

Sau đó, hỏa đại (chất lửa) phát xuất từ pho tượng kim thân Đức Phật, thật phi thường chưa từng có, ngọn lửa phát ra từ pho tượng kim thân Đức Phật phóng lên tận cõi trời phạm thiên. Khi viên Xá lợi nhỏ bằng hạt cải

còn, thì ngọn lửa vẫn còn. Cho đến khi tất cả mọi Xá lợi của Đức Phật đều bị thiêu hủy, biến mất không còn dư sót lại nữa, thì ngọn lửa mới tắt hẳn.

Đó gọi là Xá lợi của Đức Phật Gotama tịch diệt Niết Bàn cuối cùng trên thế gian này, đồng thời Phật giáo của Đức Phật Gotama cũng bị tiêu hủy hoàn toàn biến mất ở cõi người; bởi vì, các hàng Thanh Văn không còn trong cõi người này nữa. Song các hàng Thanh Vănchư thiên, chư phạm thiên gồm cả bậc Thánh lẫn hạng phàm vẫn còn trong các cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới cho đến mãn kiếp của họ.

Chư thiên, phạm thiên vô cùng động tâm (saṃvega), thành kính cúng dường những đóa hoa trời, vật thơm trời, cúng dường Xá lợi của Đức Phật. Còn chư thiên, phạm thiên còn phàm (chưa phải Thánh) phát nguyện rằng:

“Anāgate uppajjanakaṃ Buddhaṃ passituṃ labhissāma Bhagavā”.

Kính bạch Đức Thế Tôn, do phước thiện lễ bái cúng dường Xá lợi Phật này, cầu mong tất cả chúng con sẽ được đến hầu Đức Phật xuất hiện trong thời vị lai”.

Phát nguyện xong chư thiên, phạm thiên trở về cõi trời của mình.

Từ đó, cõi người mất hẳn ánh sáng của chánh pháp, ác pháp càng ngày càng tăng trưởng, ngược lại thiện pháp càng ngày càng suy thoái, nỗi khổ thân, khổ tâm càng ngày càng tăng; tuổi thọ con người càng ngày càng giảm. Khi mọi ác pháp càng tăng trưởng, thì tuổi thọ con người lại càng giảm dần, giảm dần cho đến khi tuổi thọ con người còn khoảng 10 năm.

Vào thời kỳ ấy, nạn chém giết lẫn nhau sẽ xảy ra vô cùng tàn khốc, khủng khiếp, không còn biết phân biệt bà con thân bằng quyến thuộc, bạn bè, anh em, thậm chí không còn biết đến cha mẹ con cái nữa. Có một số người hoảng sợ sẽ chạy vào rừng trốn thoát thân. Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy gặp lại sẽ cam kết với nhau sẽ không giết hại lẫn nhau nữa. Con người bắt đầu biết giữ giới, thiện pháp bắt đầu tăng trưởng, còn ác pháp bắt đầu suy thoái. Nhờ vậy, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng. Khi mọi thiện pháp càng tăng trưởng, thì tuổi thọ con người lại tăng dần, tăng dần cho đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm. Thời kỳ đó, con người sẽ có tuổi thọ sống lâu, nên sinh tâm dể duôi, ác pháp lại bắt đầu phát sinh... Do nguyên nhân ấy làm cho tuổi thọ con người giảm dần, giảm dần cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 80.000 năm. Trong thời kỳ ấy, Đức Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian, cùng trong kiếp trái đất mà chúng ta đang sống. Bởi vì, kiếp trái đất Bhaddakappa có nhiều diễm phúc hơn các kiếp trái đất khác, vì có được 5 Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện cùng trên trái đất này tuần tự như sau:

Trong thời quá khứ đã có 3 Đức Phật là: Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Konāgamana Đức Phật Kassapa.

Trong thời hiện tạiĐức Phật Gotama của chúng ta.

Trong thời vị lai, còn có Đức Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 47)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 311)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 680)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 494)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 590)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1390)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1751)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1393)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant