Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02. Người quy y Tam Bảo đầu tiên

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7020)
02. Người quy y Tam Bảo đầu tiên

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển II:
Quy Y Tam Bảo
(TISARANA)


CHƯƠNG IV: QUY Y TAM BẢO (TISARAṆA)

Người quy y Tam Bảo đầu tiên

Công tử Yasa, con của phú hộ trong thành Bārāasi, là một người phú quý vinh hoa, một năm ở trong ba cái lâu đài: bốn tháng mùa lạnh ở một lâu đài, bốn tháng mùa nóng ở một lâu đài, bốn tháng mùa mưa ở một lâu đài, được thụ hưởng đầy đủ ngũ trần. Hằng đêm, các đoàn ca hát, nhảy múa trình diễn cho công tử Yasa xem vui mắt, vui tai. Một hôm, khi đang xem trình diễn, công tử Yasa buồn ngủ; khi các đoàn ca hát nhìn thấy công tử ngủ rồi, tất cả họ đều ngưng, rồi nằm tại nơi sàn diễn ngủ mê. Khi ấy, những ngọn đèn còn đang cháy sáng, công tử thức dậy nhìn thấy trên sàn diễn, có số nàng nằm sóng sượt, có số nàng ngủ ngáy khò khò, có số nàng miệng chảy đầy nước bọt v.v... Công tử suy nghĩ cảm thấy nơi đây như là một bãi tha ma, nghĩa địa đáng kinh hoàng, nên đã phát sinh động tâm (savega), thấy rõ tội lỗi của ngũ trần, nhàm chán ngũ trần. Công tử tự thốt lên rằng:

Upadduta vata Bho!
Upassa
ṭṭha vata Bho!

Chư thiện trí, phiền não thật vô cùng khốn quẩn!
Chư thiện trí, phiền não thật vô cùng nguy khốn
!

Công tử Yasa từ bỏ nhà ra đi. Chư thiên mở cửa để công tử đi ra một cách tự nhiên, không dám làm trở ngại sự xuất gia của công tử. Công tử Yasa đi theo hướng đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana.

Canh chót đêm ấy, Đức Thế Tôn ngự đi kinh hành bên ngoài, nhìn thấy Yasa từ xa đi đến, Ngài dừng lại trải tọa cụ ngồi xuống. Khi ấy, công tử Yasa vừa đi vừa thốt lên:

Upadduta vata Bho!
Upassa
ṭṭha vata Bho!

Chư thiện trí, phiền não thật vô cùng khốn quẩn!
Chư thiện trí, phiền não thật vô cùng nguy khốn
!

Đức Thế Tôn gọi công tử Yasa, bèn dạy rằng:

“Ida kho Yasa anupadduta,
Ida
anupassaṭṭha.
Ehi Yasa nisīda, dhamma
te desessāmi”.

Này Yasa, Niết Bàn không có khốn quẩn!
Niết Bàn không có nguy khốn
!
Này Yasa, con hãy đến ngồi xuống nơi đây
Như Lai sẽ thuyết pháp tế độ con”.

Công tử Yasa lắng nghe tiếng gọi của Đức Thế Tôn, và nghe rõ rằng:

“Ida kira anupaddutam
Ida
anupassaṭṭham”.

Niết Bàn này không có khốn quẩn
Niết Bàn này không có nguy khốn
”.

Công tử Yasa an tâm hoan hỷ, cởi bỏ đôi dép vàng, đi đôi chân trần đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, ngồi lắng nghe Ngài thuyết pháp; sau khi nghe chánh pháp, công tử Yasa phát sinh trí tuệ thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu tại nơi ấy.

Buổi sáng hôm ấy, thân mẫu của công tử Yasa, lên lâu đài không nhìn thấy công tử, liền xuống báo tin cho thân phụ của công tử. Ông phú hộ truyền cho mọi người đi tìm mọi phương hướng, riêng ông đi theo hướng đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần đến khu rừng, ông nhìn thấy đôi dép vàng của công tử cởi bỏ trên đường, nên ông lần đi theo con đường ấy.

Nhìn thấy ông phú hộ từ xa đi đến, Đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Như Lai nên dùng thần thông che khuất Yasa, chưa để cho ông nhìn thấy Yasa”.

Ông phú hộ đến hầu Đức Thế Tôn, bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài có thấy Yasa, người con của gia đình hay không? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Này gia chủ, con hãy ngồi xuống, chính nơi đây, con sẽ gặp được Yasa, người con của gia đình.

Ông phú hộ nghe Đức Thế Tôn truyền dạy như vậy, cảm thấy an tâm hoan hỷ, đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi xuống một nơi hợp lẽ.

Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ ông phú hộ bằng các pháp theo tuần tự: Bố thí, giữ giới, pháp sinh các cõi trời, tội lỗi của ngũ trần, quả báu của sự xa lánh ngũ trần. Khi biết rõ ông phú hộthiện tâm trong sạch, dễ dạy; Đức Thế Tôn thuyết pháp Tứ Đế: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Ông phú hộ phát sinh trí tuệ thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Ông phú hộ tán dương ca tụng Đức Thế Tôn, xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo, bèn bạch rằng:

“Esāha Bhante, Bhagavanta saraa gacchāmi, dhammañca bhikkhusaghañca, upāsaka ma Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāupeta saraa gataṃ”.

Kính bạch Đức Thế Tôn, con thành kính xin quy y nơi Đức Thế Tôn, xin quy y nơi Đức Pháp Bảo, xin quy y nơi chư Tỳ-khưu Tăng Bảo. Kính xin Ngài công nhận con là cận sự nam đã quy y Tam Bảo, kể từ hôm nay cho đến trọn đời”.

Như vậy, ông phú hộ, thân phụ của công tử Yasa, là người cận sự nam đã quy y Tam Bảo đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Gọi là Tevācikasara-agamana.

Khi ngồi lắng nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ thân phụ của mình, công tử Yasa phát sinh trí tuệ thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, tuần tự chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả, cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, tham ái, các ác pháp không còn dư sót. Đức Thế Tôn biết rõ công tử Yasa không bao giờ thoái lui, trở lại cuộc sống tại gia nữa. Ngài liền xả thần thông, thì ông phú hộ nhìn thấy công tử Yasa cũng đang ngồi tại nơi ấy, bèn bảo rằng:

- Này Yasa con, mẹ của con sầu não khóc than, vì không thấy con, con hãy cho lại sinh mạng của mẹ con!

Khi nghe thân phụ của mình nói như vậy, công tử Yasa ngẩng mặt lên nhìn Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn biết rõ ông phú hộ, thân phụ của công tử Yasa, bây giờ là bậc Thánh Nhập Lưu, đã quy y Tam Bảo, đã có đức tin hoàn toàn trong sạch nơi Tam Bảo, không hề lay chuyển. Ngài bèn hỏi ông phú hộ với đại ý rằng:

- Này phú hộ, con nhận thức như thế nào về điều này? Người nào là bậc Thánh Nhập Lưu đã có trí tuệ thiền tuệ, đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Niết Bàn giống như con. Bậc Thánh Nhập Lưu ấy đã tiếp tục tiến hành thiền tuệ, đã dẫn đến tự chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả, cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, tham ái, các ác pháp không còn dư sót.

Này phú hộ, vị Thánh Arahán ấy có thể quay trở lại đời sống thấp hèn của người tại gia, thụ hưởng say mê trong ngũ trần, như đời sống người tại gia trước kia được hay không?

Ông phú hộ bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, điều đó không thể nào có được. Bạch Ngài.

- Này phú hộ, Yasa người con của gia đình là bậc Thánh Nhập Lưu, đã có trí tuệ thiền tuệ, đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Niết Bàn giống như con. Yasa đã tiếp tục tiến hành thiền tuệ, đã dẫn đến chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả, cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, tham ái, các ác pháp không còn dư sót.

Này phú hộ, nay Yasa người con của gia đình là bậc Thánh Arahán không thể quay trở lại đời sống thấp hèn của người tại gia, thụ hưởng say mê trong ngũ trần như đời sống người tại gia trước kia nữa.

Khi Đức Phật thuyết giảng cho ông phú hộ hiểu rõ tâm tính của công tử Yasa bây giờ đã là bậc Thánh Arahán cao thượng, hoàn toàn khác hẳn trước kia là hạng phàm nhân bình thường.

Lắng nghe Đức Phật thuyết giảng, ông phú hộ vô cùng hoan hỷ bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, Yasa, người con của gia đình có được đại phước.

Kính bạch Đức Thế Tôn, Yasa, người con của gia đình có được lợi ích cao thượng. Yasa đã trở thành bậc Thánh Arahán, hoàn toàn giải thoát khỏi khổ trầm luân.

Kính bạch Đức Thế Tôn, con thành kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng Yasa, ngày mai ngự đến thọ thực tại tư gia của chúng con.

Đức Thế Tôn nhận lời bằng cách im lặng.

Ông phú hộ biết Đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh mời của ông, thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn xin phép trở về nhà, thông báo cho gia đình, đã gặp Yasa và thỉnh Đức Phật cùng Yasa ngày hôm sau ngự đến thọ thực tại nhà.

Phụ thân của công tử Yasa vừa rời khỏi nơi ấy, công tử Yasa đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch rằng:

Labheyyāha Bhante Bhagavato santike pabbajja, labheyya upasampada.

- Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài cho phép con được xuất gia trở thành Sadi, Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài.

Đức Thế Tôn quán xét phước thiện tiền kiếp của công tử Yasa xong bèn truyền dạy rằng:

Ehi bhikkhu! Svākkhato dhammo, cara brahmacariya sammā dukkhassa antakiriyāya.

- Con hãy lại đây! Con trở thành Tỳ-khưu theo ý nguyện, chánh phápNhư Lai đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, con hãy thực hành phạm hạnh cao thượng, dẫn đến tận cùng của Khổ Đế.

Khi Đức Thế Tôn truyền dạy vừa dứt lời, công tử Yasa liền trở thành một vị Tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn, phát sinh do phước thiện, trong tăng tướng trang nghiêm, như một vị Đại đức có 60 tuổi hạ.

Khi ấy, Đức Phật và 6 vị Thánh Arahán đã xuất hiện trên thế gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1386)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1398)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1743)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1158)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 947)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1141)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1172)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1397)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1386)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1374)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1252)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant