Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Nói Đầu

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6832)
Lời Nói Đầu

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển II:
Quy Y Tam Bảo
(TISARANA)

nentangpg-02-quyytambao

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy.

Paṇāmagāthā

Tilokekagaruṃ Buddhaṃ, 

Pāyādibhayahiṃsakaṃ,

Āyuno pariyosānaṃ,

Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.

Ādimajjhantakalyāṇam,

Buddhassa dhammamosadhaṃ,

Nibbānapariyosānaṃ,

Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.

Tassa sāvakasaṃghañca,

Puññakkhettaṃ anuttaraṃ,

Arahattapriyosānaṃ,

Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.

Buddhaṃ Dhammañca Saṃghañca,

Abhivandiya sādaraṃ,

Mūlabuddhasāsanan’ ti,

Ayaṃ gantho mayā kato.

Kệ lễ bái Tam Bảo

Đức Thế Tôn cao thượng nhất tam giới,

Dắt dẫn chúng sinh thoát khỏi họa tai,

Nguyện suốt đời con xin quy y Phật,

Mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.

Pháp của Ngài như linh dược nhiệm mầu,

Hoàn hảo ở phần đầu giữa và cuối,

Nguyện suốt đời con xin quy y Pháp,

Mong được chứng ngộ Niết Bàn thoát khổ.

Tăng bậc Thánh Thanh Văn đệ tử Phật,

phước điền cao thượng của chúng sinh,

Nguyện suốt đời con xin quy y Tăng,

Mong được chứng đắc Thánh A-ra-hán.

Đức Phật Đức Pháp Đức Tăng cao thượng,

Con hết lòng thành kính lạy Tam Bảo,

Rồi góp nhặt biên soạn tập sách nhỏ,

Soạn phẩm này gọi “Nền Tảng Phật giáo”



Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy.


Lời Nói Đầu

Nền Tảng Phật Giáo là một bộ sách có 7 quyển gồm 9 chương. Mỗi chương được khái quát như sau:

* Chương thứ nhất: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga)

- Đức Phật (Buddha) - Đức Pháp (Dhamma) - Đức Tăng (Saṃgha)

* Chương thứ nhì: Tam Bảo (Ratanattaya)

- Đức Phật Bảo (Buddharatana) - Đức Pháp Bảo (Dhammaratana) - Đức Tăng Bảo (Saṃgharatana)

* Chương thứ ba: Ân đức Tam Bảo (Ratanattayaguṇa)

Ân đức Phật (Buddhaguṇa) - Â n đức Pháp (Dhammaguṇa) - Ân đức Tăng (Saṃghaguṇa)

* Chương thứ tư: Quy y Tam Bảo (Tisaraṇa)

Quy y Phật Bảo (Buddhasaraṇa) - Quy y Pháp Bảo (Dhammasaraṇa) - Quy y Tăng Bảo (Saṃghasaraṇa)

* Chương thứ năm: Giới hạnh (Sīlācāra)

Giới hạnh của người tại gia cư sĩ (Gahaṭṭhasīla)

Giới hạnh của bậc xuất gia tu sĩ (Pabbajitasīla)

* Chương thứ sáu: Nghiệp - Quả của nghiệp (Kamma-kammaphala)

Bốn loại nghiệp (Kammacatukka):

Bất thiện nghiệp (Akusalakamma)

Quả bất thiện nghiệp (Akusalavipāka)

Thiện nghiệp (Kusalakamma)

Quả thiện nghiệp (Kusalavipāka)

* Chương thứ bảy: Phước thiện (Puññakusala)

10 nhân sinh phước thiện (Puññakiriyāvatthu)

* Chương thứ tám: Pháp hạnh ba-la-mật (Pāramī)

10 pháp hạnh ba-la-mật (Dasapāramī)

* Chương thứ chín: Pháp hành (Bhāvanā)

Pháp hành thiền định (Samathabhāvanā)

Pháp hành thiền tuệ (Vipassanābhāvanā)

Bộ Nền Tảng Phật Giáo gồm 9 chương, chia thành 7 quyển, mà mỗi quyển được đặt tên theo nội dung của từng chương:

"Nền Tảng Phật Giáo, quyển II: Tam Bảo" gồm có chương thứ ba và chương thứ tư.

Chương thứ ba: Ân đức Tam Bảo (Ratanattayaguṇa)

Ân đức Phật (Buddhaguṇa); Ân đức Pháp (Dhammaguṇa); Ân đức Tăng (Saṃghaguṇa)

Ân đức Phật có 9 Ân đức gọi là 9 Ân đức Phật.

Ân đức Pháp có 6 Ân đức gọi là 6 Ân đức Pháp.

Ân đức Tăng có 9 Ân đức gọi là 9 Ân đức Tăng.

9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng là đối tượng dễ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo; mà đức tin là pháp dẫn đầu mọi thiện pháp từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp cao thượng nhất. Cho nên, người Phật tử cần phải học hỏi, hiểu biết rõ đầy đủ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, bởi vì Ân đức Tam Bảo là đối tượng dễ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo.

Ân đức Tam Bảo có một tầm quan trọng trong Phật Giáo.

* Ân đức Tam Bảođề mục của thiền định.

Trong 40 đề mục thiền định, có 10 đề mục niệm (ānussati) mà 3 đề mục đầu là:

Đề mục niệm Ân đức Phật đó là niệm 9 Ân đức Phật.
Đề mục niệm Ân đức Pháp đó là niệm 6 Ân đức Pháp.
Đề mục niệm Ân đức Tăng đó là niệm 9 Ân đức Tăng.

Như vậy:

9 Ân đức Phật là đối tượng thiền định của đề mục niệm Ân đứcPhật.

6 Ân đức Pháp là đối tượng thiền định của đề mục niệm Ân đức Pháp.

9 Ân đức Tăng là đối tượng thiền định của đề mục niệm Ân đức Tăng.

Ba đề mục niệm Ân đức Phật này chỉ có trong Phật giáo mà thôi, không có ngoài Phật giáo. Còn lại các đề mục thiền định khác, có trong Phật giáo và ngoài Phật giáo.

* Ân đức Tam Bảo là đối tượng của phép quy y Tam Bảo.

Phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới (lokiyasaraṇagamana) được thành tựu là do nhờ đối tượng Ân đức Tam Bảo

Khi thọ phép quy y Phật Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng là 9 Ân đức Phật.

Khi thọ phép quy y Pháp Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng là 6 Ân đức Pháp.

Khi thọ phép quy y Tăng Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng là 9 Ân đức Tăng.

Như vậy, đối với hạng phàm nhân, Ân đức Tam Bảo thật là tối quan trọng, bởi vì Ân đức Tam Bảo là đối tượng chính hỗ trợ cho phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới được thành tựu.

Nếu là người phàm nhân tại gia cư sĩ, thì người ấy trở thành cận sự nam (upāsaka) hoặc cận sự nữ (upāsikā) trong Phật giáo.

Nếu là người xuất gia tu sĩ, thì người ấy trở thành vị Sadi (Sāmaṇera) trong Phật giáo.

Do đó, chương III Ân đức Tam Bảo là đối tượng của chương IV Quy y Tam Bảo.

Chương thứ tư: Quy y Tam Bảo (Tisaraṇa).

Quy y Phật Bảo (Buddhasaraṇa).
Quy y Pháp Bảo (Dhammasaraṇa).
Quy y Tăng Bảo (Saṃghasaraṇa).

Quy y Phật Bảo, quy y Pháp Bảo, quy y Tăng Bảo là một phép gọi là phép quy y Tam Bảo, để trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Phép quy y Tam Bảo có 2 phép:

Phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới (Lokuttarasaraṇagamana).
Phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới (Lokiyasaraṇagamana).

* Phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới như thế nào ?

Một người đến hầu Đức Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo. Ngay khi sát-na Thánh Đạo Tâm phát sanh có đối tượng Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não, đồng thời bậc Thánh Nhân ấy đã thành tựu phép quy y Tam Bảo pháp Siêu tam giới (Lokuttarasaraṇagamana).

Tuy đã thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới ở trong tâm rồi, nhưng bậc Thánh Nhân tại gia ấy vẫn còn phải thọ phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, trước sự hiện diện của Đức Phật, hoặc bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật; kính xin Ngài (quý Ngài) chứng minhcông nhận mình là người cận sự nam (hoặc người cận sự nữ) đã quy y Tam Bảo kể từ đó cho đến trọn đời trọn kiếp. Khi ấy, bậc Thánh Nhân tại gia ấy mới được chính thức gọi là người cận sự nam (upāsaka), hoặc người cận sự nữ (upāsikā) trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

* Phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới như thế nào ?

Những hạng phàm nhân tại gia là bậc thiện tríđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt học hỏi hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; có nhận thức đúng đắn rằng: Đức Phật cao thượng, Đức Pháp cao thượng, Đức Tăng cao thượng; có ý nguyện muốn trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Người ấy đến hầu Đức Phật, hoặc bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, thành kính xin làm lễ thọ phép quy y Tam Bảo.

Khi thọ phép quy y Phật Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Phật.

Khi thọ phép quy y Pháp Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 6 Ân đức Pháp.

Khi thọ phép quy y Tăng Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Tăng.

Hạng phàm nhân ấy thọ phép quy y Tam Bảo với đại thiện tâm hợp trí tuệ có đối tượng Ân đức Tam Bảo, đồng thời diệt bằng cách đè nén, chế ngự được phiền não. Ngay khi ấy, hạng phàm nhân ấy được thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới (lokiyasaraṇagamana), trở thành người cận sự nam (upāsaka) hoặc người cận sự nữ (upāsikā) trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Như vậy, phép quy y Tam Bảo này không những đối với các hàng phàm nhân tại gia mà còn đối với các bậc Thánh Nhân tại gia nữa. Các bậc Thánh Nhân tại gia được thành tựu cả phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới lẫn phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới. Còn các hạng phàm nhân tại gia được thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, mà chưa thành tựu được phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới. Khi nào hạng phàm nhân tiến hành thiền tuệ, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Nhân, khi ấy, vị Thánh Nhân ấy mới thành tựu được phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới.

Đối với các hạng phàm nhân tại gia muốn thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, để trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Trước tiên, người ấy cần phảiđức tin nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt, học hỏi, hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; bởi vì, những Ân đức Tam Bảo này là đối tượng chính của phép quy y Tam Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ, khi tâm này làm phận sự thọ phép quy y Tam Bảo, trước sự hiện diện của Đức Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật. Kính xin Ngài (hoặc quý Ngài) chứng minhcông nhận người ấy là người cận sự nam (hoặc cận sự nữ) đã quy y Tam Bảo, kể từ lúc đó cho đến trọn đời, trọn kiếp.

Trong đời có số người quan niệm rằng: "Trong gia đình có thờ tượng Đức Phật, ta là người có đức tin nơi Tam Bảo, hằng ngày thường lễ bái cúng dường Tam Bảo; đến chùa làm mọi phước thiện như bố thí, cúng dường đến chư Tỳ-khưu Tăng v.v… Như vậy, đương nhiên ta là người Phật tử, là người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong Phật giáo rồi!". Nhưng thực ra, dù những người ấy đã tạo những phước thiện như vậy, vẫn chưa đủ tiêu chuẩn để chính thức trở thành người cận sự nam (upāsaka) hoặc người cận sự nữ (upāsikā) trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Những người ấy chỉ có thể gọi là người có thiện tâm tín ngưỡng Đạo Phật, hoặc là người có đức tin nơi Tam Bảo mà thôi.

Thật ra, để chính thức trở thành một người cận sự nam hoặc một người cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, những hạng phàm nhân tại gia ấy cần phải được thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, nhờ có sự hiện diện của bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, kính xin Ngài chứng minhcông nhận người ấy là người cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp. Khi ấy, người ấy mới chính thức được trở thành cận sự nam hoặc cận sự nữ là một trong tứ chúng đệ tử của Đức Phật Gotama.

Đức Phật Gotama có tứ chúng đệ tử là Tỳ-khưu (Bhikkhu), Tỳ-khưu ni (Bhikkhuni), cận sự nam (upāsaka), cận sự nữ (upāsikā). Khi một người đã trở thành cận sự nam hoặc cận sự nữ, là có được một địa vị cao quý trong Đạo Phật. Cho nên, mỗi người cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo rồi, trở thành người Phật tử, có quyền thừa hưởng Pháp Bảo cao thượng của Đức Phật, và nên có bổn phận hộ trì Tam Bảo, giữ gìn duy trì Pháp Bảo cao thượng cho được trường tồn lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích cao thượng, sự tiến hoá cao thượng từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp; sự an lạc cao thượng đó là Niết Bàn an lạc tuyệt đối.

Quyển "Quy y Tam Bảo" này, bần sư đã dày công sưu tầm, gom nhặt mọi phép quy y Tam Bảo; bắt đầu từ phép quy y Nhị Bảo đầu tiên của hai anh em lái buôn Tapussa và Bhallika, tại cội cây Rājayatana gần Đại cội Bồ đề, sau khi Đức Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày, kể từ khi Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Tiếp theo sau đó là phép quy y Tam Bảo đầu tiên của thân phụthân mẫu của Ngài Đại đức Yasa, và các phép quy y Tam Bảo khác nhau từ thời xưa cho đến phép quy y Tam Bảo phổ thông thời nay, hiện đang lưu truyền trong các nước Phật Giáo Theravāda như: Nước Srilankā, nước Myanmar (Miến Điện), nước Thái Lan, nước Campuchia, nước Lào, Phật giáo Nguyên thuỷ tại Việt Nam v.v…

Trong quyển sách “Quy Y Tam Bảo” này, bần sư đã cố gắng hết sức mình để sưu tầm, góp nhặt những tài liệuliên quan đến Tam Bảo, từ Tam Tạng Pāḷi và các Chú giải Pāḷi chỉ được bấy nhiêu thôi! Tuy bần sư cố gắng hết mình giảng giải để giúp cho độc giả tìm hiểu rõ về phép quy y Tam Bảo, song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư.

Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn, kính mong chư bậc thiện trí từ bi chỉ giáo, góp ý chân tình. Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an lạc cho phần đông chúng ta. Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư.

Quyển sách “Quy Y Tam Bảo” này được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp sức như: Đệ tử Sīlācāra (Giới Hạnh), cô Dhammanandā đã tận tình đánh máy vi tính, dàn trang, làm thành quyển; các thí chủ trong nước và ngoài nước có đức tin trong sạch lo ấn hành là: Pháp đệ Bửu Đức cùng nhóm Phật tử chùa Hương Đạo (Hoa Kỳ), gia đình anh Đinh Vạn Xuân cùng nhóm Phật tử ở Úc, các nhóm Phật tử ở Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ, Canada, Úc... gia đình anh Hoàng Quang Chung... và đã được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo cho phép ấn hành. Bần sư vô cùng hoan hỷbiết ơn tất cả quý vị.

Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (Tỳ-khưu Hộ Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Cố Vaṃsarakkhitamahāthera (Cố Đại Trưởng Lão Hộ Tông)sư phụ của con, đồng thời đến Ngài Cố Đại Trưởng Lão Thiện Luật, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Bửu Chơn, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Giới Nghiêm, Ngài Cố Trưởng Lão Hộ Giác (chùa Từ Quang) cùng chư Đại Trưởng Lão, Đại đức khác đã dày công đem Phật giáo Nguyên thuỷ (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt Nam thân yêu, và xin kính dâng đến chư Đại Trưởng Lão ở nước Thái Lan, nước Myanmar (Miến Điện), đã có công dạy dỗ con về pháp học và pháp hành.

Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Phước thiện pháp thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện này để thóat khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phước đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng sinh từ cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, chư thiên trong các cõi trời dục giới, chư phạm thiên trong các cõi trời sắc giới,... tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện pháp thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát mọi sự khổ, được an lạc lâu dài.

Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Phước thiện pháp thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tiếp tục tử sinh luân hồi, thì do năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này ngăn cản mọi ác nghiệp không có cơ hội cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; và cũng do năng lực phước thiện này chỉ hỗ trợ thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người, các cõi trời dục giới... mà thôi. Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con cũng là người có chánh kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện trí, lắng nghe chánh pháp của bậc thiện trí, có đức tin trong sạch nơi bậc thiện trí, cố gắng tinh tấn hành theo lời giáo huấn của bậc thiện trí, không ngừng tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, mong diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, trở thành bậc Thánh Arahán.

Trong vòng tử sinh luân hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng; quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, hoặc chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài, lắng nghe chánh pháp, cố gắng tinh tấn hành theo chánh pháp của Ngài, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nay chúng con hết lòng thành kính thọ phép quy y Tam Bảo: Quy y Đức Phật Bảo, quy y Đức Pháp Bảo, quy y Đức Tăng Bảo, và thành tâm hộ trì Tam Bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp. Do nhờ năng lực phước thiện thanh cao này, cầu mong cho mỗi người chúng con luôn luôn có được duyên lành sâu sắc trong Phật giáo.

Do nhờ năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con, khi thành tựu quả báucõi người (manussasampatti) như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc khi thành tựu quả báucõi trời (devasampatti) hưởng được an lạc như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời. Bởi vì mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con là cầu mong sớm thành tựu quả báu chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ
Khippameva samijjhatu.

Điều mong ước, ý nguyện của chúng con
Cầu mong sớm được thành tựu như ý.

Tỳ-khưu Hộ Pháp
Thiền viện
Viên Không
Xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành
Bà Rịa-Vũng Tàu
Mùa an cư nhập hạ Pl: 2548/2004

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1405)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1226)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1279)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1440)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1172)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1552)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2721)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1729)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1268)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1179)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1300)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1838)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1582)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1788)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1716)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2257)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1672)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2007)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1996)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2159)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1865)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1847)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1998)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1832)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1765)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1846)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1784)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2054)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2159)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1864)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1976)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1741)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1801)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2295)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2194)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3693)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2351)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3005)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2373)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1947)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1709)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3207)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2238)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2926)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2591)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1939)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2901)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2539)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3427)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4105)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3601)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant