Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02. Hiện pháp lạc trú - Khải Thiên (Thích Tâm Thiện)

16 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6665)
02. Hiện pháp lạc trú - Khải Thiên (Thích Tâm Thiện)
Hiện Pháp Lạc Trú
Khải Thiên

Bạn thân mến,

Bạn đã được giới thiệu về “phương châm tu tập”, “ý nghĩa của Sám hối”, và “tâm Bồ đề”. Đó chính là những hành trang cần thiết, quan trọng để xây dựng những nhận thức căn bảnthực tiễn cho cuộc sống hạnh phúc cũng như cho cuộc hành trình tâm linh của bạn. Khi đã có đầy đủ những hành trang cần thiết cho tư duy và hành động rồi, bây giờ là lúc bạn có thể đi vào thực tập những pháp môn căn bản không phải để có ý niệm về hạnh phúc hay để lí luận về hạnh phúc, mà để “sống hạnh phúc” ngay bây giờ và ở đây. Một trong những pháp môn được giới thiệu ở đây là “Hiện pháp lạc trú”, một pháp môn thiền định căn bản đã được Đức Phật dạy, và chính bản thân Ngài cũng như các vị Thánh đệ tử cũng thực hành pháp môn này. Những giới thiệu sau đây sẽ giúp bạn hiểu biết thêm phương pháp thực tập pháp môn này.

1. Ý Nghĩa Hiện Pháp Lạc Trú:

Hiện pháp lạc trú là một pháp môn thiền tập căn bản được Đức Phật dạy trong các kinh thuộc về thiền định[i]. Kinh Samiddhi tường thuật một câu chuyện về một vị tăng sỹ trẻ tu tập hiện pháp lạc trú, đại khái như vầy:

Một thời Thế TônVương Xá tại Tapodārāma (Tịnh xá Suối Nước Nóng). Có một Thầy tên là Samiddhi, vào lúc bình minh, thức dậy và đi đến suối nước nóng để tắm gội. Sau khi tắm gội, Thầy ra khỏi suối nước nóng, đứng để phơi mình cho khô rồi mặt áo vào. Lúc bấy giờ, có một vị Thiên nữ với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng suối nước nóng, nói với Thầy Samiddhi rằng:

- “Thầy là một người mới xuất gia, tuổi còn trẻ, tóc còn xanh, đáng lý phải xông ướp hương thơm, trang điểm châu báuthụ hưởng thú vui ở đời, sao thì thầy lại bỏ những người thân, quay lưng lại với cuộc sống thế tục, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, tin tưởng vào con đường xuất gia học đạo. Tại sao lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời như thế?”

- Thầy Samiddhi trả lời với Thiên nữ:

- “Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm đến cái lạc thú chân thật trong hiện tại!” Đức Thế Tôn có dạy: “Trong cái vui phi thời của ái dục, vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái hưởng thụ rất nhỏ mà tai họa rất lớn. Tôi giờ này đang an trú trong hiện pháp, lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy. Hiện pháp này vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình chứng ngộ, tự mình có thể giác tri. Này thiên nữ, đó gọi là bỏ cái lạc thú phi thời để đạt tới cái lạc thú chân thực trong hiện tại.”

- Thiên nữ lại hỏi Thầy Samiddhi:

 “Tại sao Đức Thế Tôn lại nói trong cái vui phi thời của ái dục vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái hưởng thụ rất nhỏ mà mà tai họa rất lớn? Tại sao Đức Thế Tôn lại nói an trú trong hiện pháp là lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình chứng ngộ, tự mình có thể giác tri?”

- Thầy Samiddhi trả lời:

- “Tôi mới xuất gia, không đủ sức giải thích rộng rãi những giáo phápĐức Thế Tôn dạy. Hiện tại Đức Thế Tôn đang cư ngụ gần đây, nơi rừng tre Ca Lan Đà, Thiên nữ có thể đến với Người để trình bày những nghi vấn của mình. Đức Như Lai sẽ dạy cho Thiên nữ chánh pháp để tùy nghi thọ trì.”…[ii]

Qua đoạn trích dẫn ở trên, như bạn thấy, Kinh Samiddhi giới thiệu một chủ đề rất quan trọng về con đường tu tập thực tiễn. Ở đây, chúng ta chỉ giới hạn trong phạm vi của “hiện pháp lạc trú”. Nói một cách ngắn gọn, hiện pháp lạc trú có nghĩa là “an trú trong các pháp của hiện tại”, “sống an lạc trong từng khoảnh khắc của hiện tại”, hay “sống tỉnh thức an lạc bây giờ và ở đây”. Tuy nhiên, “hiện tại” trong “hiện pháp lạc trú” được hiểu là cái “thực tại-hiện tiền”, vượt ngoài thời gian, chứ không phải là cái “hiện tại” trong mối liên hệ của thời gian giữa quá khứ và tương lai. Do đó, an trú trong các pháp hiện tại chính là an trú trong thực tại, bây giờ và ở đây—being in the present.

Trong cụm từ “hiện pháp lạc trú”, trú hay an trú là một yếu tố quan trọng nhấn mạnh đến sự tỉnh thức, vì nếu khôngtỉnh thức thì bạn không thể nào an trú trong thực tại được. Chữ trú ở đây có nghĩa là “sống trong chánh niệm, tỉnh giác”. Phải có chánh niệm, tỉnh giác thì bạn mới có thể thực hành pháp môn “hiện pháp lạc trú”. Đấy là ý nghĩa mà kinh bảo rằng “Hiện pháp này vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình chứng ngộ, tự mình có thể giác tri.” Nói khác đi, đấy chính là nguyên lí cơ bản của đời sống thực tại, một đời sống mà mỗi người “phải tự mình chứng ngộ cho chính mình”. Vì trên con đường tu tập—an trú trong hiện tại, bạn phải là người “tự mình chứng ngộ cho chính mình” và “tự mình biết lấy”, không ai khác có thể làm cho bạn được chứng ngộ. Đấy chính là đời sống kinh nghiệm đặc thù của thiền.

Hãy lấy một thí dụ: khi bạn ăn cơm, có nghĩa là bạn đang thưởng thức hương vị của thức ăn, nhưng trong lúc ăn, tâm của bạn vẫn tiếp tục chạy theo, hoặc bị cuốn hút vào những suy nghĩ hay mơ tưởng về một cái gì đó (tiền bạc, nhà cửa, công việc, con cái…) nên bạn không còn để tâm đến sự thưởng thức hương vị của thức ăn nữa. Điều này được gọi là thất niệm, không có sự an trú trong lúc ăn; có nghĩa là miệng thì ăn cơm, nhưng tâm thì ăn vọng tưởng! Khi nào bao tử của bạn không còn tiếp thọ thức ăn được nữa, thì bạn cho rằng đã no, thế thôi! Và như thế, bữa ăn quả thực là nhạt nhẽo, vì bạn đã không tỉnh thức trong lúc ăn hay nói khác hơn là bạn đã đánh mất cái khả năng thưởng thức hương vị của thức ăn vì tâm của bạn đã mải miết sa đà trong vọng tưởng! Khổng Tử cũng nói rằng: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thinh nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị.” Nghĩa là, khi tâm không an định, thì nhìn mà không thấy, nghe mà không hay, ăn mà không biết mùi vị. Nhưng trái lại, khi ăn trong chánh niệm, tỉnh giác, thì chính bạn là người duy nhất biết rõ hương vị của thức ăn như thế nào, vì bạn là người trực tiếp thưởng thức hương vị của thức ăn. Đấy là ý nghĩatự mình chứng ngộ cho chính mình và tự mình biết lấy!” Do vậy, an trú trong hiện tại là một pháp môn kỳ diệu giúp chúng ta có thể sống hạnh phúctiếp xúc với cuộc thực tại nhiệm mầu ngay bây giờ và ở đây.

Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng, khi thực tập pháp môn này, bạn không thể nuôi dưỡng ý niệm rằng “thôi kệ, bây giờ mình ráng tu tập pháp môn này để mai sau sẽ được an lạc, hạnh phúc!” Nếu suy nghĩ như thế thì bạn có thực tập thêm mười năm hay hai mươi năm nữa bạn vẫn không có an lạc, hạnh phúc, vì hiện pháp lạc trú không phải là một thứ hạnh phúc hứa hẹn của mai sau nào hết. Trái lại, khi thực tập hiện pháp lạc trú, có nghĩa là bạn phải sống tỉnh giác, an lạc ngay trong từng hơi thở, từng bước đi, từng hành động của mình; tất nhiên sự an lạc sẽ tùy thuộc vào mức độ tỉnh thức của bạn. Nếu khi thực tập pháp môn này mà bạn không có an lạc, hạnh phúc ngay trong lúc đang thực tập, như thế là bạn thực tập không đúng. Phải có sự an lạc tỉnh giác trong từng hơi thở của bạn thì mới gọi là hiện pháp lạc trú. Vì vậy, hiện pháp lạc trú không phải là một hình thức “niệm Phật cầu nguyện thật nhiều để mai mốt chết sẽ được vãng sinh về thế giới cực lạc”, mà trái lại bạn phải sống tỉnh thức, sống trọn vẹn, và sống an lạc, hạnh phúc ngay trong từng giây phút của hiện tại.

2. Bạn Đang Sống Như Thế Nào?

Một câu hỏi như thế có thể được đặt ra đối với cuộc sống thực tế của chúng ta. Thử xem, ngoài những giấc ngủ thật sâu, không có mộng mị, bạn đã sống như thế nào? Bạn đã dành bao nhiêu thời gian để sống với hiện tại, tức là sống một cách trọn vẹn với tất cả sự hiện hữu của mình trong từng giây, từng phút? Vâng, rõ ràng thực tế chúng ta đã đánh mất quá nhiều cuộc sống đích thực của mình trong vọng tưởng điên đảo, trong buồn, giận, thương, ghét, trong lo âu, toan tính, trong sân hận, thù oán, trong nuối tiếc quá khứ, trong ước vọng tương lai… và ngay cả trong giờ phút hiện tại này, sự phập phồng trong được, mất, hơn thua, hy vọngsợ hãi vẫn chiếm lĩnh một cách thường trực trong đời sống của chúng ta. Biết bao nhiêu phiền não cứ quyện theo từng mỗi niệm trôi lăn trong tâm hồn, ngay cả khi mình đối diện với chính mình. Tương tự như thế, trong cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc của tình yêu, tiền tài, danh vọng, quyền lực, địa vị… có cái nào mà không chất chứa hay che giấu bên trong chính nó những nỗi lo âu, toan tính, hy vọng và sợ hãi?

Thật vậy, đời sống của chúng ta và ngay cả đến cái mà chúng ta cho là hạnh phúc trong thế giới của dục vọng, bản chất của nó, như Kinh Samiddhi nói, quả thực là “vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái hưởng thụ rất nhỏ mà tai họa rất lớn.” Hãy lấy một thí dụ: bạn thử xem rằng mình đã mất bao nhiêu công sức và sinh lực để có được một tình yêu như ý, một danh vọng như ý, một tài sản như ý… và rằng bạn thực sự đã sống với cái “như ý” đó như thế nào? Rõ ràng, khi nhìn lại như thế, chúng ta không thể nào che giấu được sự phiền muộncay đắng trong cuộc đời của mình mà phần lớn vốn đã bị chiếm đoạt bởi vọng tưởng hoặc nuối tiếc quá khứ hoặc ước vọng tương lai. Đấy là chưa kể đến cái dục tưởng, ái tưởng… của dòng tâm thức hiện tại nó thiêu đốt chúng ta trong những cơn khao khát, thèm muốn các dục. Vì lí do này, để thoát ly mọi phiền não, vọng tưởng và để đạt đến sự an trú vững chắc trong cái hạnh phúc-thực tại, Đức Phật, trong kinh Người Biết Sống Một Mình, đã dạy:

Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng.

Quá khứ đã đoạn tận,

Tương lai lại chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây…

Khi đọc một đoạn kinh ngắn này, bạn có thể sẽ vội vã cho rằng, “quá khứ không truy tìm” là điều dễ hiểu và dễ chấp nhận, nhưng “tương lai không ước vọng” thì quả thật là khó hiểu và khó chấp nhận; vì bạn nghĩ rằng nếu sống mà không nuôi dưỡng những ước vọng tương lai thì cuộc sống sẽ ra làm sao đây? Vâng, khi đặt câu hỏi như thế có nghĩa là cái tập khí tham áichấp thủ đã trỗi dậy trong tâm của bạn, nó bắt đầu lấn át cái thiện niệm hướng đến sự an trú của bạn! Ở đây, trước hết bạn nên ý thức rõ rằng, chúng ta đang học pháp môn hiện pháp lạc trú với mục đích là để có thể an trú trong hiện tại, để xa rời mọi cuồng si, mộng tưởng, và để sống hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây, chứ chúng ta không bàn đến chuyện “từ bỏ” một dự án hay một hoạch định nào. Bạn không nên lẫn lộn điều này!

Trên thực tế, từ bỏ cái thói quen nghĩ ngợi về quá khứmộng tưởng về tương lai quả thực không dễ dàng chút nào đối với một tâm thức đang còn xao động. Cái chướng ngại lớn lao mà nó luôn khuấy động sự an trú trong hiện tại cũng như lấn át nguồn năng lượng chánh niệm, tỉnh giác của bạn chính là sự tham áichấp thủ vào một quá khứ đã qua hay một tương lai chưa đến, cùng với cái bản ngã to tướng choáng hết chỗ trong tâm thức của bạn. Bao lâu bạn còn mải mê hân hoan với những kí ức dĩ vãng, hoặc trôi lăn theo những khát vọng tương lai, thì bấy lâu bạn vẫn phải thăng trầm trong thế giới của mộng tưởng hão huyền! Và như thế, rốt cuộc thì chính bạn là người đánh mất “cuộc sống thực thụ” của mình! Do vậy, để bạn có thể sốngsống hạnh phúc cuộc đời của mình, an trú trong hiện tại là một pháp môn rất bổ ích và thiết thực. Đấy là một con đườngĐức Phật gọi là “Tuệ quán”, tức là sống, an trú trong hiện tại với chánh niệm, tỉnh giác.

3. Chánh Niệm Là Gì?

Chánh niệm là cốt tủy của mọi pháp môn tu tập trong đạo Phật, không phân biệt tông phái truyền thống hay phát triển. Một cách căn bản, chánh niệmnăng lực tỉnh giácnhận biết một cách rõ ràng những gì sinh khởiđoạn diệt trong tâm thức của bạn cũng như những gì đang hiện hữu trong con người của bạn. Do vậy, khi thực tập chánh niệm, thân và tâm của bạn sẽ luôn luôn hợp nhất, thân ở đâu thì tâm ở đó. Nếu thân một nơi tâm một ngã có nghĩa là bạn mất chánh niệm, hay còn gọi là thất niệm, vọng tưởng. Ví dụ: khi bạn ngồi ở nhà mà tâm của bạn thì lang thang ngoài đường, như thế là không có chánh niệm, và bạn đang sống với mộng tưởng! Nhờ vào sự hợp nhất của thân tâm trong khi giữ chánh niệm mà bạn không bị trôi dạt theo vọng tưởng hoặc quá khứ hoặc tương lai. Và bấy giờ bạn sẽ có khả năng an trú trong hiện tạinhận diện được những gì đang sinh khởiđoạn diệt trong thân-tâm (đời sống toàn diện) của bạn. Nếu bạn không thể nhận diện (giác tỉnh) được sự sinh khởiđoạn diệt của từng vọng niệm, bạn sẽ bị trôi lăn theo nó. Chẳng hạn như khi mới ngồi thiền, vài giây đầu bạn có thể giữ chánh niệm, tỉnh giác, nghĩa là bạn biết rõ những gì đang diễn ra (sinh khởiđoạn diệt) trong tâm của bạn; do tỉnh giác, bạn biết là mình đang ngồi thiền nên bạn trở lại tiếp tục nhất tâm, không chạy theo các vọng tưởng nữa. Nhưng ngồi một lúc thì các vọng niệm, mộng tưởng lại khởi lên, và do không tỉnh giác nên bạn đi theo các mộng tưởng đó mãi cho đến khi (nghe chuông hay một tiếng gì đó) giật mình mới biết là mình đã bị thất niệm. Tuy nhiên, nếu ngay hoặc sau khi vọng niệm khởi lên, bạn tỉnh giác được, tiếp tục giữ chánh niệm thì vọng tưởng sẽ tiêu tan ngay. Cho đến khi nào bạn đã an trú một cách vững chải trong từng giây phút của hiện tại, bạn sẽ có khả năng điều chế những năng lực tuệ giác để nhận diện một cách sâu sắc sự sống mầu nhiệm đang có mặt, hay nói khác hơn chính bạn sẽ hòa nhập một cách toàn diện vào đời sống thực tại.

Tuy nhiên, để có chánh niệm, bạn cần phải nỗ lực thực tập theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn khi ăn, bạn hãy nhai từ từ và thưởng thức hương vị của thức ăn, hãy ăn với tất cả sự hỷ lạc của mình, đừng để những suy nghĩ khác (lo âu, toan tính, buồn bực…) len lỏi vào tâm thức trong giờ ăn của bạn. Do đó, bạn cần thực tập giữ chánh niệm, tỉnh giác không những trong khi thiền tập mà ngay cả khi ăn, uống, làm việc, nghỉ ngơi… bạn cần chú tâm trọn vẹn vào công việc mà mình đang làm, mọi lúc, mọi nơi. Điều quan trọng mà bạn nên cố gắng thực tập hàng ngày đó là luôn tỉnh giác nhận biết sự sinh khởiđoạn diệt của từng ý niệm, từng cảm thọ của bạn khi thiền tập cũng như khi làm việc bình thường.

4. Hơi Thở Nhiệm Mầu:

Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, Đức Phật dạy chúng ta thực tập giữ chánh niệm bằng cách an trú theo hơi thở của mình; vì trong những lúc thiền tập hay an tịnh, các căn (giác quan) tạm “dừng nghỉ” chỉ có hơi thở vô/ ra hiện hữu cùng với sự hiện diện của bạn. Trong kinh nghiệm thực tế của thiền, hơi thở được xem như là sợi dây vô hình dùng để cột cái tâm của bạn, giữ nó trú lại ở thân, không để nó phóng ra ngoài hay chạy theo các đối tượng của ý thức. Khi chú tâm theo dõi hơi thở có nghĩa là bạn đã hợp nhất thân và tâm trên sự lưu hành vô/ ra của hơi thở. Đức Thế Tôn dạy rằng: “Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm (để tâm) trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra…” (Kinh Quán Niệm Hơi Thở) Và Ngài đã tuần tự dạy rõ bốn niệm xứ (thân thể, cảm thọ, tâm, và pháp) để bạn có thể thực tập theo từng bước. Bốn niệm xứ được trình bày theo mười sáu đề mục dưới đây:

  • Thở vô dài, tôi biết: “Tôi thở vô dài”. Thở ra dài, tôi biết: “Tôi thở ra dài”.
  • Thở vô ngắn, tôi biết: “Tôi thở vô ngắn”. Thở ra ngắn, tôi biết: “Tôi thở ra ngắn”.
  • “Cảm giác toàn thân, tôi thở vô”— “Cảm giác cả toàn thân, tôi thở ra”.
  • “An tịnh thân hành, tôi thở vô”— An tịnh thân hành, tôi thở ra”.
  • “Cảm giác hỷ thọ, tôi thở vô”— “Cảm giác hỷ thọ, tôi thở ra”.
  • “Cảm giác lạc thọ, tôi thở vô”— “Cảm giác lạc thọ, tôi thở ra”.
  • “Cảm giác tâm hành, tôi thở vô”— “Cảm giác tâm hành, tôi thở ra”.
  • “An tịnh tâm hành, tôi thở vô”— “An tịnh tâm hành, tôi thở ra”.
  • “Cảm giác về tâm, tôi thở vô”— “Cảm giác về tâm, tôi thở ra”.
  • “Với tâm hân hoan, tôi thở vô”— “Với tâm hân hoan, tôi thở ra”.
  • “Với tâm định tĩnh, tôi thở vô”— “Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra”.
  •  “Với tâm giải thoát, tôi thở vô”— “Với tâm giải thoát, tôi thở ra”.
  • “Quán vô thường, tôi thở vô”—“Quán vô thường, tôi thở ra”.
  • “Quán ly tham, tôi thở vô”—“Quán ly tham, tôi thở ra”.
  • “Quán đoạn diệt, tôi thở vô”— “Quán đoạn diệt, tôi thở ra”.
  • “Quán từ bỏ, tôi thở vô”— “Quán từ bỏ, tôi thở ra”.

5. Thiền Tập:

Trên thực tế, khi thực tập pháp môn này, bạn cần có Thầy hướng dẫn cụ thể để tránh những lầm lẫn không tốt. Nếu ở nhà, bạn có thể tìm một nơi yên tịnh, thoáng mát hay ngay trong phòng riêng của mình để thực tập theo các bước sau: Ngồi lên bồ đoàn (gối lót để ngồi, cao khoảng một gang tay), nhớ ngồi thẳng lưng, xếp hai chân theo thế hoa sen (kiết già hoặc bán già, hoặc bạn cũng có thể ngồi trên ghế thả hai chân xuống như bình thường, nhưng lưng phải thẳng), hai tay xếp bằng để tựa dưới bụng. Ngồi một cách thật thoải mái, thư thái, không cố gồng mình, không cố nén hơi thở, cứ để hơi thở tự nhiên. Điều quan trọng là bạn phải cảm nhận được sự an lạc, thảnh thơi, nhẹ nhàng, vững chãi trong tư thế ngồi của bạn trước khi bạn có thể bắt đầu thầm theo dõi (hay niệm) hơi thở vô/ ra của mình theo từng đề mục ở trên. Bạn cần thực tập cho nhuần nhuyễn từng đề mục chứ không nên vội vã; đặc biệt là, trong suốt thời gian hành thiền, bạn phải luôn luôn giữ chánh niệm, tỉnh giác (xem lại phần số 3). Trong lúc thiền mà thất niệm, bạn có thể quay lại từ đầu. Bạn có thể chia mười sáu đề mục này thành bốn niệm xứthực tập từng phần cho nhuần nhuyễn như sau:

Thân niệm xứ:

  • Tôi thở vô dài / ra dài = vô dài / ra dài
  • Tôi thở vô ngắn / ra ngắn = vô ngắn / ra ngắn
  • Cảm giác toàn thân, tôi thở vô / ra = toàn thân vô / ra
  • An tịnh thân hành, tôi thở vô / ra = thân hành vô / ra

Thọ niệm xứ:

  • Cảm giác hỷ thọ, tôi thở vô / ra = hỷ thọ vô / ra
  • Cảm giác lạc thọ, tôi thở vô / ra = lạc thọ vô / ra
  • Cảm giác tâm hành, tôi thở vô / ra = tâm hành vô / ra
  • An tịnh tâm hành, tôi thở vô / ra = tâm hành vô / ra

Tâm niệm xứ:

  • Cảm giác về tâm, tôi thở vô / ra = tâm vô / ra
  • Với tâm hân hoan, tôi thở vô / ra = tâm hân hoan vô / ra
  • Với tâm định tĩnh, tôi thở vô / ra = tâm định tỉnh vô / ra
  •  Với tâm giải thoát, tôi thở vô / ra = tâm giải thoát vô / ra

Pháp niệm xứ:

  • Quán vô thường, tôi thở vô / ra = vô thường vô / ra
  • Quán ly tham, tôi thở vô / ra = ly tham vô / ra
  • Quán đoạn diệt, tôi thở vô / ra = đoạn diệt vô / ra
  • Quán từ bỏ, tôi thở vô / ra = từ bỏ vô / ra

Trong lúc thiền, bất kỳ một ảnh tượng nào xuất hiện trong tâm của bạn đều là ảo giác. Khi biết như vậy, không bám vào nó, tiếp tục trú vào hơi thở, giữ chánh niệm, tỉnh giác, thì cái ảo giác đó sẽ tan biến ngay. Bạn không nhất thiết phải ngồi lâu, tùy vào khả năng của bạn rồi từ từ tăng lên, nhưng ít nhất phải được mười hay mười lăm phút, nếu bạn mới thực tập. Điều cốt yếu của ngồi thiền là làm cho thân-tâm hợp nhất trong sự an tịnh của chánh niệm, tỉnh giác. Nên nhớ rằng, ngồi thiền không phải để “phóng hào quang” mà là để tâm được an tịnh. Khi tâm an tịnh rồi thì tuệ giác sẽ phát sinh một cách tự nhiên. Bên cạnh việc ngồi thiền, bạn có thể thực tập đi thiền (thiền hành) và nằm thiền. Nói chung, trong các thao tác đi, đứng, nằm, ngồi bạn đều có thể ứng dụng pháp môn hiện tại lạc trú và thực hành sống chánh niệm, tỉnh giác.

Bao giờ cũng vậy, bạn nên bắt đầu nhiếp tâm bằng hơi thở. Khi có sân hận nổi lên, bạn cũng nhiếp phục nó bằng hơi thở. Khi có những cảm giác bất an, bạn cũng nên trú vào hơi thở, vì thông qua hơi thở bạn có thể điều phục được cả tâm và thân. Thực tế cho thấy rằng, bất kỳ ai bỏ bạn ra đi, bạn vẫn sống, nhưng nếu hơi thở bỏ bạn ra đi, thì cuộc sống của bạn sẽ kết thúc. Do vậy, hơi thở luôn hiện hữu cùng với bạn trong mọi hoàn cảnh, nó là hiện hữu thân thiết duy nhất luôn thầm thì với bạn, cho dù bạn có để ý đến nó hay không. Và như đã đề cập, hơi thởphương tiện trực tiếp duy nhất mà thông qua đó bạn có thể điều phục được cả thân-tâm. Khi tâm bị rối loạn, bạn có thể điều phục bằng cách nương vào hơi thở vô / ra (như các đề mục ở trên) để làm cho những rối loạn trong tâm lắng dịu. Chuyên chú vào hơi thở càng lâu thì tâm sẽ càng lắng dịu và bình thản trở lại. Cũng vậy, khi thân thể có những cảm giác bất an, bạn cũng có thể dùng hơi thở để xoa dịu bằng cách hít vô và thở ra thật sâu, thật đều. Làm như thế một hồi, bạn sẽ lấy lại sự quân bình, thanh thản và tự tin. Hơi thở rất quan trọng trong việc trị liệu các phiền não nội tại. Chẳng hạn, do an trú trong sự vô ra đều đặn của hơi thở mà những tâm sân si, nóng nảy, giận dữ sẽ được giảm thiểu rất nhiều. Đây là cách trị liệu rất đặc biệt và rất hiệu nghiệm. Nhất là, trong lĩnh vực thiền quán, chuyên chú vào sự luân lưu của hơi thở như vô / ra, dài / ngắn hay tỉnh chỉ (hơi thở rất tinh tế) sẽ giúp bạn nhận diện được sự thật vô thường của chính chiếc thân năm uẩn này. Bạn sẽ có cơ hội để thấy rằng, thân thể con người rất mong manh. Nó mong manh như là chính hơi thở vậy, có ra mà không có vào thì coi như mọi chuyện chấm dứt. Cho đến, những cảm thọ, vui, buồn, khổ, lạc và các uẩn khác cũng đều mong manh như vậy. Do tự thân chứng nghiệm sự vô thường trong từng hơi thở, bạn lại có cơ hội để nhiếp phục các tâm tham ái, chấp thủ, tranh chấp hơn thua, lo âu, sợ hãi… Song song với quán niệm vô thường, bạn nên khởi tâm đại bi đến với muôn loài chúng sinh. Điều này rất quan trọng, vì sống-an trú trong tâm đại bi, bạn sẽ có khả năng phát triển tâm khoan dung, tha thứ, hỷ xả…; chính bản chất của những tâm thức này là nền tảng của sự an lạc. Nó sẽ nuôi lớn thánh tâm của bạn và giúp bạn vượt qua mọi ưu phiền. Hơi thở và tâm đại bi là chuyếc thuyền hộ mệnh để bạn vượt qua mọi giông tố của phiền não trong cuộc sống khi thực tập hiện pháp lạc trú.

Nói tóm lại, hiện pháp lạc trú là một pháp môn nhiệm mầu giúp bạn sống hạnh phúc trong dòng thực tại hiện tiền ngay bây giờ và ở đây. Chánh niệm, tỉnh giácan trú trong từng nhịp thở là con đường thoát ly mọi khổ đau ngay trong con người hiện tại này và cuộc sống hiện tại này. Trú trong sự nhất tâm- an định, không một phiền não nào có thể làm xao động cuộc sống tỉnh giác và niềm phúc lạc nội tại của bạn. Vì trong một niệm nhất tâm, bạn có thể vượt qua mọi thăng trầm của thế gian và sống tự tại giữa thế gian với tuệ giác vô ngã. Trong Kinh Itivuttaka, Đức Phật dạy: “Người đã tiêu trừ ảo kiến và phá tan lớp tối tăm dày đặc trong tâm sẽ không còn thênh thang đi mãi. Đối với người ấy, vấn đề nhân và quả không còn nữa.” Cầu mong bạn thành tựu hiện pháp lạc trú.

(Trích: Khai Thien, Foundation of Your Spiritual Journey)



[i] Dưới đây là một số kinh căn bản trong đó Đức Phật dạy về thiền tập, bao gồm kinh: Nhập Tức Xuất Tức Niệm (Ānāpānasati Sutta), Trung Bộ III - Hán tạng: Trị Ý Kinh, Ðại I, 919; Kinh Thân Hành Niệm, Niệm Thân Kinh (Kāyagatāsati Sutta), Trung Bộ III - Trung A-hàm số 81, Ðại I, 554c; Kinh Niệm Xứ (Satipathāna Sutta), Trung Bộ I - Hán tạng: Niệm Xứ Kinh, Ðại I, 582b, Trung A-hàm số 98; Kinh Song Tầm (Dvedhāvitakka Sutta), Trung Bộ I - Hán Tạng: Niệm Kinh, Ðại I, 589d, Trung A-hàm số 102; Kinh An Trú Lâm (Vitakkasanthāba Sutta), Trung Bộ I - Hán tạng: Kinh Tăng Thượng Tâm, Ðại I, 158a, Trung A-hàm số 101; Trường bộ, kinh số 22; Tương Ưng I. Kinh Samiddhi (Samyutta Nikaya) tham khảo Tạp A Hàm, 99, các kinh số 803, 810, và 815, Tương Ưng V, Thiên Ðại Phẩm (Mahāvagga). Trung Bộ, Kinh Người Biết Sống Một Mình (Bhaddekaratta Sutta), 131.

[ii] Tóm tắt từ bản dịch Kinh Samiddhi của Thích Minh Châu và Thích Nhất Hạnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11048)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12093)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12323)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20475)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12341)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12357)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11633)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11506)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22307)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13483)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29482)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11444)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16588)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11896)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16732)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 11983)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17845)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12515)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13045)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14657)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22482)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10488)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 13955)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13792)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13625)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13785)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13815)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14730)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13707)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18288)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22652)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15278)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17190)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22302)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14157)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12476)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11063)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17649)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13094)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 12992)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18687)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17060)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13380)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12807)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14583)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14545)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15740)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13405)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27274)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13074)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16583)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21288)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18685)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
(Xem: 22952)
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp khôngtự tính cá biệt.
(Xem: 19961)
Ðọc Bát Nhã Tâm Kinh, tôi thấy như có một luồng gió mới, nó phá bỏ tất cả quan niệm, chối bỏ luôn cả cái hiện hữu. Tôi viết bài nầy theo sự hiểu biết đơn giản của tôi...
(Xem: 9358)
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana, Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh; Nhà xuất bản Phương Đông
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant