Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02. Ân Đức Pháp

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6564)
02. Ân Đức Pháp

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển II:
Quy Y Tam Bảo
(TISARANA)


CHƯƠNG III

ÂN ĐỨC TAM BẢO (RATANATTAYAGUNA)

 

ÂN ĐỨC PHÁP (DHAMMAGUNA)

Ân đức Pháp vô cùng vi tế, sâu sắc, rộng lớn vô lượng vô biên, mà chư Thánh Thanh Văn mới có thể hiểu biết theo khả năng chứng ngộ, chứng đắc pháp thành chánh pháp theo sở đắc của quý Ngài. Còn hạng phàm nhân thì chỉ có thể hiểu biết một phần nào về pháp học chánh pháp mà thôi.

Trong bài kinh Dhajaggasutta, Đức Phật thuyết dạy niệm 6 Ân đức Pháp như sau:

“Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi”.


Ý NGHĨA 6 ÂN ĐỨC PHÁP

1) Svākkhāto dhammo: Pháp gồm có 10 chánh phápĐức Phật đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, có ý nghĩa đầy đủ, văn chương trong sáng, rõ ràngthanh tịnh.

10 chánh pháp là:

Pháp học chánh pháp.
9 pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả + 1 Niết Bàn).

2) Sandiṭṭhiko dhammo: Chánh pháp gồm 9 pháp Siêu tam giới mà chư Thánh Nhân đã chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh QuảNiết Bàn nào, rồi tự thấy, tự biết bằng trí tuệ của mình.

3) Akāliko dhammo: Chánh pháp đó là 4 Thánh Đạo cho quả tương xứng 4 Thánh Quả không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh Đạo nào liền cho Thánh Quả ấy sau một sát-na tâm diệt rồi sinh.

4) Ehipassiko dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới thuộc Chân nghĩa pháp rất trong sạchthanh tịnh, nên dám mời đến để chứng kiến, để thực chứng, thực đắc.

5) Opaneyyiko dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới là pháp nên hướng tâm chứng đắc trước tiên, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

6) Paccatta veditabbo viññūhi dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới mà chư bậc thiện trí Thánh Nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh Quả hưởng an lạc Niết Bàn tịch tịnh.

Đó là 6 Ân đức Pháp mà chỉ có bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật mới có đầy đủ mà thôi. Còn các hạng Thanh Văn phàm nhân có được Ân đức Pháp thuộc về phần pháp học chánh pháp, chưa đạt được pháp thành chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới.


GIẢNG GIẢI VỀ 6 ÂN ĐỨC PHÁP

1- Ân đức Pháp thứ nhất: Svākkhāto

Svākkhāto Bhagavatā dhammo.

(Cách đọc: Xoa-kha-tô phá-gá-voa-ta thăm-mô)

Svākkhāto dhammo: Pháp gồm có 10 chánh phápĐức Phật đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, có ý nghĩa đầy đủ, văn chương trong sáng, rõ ràngthanh tịnh.

10 chánh pháp là:

Pháp học chánh pháp
9 pháp Siêu tam giới
(4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả + 1 Niết Bàn).

Trong Chú giải Samyuttanikāya, phần Sagāthavagga trình bày 10 chánh pháp hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối như sau:

Pháp học chánh pháp hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối như thế nào?

Đức Phật thuyết về Tạng Kinh, một bài kệ gồm có 4 câu:

Câu đầu: Hoàn hảo ở phần đầu.
Hai câu giữa
: Hoàn hảo ở phần giữa.
Câu cuối
: Hoàn hảo ở phần cuối.

Khi Đức Phật thuyết một bài Kinh ngắn:

Phần mở đầu: Hoàn hảo ở phần đầu.
Phần thân bài
: Hoàn hảo ở phần giữa.
Phần kết luận
: Hoàn hảo ở phần cuối.

Đức Phật thuyết một bài Kinh dài gồm có nhiều đoạn:

Phần mở đầu: Hoàn hảo ở phần đầu.

Phần thân bài (gồm nhiều đoạn): Hoàn hảo ở phần giữa.

Phần kết luận: Hoàn hảo ở phần cuối.

Đức Phật thuyết về Tạng Luật, Tạng Vi Diệu Pháp, sự hoàn hảo cũng tương tự như Tạng kinh.

Chín pháp Siêu tam giới hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối như thế nào?

9 pháp Siêu tam giới gồm:

a) Thánh Đạo:

Nhập Lưu Thánh Đạo
Nhất Lai Thánh Đạo
Bất Lai Thánh Đạo
Arahán Thánh Đạo

b) Thánh Quả:

Nhập Lưu Thánh Quả
Nhất Lai Thánh Quả
Bất Lai Thánh Quả
Arahán Thánh Quả

c) Nết Bàn: Là đối tượng của 4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm.

4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm chỉ có đối tượng Niết Bàn mà thôi, ngoài ra không có đối tượng nào khác.

9 pháp Siêu tam giới thuộc về pháp thành chánh pháp, là quả của pháp hành chánh pháp.

Pháp hành chánh pháppháp thành chánh pháp hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối như sau:

Hành giới: Hoàn hảo ở phần đầu.
Hành thiền định, hành thiền tuệ, 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả
: Hoàn hảo ở phần giữa.
Niết Bàn
: Hoàn hảo ở phần cuối.

Hay trình bày một cách khác:

Hành giới, hành thiền định: Hoàn hảo ở phần đầu.
Hành thiền tuệ, 4 Thánh Đạo
: Hoàn hảo ở phần giữa.
4 Thánh QuảNiết Bàn
: Hoàn hảo ở phần cuối.

Một cách trình bày khác:

Pháp học chánh pháp: Ban đầu lắng nghe, học hỏi, nghiên cứu để hiểu rõ về pháp học chánh phápcách hành giới, phương pháp tiến hành thiền định và thiền tuệ…”.

Đó gọi là pháp học chánh pháp hoàn hảo ở phần đầu.

Pháp hành chánh pháp: Có 3 pháp hành.

Pháp hành giới: Hành giả tác ý thiện tâm giữ gìn giới cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho pháp hành định, pháp hành tuệ.

Pháp hành định: Hành giả tiến hành thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, các bậc thiền vô sắc.

Pháp hành tuệ: Hành giả tiến hành thiền tuệ làm cho phát sinh trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.

Đó là pháp hành chánh pháp hoàn hảo ở phần giữa.

Pháp thành chánh pháp: Chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não, tham ái, ác pháp.

Đó là pháp thành chánh pháp hoàn hảo ở phần cuối.

Do đó, Ân đức Pháp này gọi là Svākkāto dhammo.

2- Ân đức Pháp thứ nhì: Sandiṭṭhiko

Sandiṭṭhiko Bhagavatā dhammo.

(Cách đọc: Xăn đít thí-cô phá-gá-voa-ta thăm-mô)

Sandiṭṭhiko dhammo: Chánh pháp gồm 9 pháp Siêu tam giới mà chư Thánh Nhân đã chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh QuảNiết Bàn nào, rồi tự thấy, tự biết bằng trí tuệ của mình.

Sandiṭṭhiko có 3 ý nghĩa:

Chứng đắc bằng trí tuệ của mình

Bậc thiện trí phàm nhân tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Bậc Thánh Nhập Lưu tiếp tục tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhất Lai.

Bậc Thánh Nhất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Bất Lai.

Bậc Thánh Bất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán.

Mỗi bậc Thánh Nhân tự thấy, tự biết bằng trí tuệ của mình.

Diệt đoạn tuyệt phiền não

Bốn Thánh Đạo Tuệ có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được phiền não (samucchedapahāna), tùy theo mỗi Thánh Đạo Tuệ như sau:

Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được 2 loại phiền nãotâm tà kiến tâm hoài nghi.

Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được 1 loại phiền nãotâm sân loại thô.

Bất Lai Thánh Đạo Tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được 1 loại phiền nãotâm sân loại vi tế.

Arahán Thánh Đạo Tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được 7 loại phiền não còn lại là tâm tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi. Mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp đều bị diệt đoạn tuyệt không còn dư sót.

Bốn Thánh Quả Tuệ có khả năng đặc biệt diệt bằng cách vắng lặng (paipassa-dhipahāna) được loại phiền nãoThánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được rồi.

Niết Bàn là đối tượng giải thoát khổ, diệt tử sinh luân hồi (nissaraappahāna).

Theo định luật tự nhiên, sau khi đã chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn nào rồi, thì bậc Thánh có trí tuệ quán xét (paccavekkhaañāa) quán xét 5 điều:

Quán xét biết rõ Thánh Đạo nào đã chứng đắc.
Quán xét biết rõ Thánh Quả nào đã chứng đắc.
Quán xét biết rõ Niết Bàn đã chứng ngộ.
Quán xét biết rõ phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt.
Quán xét biết rõ phiền não nào chưa bị diệt đoạn tuyệt.

Riêng bậc Thánh Arahán thì không còn quán xét biết rõ phiền não nào chưa bị diệt đoạn tuyệt, bởi vì Arahán Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não không còn dư sót.

Tự chứng kiến

Bậc Thánh Nhập Lưu tự biết, tự khẳng định sẽ không còn tái sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, ngạ quỷ, atula, súc sinh), chỉ còn tái sinhcõi người, cõi trời dục giới nhiều nhất là 7 kiếp, rồi sẽ trở thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn.

Bậc Thánh Nhất Lai tự biết, tự khẳng định chỉ còn tái sinh 1 kiếp trong cõi người hoặc cõi trời dục giới, rồi sẽ trở thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn.

Bậc Thánh Bất Lai tự biết, tự khẳng định không trở lại tái sinh trong cõi dục giới, chỉ còn tái sinh ở cõi sắc giới, rồi sẽ trở thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn tại cõi sắc giới ấy.

Bậc Thánh Arahán tự biết, tự khẳng định ngay kiếp hiện tại này là kiếp chót, sẽ tịch diệt Niết Bàn chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Do đó, Ân đức Pháp này gọi là Sandiṭṭhiko dhammo.

3- Ân đức Pháp thứ ba: Akāliko

Akāliko Bhagavatā dhammo.

(Cách đọc: Á-ca-lí-cô phá-gá-voa-ta thăm-mô)

Akāliko dhammo: Chánh pháp đó là 4 Thánh Đạo cho quả tương xứng 4 Thánh Quả không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh Đạo nào liền cho Thánh Quả ấy sau một sát-na tâm diệt rồi sinh.

Akāliko có 2 ý nghĩa:

Thánh Đạo diệt, Thánh Quả sinh khôngthời gian ngăn cách.

Thánh Đạo - Thánh Quả cùng trong một Thánh Đạo lộ trình tâm.

Ví dụ: Trong Nhập Lưu Thánh Đạo lộ trình tâm sinh diệt theo tuần tự như sau:

Bhavangacitta --> Bhavaṅgacalana --> Bhavaṅgupaccheda --> Manodvāravajjanacitta --> Parikamma --> Upacāra --> Anuloma --> Gotrabhù --> Sotāpattimagga --> Sotāpattiphala (2 - 3 sát-na tâm) --> Bhavagacitta.

Chấm dứt Nhập Lưu lộ trình tâm.

Giải thích:

Bhavangacitta: Hộ kiếp tâm (viết tắt bha)

Bhavagacalana: Hộ kiếp tâm rung động (viết tắt na)

Bhavagupaccheda: Hộ kiếp tâm bị cắt đứt (viết tắt da)

Manodvāravajjanacitta: Ý môn hướng tâm (viết tắt ma)

Parikamma: Chuẩn bị Nhập Lưu Thánh Đạo Tâm sẽ phát sinh (viết tắt pari)

Upacāra: Cận Nhập Lưu Thánh Đạo Tâm sẽ phát sinh (viết tắt upa)

Anuloma: Thuận dòng theo 37 pháp để chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo (viết tắt anu)

Gotrabhu: Chuyển dòng từ phàm nhân sang Thánh Nhân (viết tắt got)

Sotāpattimaggacitta: Nhập Lưu Thánh Đạo Tâm 1 sát-na tâm (viết tắt mag)

Sotāpattiphalacitta: Nhập Lưu Thánh Quả Tâm 2-3 sát-na tâm (viết tắt pha)

Bhavagacitta: Hộ kiếp tâm, chấm dứt Nhập Lưu Thánh Đạo lộ trình tâm


ĐỒ BIỂU NHẬP LƯU THÁNH ĐẠO LỘ TRÌNH TÂM
(MAGGAVITHICITTA
)

nentangpg-hinh82

Qua Nhập Lưu Thánh Đạo lộ trình tâm nhận thấy:

Nhập Lưu Thánh Đạo Tâm diệt, liền sinh Nhập Lưu Thánh Quả Tâm, không có thời gian ngăn cách.

Tương tự đối với Nhất Lai Thánh Đạo lộ trình tâm, Bất Lai Thánh Đạo lộ trình tâm và Arahán Thánh Đạo lộ trình tâm: Thánh Đạo Tâm diệt, Thánh Quả Tâm liền sinh khôngthời gian ngăn cách.

Do đó, 4 Thánh Đạo là pháp cho 4 Thánh Quả không có thời gian ngăn cách.

4 Thánh Đạo cho 4 Thánh Quả không có thời gian chờ đợi

Tam giới thiện pháp

Dục giới thiện pháp có khả năng cho quả sớm hoặc muộn, có thời gian chờ đợi trong kiếp hiện tại và còn cho quả trong những kiếp vị lai.

Sắc giới thiện phápvô sắc giới thiện pháp cho quả tái sinh kiếp kế tiếp lên cõi trời sắc giới hay cõi trời vô sắc giới tùy theo bậc thiền sở đắc của mình.

Siêu tam giới thiện pháp đó là 4 Thánh Đạo Tâm liền cho quả là 4 Thánh Quả Tâm tương xứng không có thời gian chờ đợi, nghĩa là khi Thánh Đạo Tâm nào sinh rồi diệt, liền phát sinh Thánh Quả Tâm ấy sinh chỉ sau một sát-na tâm, mà thôi không có thời gian chờ đợi.

Do đó, Ân đức Pháp này gọi là Akāliko dhammo.

4- Ân đức Pháp thứ tư: Ehipassiko

Ehipassiko Bhagavatā dhammo.

(Cách đọc: Ê-hi pát-xí-cô phá-gá-voa-ta thăm-mô)

Ehipassiko dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới thuộc Chân nghĩa pháp rất trong sạchthanh tịnh, nên dám mời đến để chứng kiến, để thực chứng, thực đắc.

Ehipassiko có 2 ý nghĩa:

Chín pháp Siêu tam giới có thực tánh Chân nghĩa pháp nên thực chứng

9 pháp Siêu tam giới đó là 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn thuộc Paramattha-dhamma (Chân nghĩa pháp), có thực tánh rõ ràng, không biến chất theo thời gian, không gian nghĩa là 9 pháp Siêu tam giới đã phát sinh trong thời quá khứ như thế nào, đang phát sinh trong thời hiện tại và sẽ phát sinh trong thời vị lai cũng như thế ấy. Cho nên 9 pháp Siêu tam giới có thực tánh chân thật rõ ràng, do có thực tánh rõ ràng chân thật như vậy, nên mới dám gọi đến, mời đến thực hành đúng theo pháp hành Trung Đạo để thực chứng, để chứng kiến Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn bằng trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới của mình.

Ví dụ: Trường hợp trong hộp có viên ngọc quý, nên mới dám mời người khác đến xem...

Chín pháp Siêu tam giới có thực tánh hoàn toàn trong sạch thanh tịnh

9 pháp Siêu tam giớichánh pháp hoàn toàn trong sạchthanh tịnh, bởi vì 9 pháp Siêu tam giới này không hề bị ô nhiễm bởi phiền não, nên dám mời đến, động viên khuyến khích đến để chứng kiến, thực hành đúng theo pháp hành Trung Đạo, thì sẽ chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, bằng trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới của mình.

Ví dụ: Trong đời này, những vật có thật, đang hiện hữu, song là những vật bất tịnh, ô uế, hôi thối, bẩn thỉu đáng tránh xa thì không có một ai dám mời, dám động viên khuyến khích người khác đến để xem. Còn 9 pháp Siêu tam giới này là Chân nghĩa pháp hoàn toàn trong sángthanh tịnh, nên dám mời, dám động viên khuyến khích người khác đến để chứng kiến, để thực chứng chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Do đó, Ân đức pháp này gọi là Ehipassiko dhammo.

5- Ân đức Pháp thứ năm: Opaneyyiko

Opaneyyiko Bhagavatā dhammo

(Cách đọc: Ô-pá-nây-di-cô phá-gá-voa-ta thăm-mô)

Opaneyyiko dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới là pháp nên hướng tâm chứng đắc trước tiên, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Những hạng phàm nhân chắc chắn chưa từng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, cũng chưa từng chứng ngộ Niết Bàn lần nào, nên thường bị 11 thứ lửa và 1.500 loại phiền não thiêu đốt, làm cho nóng nảy thân tâm, chẳng bao giờ được an lạc thật sự. Do đó, sự dập tắt lửa phiền não là việc cần kíp, không nên chậm trễ. Chánh Pháp mà diệt được phiền não một cách hữu hiệu chỉ có 9 pháp Siêu tam giới.

4 Thánh Đạo Tuệ có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được phiền não (Samucche-dapahāna).

4 Thánh Quả Tuệ có khả năng diệt bằng cách làm vắng lặng được phiền não (paipassaddhipahāna).

Niết Bàn là đối tượng giải thoát khổ, diệt tử sinh luân hồi (Nissaraapahāna).

Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được 2 loại phiền nãotà kiếnhoài nghi, và vĩnh viễn không bao giờ khổ do tà kiếnhoài nghi nữa.

Bậc Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được 1 loại phiền nãotâm sân loại thô, và vĩnh viễn không bao giờ bị khổ do tâm sân loại thô nữa.

Bậc Bất Lai Thánh Đạo Tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được 1 loại phiền nãotâm sân loại vi tếvĩnh viễn không bao giờ bị khổ do tâm sân loại vi tế nữa.

Bậc Arahán Thánh Đạo Tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi phiền não còn lại là tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi tất cả mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót. Do đó, bậc Arahán hoàn toàn không có khổ tâm, chỉ còn khổ thân mà thôi.

Đối với hạng phàm nhân còn đầy đủ mọi phiền não, tham ái, ác pháp, thì còn phải khổ thân, khổ tâm, và khi còn tử sinh luân hồi trong tam giới, thì khó tránh khỏi khổ trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Mong muốn giải thoát khổ tái sinh, thì chỉ có 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn mà thôi. Vì vậy, hành giả quyết tâm tinh tấn không ngừng, đặt ưu tiên hàng đầu là hướng tâm đến sự chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn mà thôi. Dù cho lửa cháy trên đầu cũng không quan tâm, bởi vì, họ suy nghĩ rằng: “Lửa cháy trên đầu chỉ làm khổ (nóng nảy) một kiếp hiện tại, còn những phiền não chưa diệt được, không chỉ làm khổ (nóng nảy) trong kiếp hiện tại, mà còn khổ lâu dài trong vô số vô số kiếp vị lai.

Sự chết là điều chắc chắn, nhưng không biết chắc sẽ chết khi nào. Cho nên, hành giả đặt ưu tiên hàng đầu là hướng tâm cố gắng tinh tấn không ngừng, tiến hành thiền tuệ để chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn.

Do đó, 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn là 9 pháp Siêu tam giới, nên đặt ưu tiên hướng tâm của mình để chứng đắc trước tiên.

Do đó, Ân đức Pháp này gọi là Opaneyyiko dhammo.

6- Ân đức Pháp thứ sáu: Paccatta veditabbo viññūhi

Paccatta veditabbo viññūhi Bhagavatā dhammo.

(Cách đọc: Pách-chát-tăng vuê-đí-tắp-bô vinh-nhu-hí phá-gá-voa-ta thăm-mô)

Paccatta veditabbo viññūhi dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới mà chư bậc thiện trí Thánh Nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh Quả hưởng an lạc Niết Bàn tịch tịnh.

Bậc thiện trí Thánh Nhân có 3 hạng:

Bậc thiện trítrí tuệ bậc thượng (Ugghaitaññū)

Bậc thiện trí này có trí tuệ sắc bén, tinh nhanh, khi lắng nghe một bài kệ có 4 câu, chỉ cần nghe 2 câu đầu, bậc thiện trí này có trí tuệ có thể chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, ngay khi ấy, không cần chờ đợi để nghe đến 2 câu sau.

Bậc thiện trítrí tuệ bậc trung (Vipañcitaññū)

Bậc thiện trí này có trí tuệ sắc bén, khi lắng nghe pháp đầu đề xong, lắng nghe tiếp theo lời giảng giải, khai triển. Bậc thiện trí này, có trí tuệ có thể chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn ngay khi ấy.

Bậc thiện trítrí tuệ bậc thường (Neyya)

Bậc thiện trí này có trí tuệ khi lắng nghe pháp đầu đề, lắng nghe tiếp theo lời giảng giải, khai triển xong rồi, vị này còn cần phải gần gũi, thân cận với vị thiền sư, chư Thánh Thanh Văn để được giúp đỡ, hỗ trợ. Bậc thiện trí này tiến hành thiền tuệ trải qua một thời gian mau hoặc lâu, mới có thể chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn trong kiếp hiện tại ấy.

Bốn bậc Thánh Nhân

Bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh Arahán. Mỗi bậc Thánh sau khi vừa mới chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn xong, tiếp theo sau phát sinh trí tuệ quán xét (paccavekkhaañāa) Thánh Đạo-Thánh Quả vừa chứng đắc, Niết Bàn vừa chứng ngộ, phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt rồi, phiền não nào còn lại chưa diệt được.

Do đó, mỗi bậc Thánh Nhân chắc chắn tự mình biết rõ Thánh Đạo -Thánh Quả mà mình đã tự chứng đắc.

Khả năng đặc biệt của bậc Thánh Nhân

Những bậc Thánh Nhân ngang hàng, có thể biết nhau qua đàm đạo hoặc bằng tha tâm thông.

Những bậc Thánh Nhân bậc thấp không thể biết được bậc Thánh Nhân bậc cao, mà chỉ có bậc Thánh Nhân bậc cao mới có thể biết được bậc Thánh Nhân bậc thấp, cũng qua cuộc đàm đạo hoặc bằng tha tâm thông.

Những hạng phàm nhân hoàn toàn không thể biết được bậc Thánh Nhân.

Bậc Thánh Nhân nhập Thánh Quả

Bậc Thánh Nhân có thể nhập Thánh Quả (phalasamāpatti) mà mình đã chứng đắc, để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Mỗi bậc Thánh Nhân nào đã chứng đắc các bậc thiền Siêu tam giới có đối tượng Niết Bàn, thì bậc Thánh Nhân ấy có thể nhập Thánh Quả Tâm để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Bậc Thánh Nhập Lưu, có thể nhập Nhập Lưu Thánh Quả Tâm, để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Bậc Thánh Nhất Lai, có thể nhập Nhất Lai Thánh Quả Tâm, để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Bậc Thánh Bất Lai, có thể nhập Bất Lai Thánh Quả Tâm, để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Bậc Thánh Arahán, có thể nhập Arahán Thánh Quả Tâm, để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Bậc Thánh Nhân đã chứng đắc đến Thánh Quả Tâm nào, thì bậc Thánh Nhân ấy chỉ có thể nhập Thánh Quả Tâm ấy mà thôi, để hưởng sự an lạc Niết Bàn. Như vậy bậc Thánh Nhân bậc thấp không thể nhập Thánh Quả Tâm bậc cao, và Thánh Nhân bậc cao cũng không nhập Thánh Quả Tâm bậc thấp.

9 pháp Siêu tam giới mà bậc Thánh Nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, chính mình an hưởng sự an lạc Niết Bàn, không liên quan đến người khác. Vì vậy, Thánh Đạo Tuệ của Thầy không thể diệt phiền não của đệ tử.

Người đệ tử có thể thừa hưởng những thứ vật dụng của Thầy, song không thể nhập Thánh Quả của Thầy để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Do đó, Ân đức Pháp này gọi là Paccata veditabbo viññūhi.

Ân đức Pháp được thực chứng

Trong bài kinh Brahmaasutta , Đức Phật thuyết về Ân đức Pháp được thực chứng, tự thấy tự biết do chính mình được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, một vị Bàlamôn đến đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, do nhân nào mà Ân đức Pháp gọi là Sanditthiko,... Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattam veditabbo vinnūhi?

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này Bàlamôn, người có tâm tham dục phát sinh, tâm tham dục khống chế, tâm tham dục bắt buộc xui khiến tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ cả mình lẫn người, chịu nỗi khổ thân, nỗi khổ tâm. Khi Thánh Đạo Tuệ phát sinh diệt đoạn tuyệt được tâm tham dục rồi, người ấy không còn tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ cả mình lẫn người, không còn chịu khổ thân, khổ tâm nữa.

Này Bàlamôn, do nhân ấy, Ân đức Pháp gọi là Sanditthiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccatta veditabbo vinnūhi.

Này Bàlamôn, người có tâm sân hận phát sinh, tâm sân hận khống chế, tâm sân hận bắt buộc xui khiến tự làm khổ mình….

Này Bàlamôn, người có tâm si mê phát sinh, tâm si mê khống chế, tâm si mê bắt buộc xui khiến tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ cả mình lẫn người, chịu khổ nỗi khổ thân, nỗi khổ tâm. Khi Thánh Đạo Tuệ phát sinh diệt đoạn tuyệt được tâm si mê rồi, người ấy không còn tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ cả mình lẫn người, không còn chịu nỗi khổ thân, nỗi khổ tâm nữa.

Này Bàlamôn, do nhân ấy, Ân đức Pháp gọi là Sanditthiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccatta veditabbo vinnūhi.

Ông Bàlamôn tán dương ca tụng Đức Thế Tôn, ông xin quy y Đức Thế Tôn, xin quy y Pháp Bảo, xin quy y Tăng Bảo. Ông kính xin Đức Thế Tôn chấp nhận ông là một cận sự nam đã quy y Tam Bảo, kể từ đó cho đến trọn đời.

Niết Bàn là pháp chứng ngộ

Trong bài kinh Nibbutasutta , Đức Thế Tôn thuyết về Niết Bàn là pháp chứng ngộ, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, ông Bàlamôn Jānusasoī đến đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

Kính bạch đức Thế Tôn, Niết Bàn gọi là pháp Sandiṭṭhika,... Do nhân nào mà Niết Bàn gọi là Pháp Sandiṭṭhika, Akālika, Ehipassika, Opaneyyika, Paccatta veditabba viññūhi?

Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Này, Bàlamôn, người có tâm tham dục, có tâm sân hận, có tâm si mê phát sinh, tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ cả mình lẫn người, chịu nỗi khổ thân, khổ tâm. Khi Thánh Đạo Tuệ phát sinh có đối tượng Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được tâm tham dục, tâm sân hận, tâm si mê rồi, người ấy không còn tự làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn người, không chịu nỗi khổ thân, khổ tâm nữa.

Này Bàlamôn, do nhân ấy, Niết Bàn gọi là Pháp Sandiṭṭhika, Akālika, Ehipassika, Opaneyyika, Paccatta veditabba viññūhi.

Ông Bàlamôn tán dương ca tụng Đức Thế Tôn, ông xin quy y Đức Thế Tôn, xin quy y Pháp Bảo, xin quy y Tăng Bảo. Ông kính xin Đức Thế Tôn chấp nhận ông là một cận sự nam đã quy y Tam Bảo, kể từ đó cho đến trọn đời.

6 Ân đức Pháp

Chư Thánh Thanh Văn đệ tử Đức Phật có khả năng đạt đến 6 Ân đức Pháp trọn vẹn, nghỉa là quý Ngài đã hiểu biết rõ pháp học chánh pháp, đó là hiểu biết rõ lời giáo huấn của Đức Phật; đã thực hành pháp hành chánh pháp, đó là đã hành giới hoàn toàn trong sạch, đã hành pháp hành thiền định, đã hành pháp hành thiền tuệ, đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, đã chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn đó là pháp thành chánh pháp. Còn các hàng Thanh Văn phàm nhân có khả năng đạt đến Ân đức Pháp thuộc về phần pháp học chánh pháp và phần pháp hành chánh pháp đó là hành giới, đang hành pháp hành thiền định, đang hành pháp hành thiền tuệ còn thuộc về pháp trong tam giới, chưa chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn.


ĐỀ MỤC NIỆM ÂN ĐỨC PHÁP

Ân đức Pháp là đối tượng của đề mục niệm Ân đức Pháp. Đề mục niệm Ân đức Pháp là 1 trong 10 đề mục niệm (ānussati) cũng là 1 trong 40 đề mục thiền định.

Muốn tiến hành đề mục niệm Ân đức Pháp, trước tiên hành giả cần phải học hỏi, nghiên cứu cho hiểu rõ ý nghĩa 6 Ân đức Pháp kỹ càng, từng các chi pháp cho thật rành rẽ phần pháp học.

Về phần pháp hành, trước khi tiến hành đề mục niệm Ân đức Pháp, hành giảđức tin nơi Tam Bảo:

Nếu là người cận sự nam, cận sự nữ, thì nên xin thọ phép quy y Tam Bảongũ giới hoặc bát giới, cửu giới...

Nếu là Sadi, thì nên xin thọ phép quy y Tam Bảo và Sadi thập giới với vị Thầy tế độ hoặc với một vị Đại đức.

Nếu là vị Tỳ-khưu, thì nên xin sám hối āpatti với một vị Tỳ-khưu khác.

Như vậy, là thuộc về phần pháp hành giới.

Khi hành giả đã có giới trong sạch trọn vẹn, sẽ làm nền tảng cho pháp hành thiền định đề mục niệm Ân đức Pháp.

Phương pháp niệm Ân đức Pháp

6 Ân đức Pháp này có trong toàn giáo pháp của Đức Phật. Chánh pháp gồm có 10 pháp đó là pháp học và 9 pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả + 1 Niết Bàn).

Muốn tiến hành đề mục niệm Ân đức Pháp, hành giả cần phải học hỏi, hiểu rõ rành rẽ 6 Ân đức Pháp.

Sau khi học hỏi, hiểu rõ đầy đủ 6 Ân đức Pháp xong rồi, hành giả nên tìm một nơi thanh vắng, để thuận lợi tiến hành đề mục niệm Ân đức Pháp này.

Niệm Ân đức Pháp có nhiều cách.

Cách thứ nhất (phổ thông): Niệm 6 Ân đức Pháp.

Hành giả tiến hành niệm 6 Ân đức Pháp như sau:

“Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi...” làm đối tượng thiền định.

Hành giả tâm niệm đến Ân đức Pháp nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân đức Pháp ấy, định tâm theo dõi mỗi Ân đức Pháp như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian tiến hành niệm 6 Ân đức Pháp, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức Pháp Bảo.

Cách thứ nhì (đặc biệt): Niệm một câu Ân đức Pháp.

Hành giả có thể chọn một Ân đức Pháp nào trong 6 Ân đức Pháp làm đối tượng, để tiến hành niệm Ân đức Pháp, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân đức Pháp ấy, luôn luôn định tâm nơi Ân đức Pháp ấy.

Ví dụ: Niệm Ân đức Pháp thứ nhất Svākkhāto dhammo..., Svākkhāto dhammo... làm đối tượng thiền định.

Hoặc: Niệm Ân đức Pháp thứ nhì Sandiṭṭhiko dhammo..., Sandiṭṭhiko dhammo... làm đối tượng thiền định.

Hành giả tâm niệm câu Ân đức Pháp ấy, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân đức Pháp ấy, định tâm theo dõi Ân đức Pháp ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian tiến hành niệm Ân đức Pháp, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức Pháp Bảo.

Đề mục thiền định niệm Ân đức Pháp có ý nghĩa vô cùng vi tế, sâu sắc, rộng lớn vô lượng vô biên, nên định tâm không thể an định vào một điểm nào nhất định được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận định mà thôi, không thể chứng đạt đến an định, do đó không thể chứng đắc được bậc thiền hữu sắc nào cả. Như vậy, tâm cận định của đề mục niệm Ân đức Pháp này vẫn còn trong dục giới đại thiện tâm, thuộc về dục giới thiện nghiệp.

Quả báu trong kiếp hiện tại

Dục giới thiện nghiệp được tạo do thiền định này cho quả ở kiếp hiện tại, trong khi đang tiến hành niệm Ân đức Pháp, đại thiện tâm hợp với hỷ, phát sinh hỷ lạc rất vi tếý thức tâm, nên hành giả có thể ngồi niệm Ân đức Pháp hằng giờ vẫn cảm thấy an lạc lạ thường.

Do năng lực dục giới thiện nghiệp này, trong cuộc sống hằng ngày của hành giả thường được an lạc, tránh khỏi điều rủi ro tai hại một cách phi thường, phần đông mọi người kính mến, chư thiên cũng kính yêu và hộ trì hành giả.

Quả báu ở kiếp vị lai

Dục giới thiện nghiệp được tạo do tiến hành thiền định này, có phần vững chắc hơn dục giới thiện nghiệp được tạo do bố thí giữ giới. Cho nên, hành giả khi gần chết, tâm không mê muội, tâm bình tĩnh sáng suốt. Vì vậy, sau khi chết, nếu dục giới thiện nghiệp này cho quả tái sinh làm người, thì sẽ là người có trí tuệ thuộc “hạng người tam nhân”, hoặc tái sinh làm chư thiên ở một trong 6 cõi trời dục giới, chư thiêncõi trời nào cũng có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời đặc biệt.

Đề mục niệm Ân đức Pháp là một đề mục dễ làm cho phát sinh đức tin nơi Tam Bảo, mà đức tin là nền tảng mọi thiện pháp từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp.

Đề mục niệm Ân đức Pháp không chỉ là đề mục thiền định, có khả năng dẫn đến chứng đạt cận định, mà còn là đối tượng làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ uẩn, diệt tận tham ái, phiền não, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn được.

Như Đức Phật dạy:

“Này chư Tỳ-khưu, có một pháp hànhhành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp - sắc pháp, để diệt tận tham ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền não, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn.

Pháp hành ấy là gì?

Pháp hành ấy chính là Dhammānussati: pháp hành niệm Ân đức Pháp.

Này chư Tỳ-khưu, pháp hành niệm Ân đức Pháp, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp, để diệt tận tham ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền não, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn”.

Qua lời giáo huấn của Đức Phật trên, thì đề mục niệm Ân đức Pháp không chỉ là đề mục thiền định, mà còn làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ nữa.

Đề mục niệm Ân đức Pháp có hai giai đoạn:

Giai đoạn đầu: Đề mục niệm Ân đức Pháp thuộc thiền định, hành giả tiến hành niệm Ân đức Pháp có khả năng dẫn đến sự chứng đạt đến cận định (phương pháp đã trình bày ở phần trước).

Giai đoạn sau: Sau khi tiến hành đề mục niệm Ân đức Pháp chứng đạt đến cận định, hành giả cần phải thoát ra khỏi đề mục niệm Ân đức Pháp, dùng tâm cận định của đề mục niệm Ân đức Pháp làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ.

Pháp hành thiền tuệ

Hành giả tiến hành thiền tuệ cần phảidanh pháp, sắc pháp hoặc thân, thọ, tâm, pháp thuộc Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) làm đối tượng thiền tuệ.

* Đề mục niệm Ân đức Pháp làm nền tảng, làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ như thế nào?

Đúng theo thực tánh của các pháp, thì không có người niệm Ân đức Pháp, mà chỉ có tâm đại thiện hợp với trí tuệ làm phận sự niệm Ân đức Pháp mà thôi.

Hành giả tiến hành thiền định với đề mục niệm Ân đức Pháp đạt đến cận định được phân tích theo danh pháp sắc pháp như sau:

Tâm cận định này là tâm đại thiện hợp với trí tuệ thuộc về danh pháp (thuộc về phần niệm tâm trong Tứ Niệm Xứ).

Tâm cận định này nương nhờ nơi sắc ý căn (hadayavatthu) thuộc về sắc pháp.

Như vậy, danh pháp liên quan với sắc pháp này làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ.

Hay một cách khác:

Tâm cận định nàytâm đại thiện hợp với trí tuệ, thuộc về thức uẩn.

- Thọ tâm sở đồng sinh với tâm đại thiện ấy, thuộc về thọ uẩn.

- Tưởng tâm sở đồng sinh với tâm đại thiện ấy, thuộc về tưởng uẩn.

- Các tâm sở còn lại đồng sinh với tâm đại thiện ấy, thuộc về hành uẩn.

- Sắc ý căn (hadayavatthu) là nơi nương nhờ để phát sinh tâm cận định (tâm đại thiện ấy), thuộc sắc uẩn.

(ngũ uẩn này, thuộc về phần niệm pháp trong Tứ Niệm Xứ)

Như vậy, ngũ uẩn này làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ.

Hành giả tiến hành thiền tuệchánh niệm, có trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ biết rõ danh pháp, sắc pháp hoặc ngũ uẩn có sự sinh, sự diệt; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp hoặc của ngũ uẩn, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán.

Như vậy, gọi là đề mục niệm Ân đức Pháp làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ.

Như Đức Phật dạy:

Này chư Tỳ-khưu, pháp hành niệm Ân đức Pháp mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp này, để diệt tận tham ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền não, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn”.

Quả báu đặc biệt niệm Ân đức Pháp

Hành giả tiến hành niệm Ân đức Pháp, trong kiếp hiện tại chưa chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, hành giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai như sau:

- Được phần đông chúng sinh kính trọng.

- Thiện tâm trong sạch thanh tịnh.

- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội.

- Sau khi chết, do thiện nghiệp này cho quả tái sinh làm người cao quý hoặc chư thiên cao quý.

- Tái sinh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng sinh cao quý.

- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.

- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.

- Thân có mùi thơm tỏa ra.

- Miệng có mùi thơm tỏa ra.

- Có trí tuệ nhiều.

- Có trí tuệ sâu sắc.

- Có trí tuệ sắc bén.

- Có trí tuệ nhanh nhẹn.

- Có trí tuệ phong phú.

- Trí tuệ phi thường.

- Nói lời hay có lợi ích…

- Kiếp vị lai có duyên lành gặp Đức Phật, lắng nghe chánh pháp dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh ĐạoThánh QuảNiết Bàn...

Đó là những quả báu phát sinh từ niệm Ân đức Pháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 73)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 150)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 168)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 224)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 204)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 191)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 320)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 531)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 769)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 808)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 813)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 702)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 689)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 690)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 794)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 818)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 917)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 693)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 587)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 688)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 805)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 686)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 791)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 795)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 865)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1044)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1024)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 923)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1177)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1096)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1102)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1244)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1511)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1942)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1055)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1319)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1073)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 925)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1046)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1500)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1255)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1267)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 994)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1157)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant