Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01. Người quy y Nhị Bảo đầu tiên

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10823)
01. Người quy y Nhị Bảo đầu tiên

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển II:
Quy Y Tam Bảo
(TISARANA)


CHƯƠNG IV: QUY Y TAM BẢO (TISARAṆA)

Quy y Tam Bảo là:

- Quy y Phật Bảo (Buddhasaraa)
- Quy y Pháp Bảo
(Dhammasaraa)
- Quy y Tăng Bảo
(Saghasaraa)

Phàm chúng sinh nói chung, con người nói riêng, sinh ra trong đời, nếu không có nơi nương nhờ, thì đời sống phải chịu nhiều nỗi khổ, cả về phần vật chất lẫn tinh thần. Nếu có được nơi nương nhờ cao quý, thì đời sống hưởng được nhiều hạnh phúc an lành. Thật vậy, phần đông những đứa trẻ có đời sống sung sướng, có đầy đủ tiện nghi, là do nương nhờ cha mẹ, gia đình bà con thân quyến nuôi nấng; muốn được nên người tốt có ích cho mình và cho đời, thì cần phải nương nhờ thầy cô dạy bảo.

Để trở thành con người cao thượng cần phải có nơi nương nhờ cao thượng, nơi gọi là cao thượng nhất trong tam giới, trong muôn ngàn thế giới chúng sinh, thì chỉ có Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo mà thôi.

Những người nào có duyên lành đến quy y nương nhờ nơi Tam Bảo: Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, những người ấy gọi là người có nơi nương nhờ cao thượng nhất, trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong Phật giáo. Họ có những quả báu thật cao thượng trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai. Nếu những người ấy có đầy đủ những pháp hạnh ba-la-mật, do tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp, nhất là những kiếp có duyên lành gặp được Đức Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật trong quá khứ, thì kiếp hiện tại này có thể trở thành bậc Thánh Nhân cao thượng trong Phật giáo.

Người quy y Nhị Bảo đầu tiên

Sau khi trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Phật Gotama an hưởng sự an lạc giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần lễ, 49 ngày, quanh Đại cội Bồ đề tại khu rừng Uruvela (Buddhagayā). Đức Phật đang ngự tại gốc cây gọi là Rājāyatana, cách xa Đại cội Bồ đề về phía nam khoảng 4 sải tay. Khi ấy, hai anh em lái buôn là TapussaBhallika hướng dẫn 500 cỗ xe bò, chở hàng hóa từ vùng Ukkalā đến buôn bán tại miền Majjhimapadesa (Trung xứ). Trên đường có vị thiên nữ ở cội cây, đã từng là thân mẫu của hai anh em lái buôn trong tiền kiếp, hiện ra báo tin lành cho hai anh em biết rằng:

- Này hai con, ta báo tin lành cho hai con biết, Đức Phật đã xuất hiện không lâu trên thế gian. Ngài đã nhập Arahán Quả, hưởng an lạc giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần, 49 ngày qua, chưa độ vật thực. Hiện giờ, Ngài đang ngự dưới cội cây gọi là Rājāyatana. Hai con nên đem vật thực đến cung kính cúng dường Đức Phật. Sự cúng dường ấy, sẽ đem lại cho hai con nhiều sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Khi nghe vị thiên nữ báo tin lành, hai anh em lái buôn vô cùng hoan hỷ, sẵn có mang theo món vật thực ngon lành, hai anh em đến hầu đảnh lễ Đức Phật, bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài mở lòng đại bi tế độ, thọ nhận món vật thực này của chúng con, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Đức Phật đã thọ nhận món vật thực của hai anh em lái buôn, bằng cái bát do Tứ Đại Thiên Vương kính dâng Ngài. Ngài đã độ món vật thực ngon lành của hai anh em lái buôn.

Như vậy, hai anh em lái buôn TapussaBhallika là người đầu tiên dâng lễ cúng dường vật thực đến Đức Phật Gotama.

Sujāta kính dâng cúng dường món cơm nấu bằng sữa đến Đức Bồ Tát Siddhattha, trước khi Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác; còn hai anh em lái buôn TapussaBhallika, là người đầu tiên dâng lễ cúng dường vật thực đến Ngài, sau khi Ngài đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Sau khi Đức Phật thọ thực xong, Ngài thuyết pháp tế độ hai anh em lái buôn, họ vô cùng hoan hỷ. Khi ấy, chưa có chư Tỳ-khưu Tăng, nên hai anh em TapussaBhallika xin thọ phép quy y nương nhờ Đức Phật Bảo và Đức Pháp Bảo, bèn bạch rằng:

“Ete maya Bhante, Bhagavanta saraa gacchāma, dhammañca upāsake no Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāupete saraa gate”.

- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con thành kính xin quy y nơi Đức Thế Tôn, và xin quy y nơi Đức Pháp Bảo. Kính xin Ngài công nhận chúng con là người cận sự nam đã quy y Nhị Bảo, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.

Như vậy, hai anh em TapussaBhallika là hai người cận sự nam đã quy y Nhị Bảo đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, gọi là Dvevācikasara-agamana.

Khi ấy, hai anh em lái buôn bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài mở lòng đại bi thương xót chúng con, ban cho chúng con một báu vật, để chúng con hằng ngày luôn luôn tâm niệm, lễ bái cúng dường, để làm cho mọi thiện pháp được tăng trưởng.

Đức Phật đưa tay phải lên đầu nhổ ít sợi tóc gọi là “Xá lợi tócban cho hai anh em lái buôn. Họ vô cùng hoan hỷ, cúi đầu cung kính đưa hai bàn tay đón nhận Xá lợi tóc xong, hai anh em lái buôn đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xin phép ra đi.

Sau khi buôn bán hàng hóa xong, hai anh em trở về vùng Ukkala, đến kinh thành Pokkharavati xây ngôi Bảo Tháp tôn thờ Xá lợi tóc của Đức Phật.

Hiện nay, Xá lợi tóc ấy được tôn thờ tại ngôi Bảo Tháp Shwedagon, thủ đô Yangon, nước Myanmar.

Tuyên dương cận sự nam quy y đầu tiên

Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, tuyên dương hai anh em TapussaBhallika rằng:

“Etadagga Bhikkhave, mama sāvakāna upāsakāna pahama saraa gacchantāna, yadida Tapussa - Bhallikā vaijā”.

“Này chư Tỳ-khưu, trong hàng cận sự nam Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Tapussa và Bhallika lái buôn là hai cận sự nam đã quy y Nhị Bảo đầu tiên trong giáo pháp của Như Lai”.

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại kinh thành Rājagaha, hai anh em lái buôn TapussaBhallika mang hàng hóa trở lại bán trong kinh thành Rājagaha, hai anh em lái buôn đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, lắng nghe Ngài thuyết pháp; người anh Tapussa chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, còn người em Bhallika kính xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài. Về sau, không lâu Ngài Đại đức Bhallika chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Lục thông.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 72)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 146)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 168)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 224)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 190)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 319)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 530)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 801)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 806)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 696)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 687)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 689)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 794)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 816)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 914)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 685)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 587)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 686)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1175)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1092)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1097)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1237)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1508)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1066)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 921)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1044)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1497)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1250)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1261)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 993)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1154)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant