Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

09. Sự Tích Giữ Gìn Ngũ Giới

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6749)
09. Sự Tích Giữ Gìn Ngũ Giới

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA


Ngũ Giới Là Thường Giới (Pañcasīla Niccasīla)

Sự Tích Giữ Gìn Ngũ Giới

* Trích sự tích Ngài Đại đức Pañcasīlasamādāniyatthera([1]) thuật lại chuyện tiền kiếp của Ngài, được tóm lược như sau­:

Trong thời quá khứ xa xưa, khi Đức Phật Anomadassī([2]) xuất hiện trên thế gian, tôi là người nghèo khổ ở trong thành Candavati, sống bằng nghề làm thuê làm mướn cho người khác. Tôi chưa có duyên lành xuất gia trở thành Tỳ khưu, nhưng tôi suy nghĩ rằng: “Chúng sinh sống trong đời này, thường bị màng vô minh che trùm phủ kín, tối tăm không hiểu biết được chân lý, thường bị lửa tham, sân, si thiêu đốt không ngừng, luôn luôn chịu khổ não. Ta sẽ giải thoát khổ bằng cách nào đây?”. Tôi vốn là người nghèo khổ, làm thuê làm mướn vừa đủ sống qua ngày, không có của cải để làm phước thiện bố thí; nên tôi suy nghĩ rằng: “Điều tốt hơn ta nên thọ trì ngũ giớicố gắng giữ gìn ngũ giới cho được trong sạchtrọn vẹn”. Suy nghĩ như vậy, tôi liền đến hầu Ngài Đại đức Nisabha, bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Anomadassī, kính xin thọ trì ngũ giới. Ngài đã hướng dẫn tôi thọ phép quy y Tam Bảothọ trì ngũ giới. Vào thời đại ấy, tuổi thọ con người khoảng 100.000 (một trăm ngàn) năm, tôi đã cố gắng giữ gìn ngũ giới hoàn toàn trong sạchtrọn vẹn cho đến trọn đời. Khi sắp lâm chung (sắp chết) tôi niệm tưởng đến ngũ giới hoàn toàn trong sạchtrọn vẹn của tôi, nên chư thiêncõi trời Tam Thập Tam Thiên đem một cỗ xe sang trọng gồm có 1.000 con ngựa báu đến rước. Sau khi chết, thiện nghiệp giữ ngũ giới trong sạchtrọn vẹn ấy cho quả tái sinh lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Tôi đã làm Đức vua trời cõi Tam Thập Tam Thiên suốt 30 kiếp, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy. Khi tái sinh làm người trong cõi người, tôi trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương suốt 75 kiếp, và Đức vua trị vì các nước lớn trải qua nhiều kiếp không sao kể xiết.

─ Ngài Đại đức Pañcasīlasamādāniyatthera thuật lại rằng:

Tôi đã giữ gìn ngũ giới trong sạchtrọn vẹn, từ thời kỳ Đức Phật Anomadassī cho đến kiếp hiện tại này, trải qua thời gian 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, tôi không từng tái sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), kiếp nào cũng tái sinh trong cõi thiện dục giới (cõi người, cõi trời). Khi tái sinh trong cõi nào, tôi cũng có địa vị cao quý, hưởng mọi sự an lạc trong cõi ấy cho đến hết tuổi thọ. Đó là do năng lực quả báu của phước thiện giữ ngũ giới hoàn toàn trong sạchtrọn vẹn của tôi. Tôi còn có 3 quả báu đặc biệt là:

Là người sống lâu trường thọ.

Là người có địa vị cao quý, giàu sang phú quý.

Là người có nhiều trí tuệ.

Vào thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, tôi ở trên cõi trời dục giới, sau khi từ giã cõi trời ấy, thiện nghiệp giữ gìn ngũ giới trong sạchtrọn vẹn ấy, cho quả tái sinh làm người trong gia đình thuộc dòng dõi Bàlamôn giàu sang phú quý trong xứ Vesālī. Gần đến ngày nhập hạ, cha mẹ dắt dẫn tôi đến hầu đảnh lễ Đức Phật, cha mẹ bảo tôi kính xin thọ phép quy y Tam Bảongũ giới. Vâng lời cha mẹ, tôi kính xin thọ phép quy y Tam Bảongũ giới. Khi ấy, tôi niệm tưởng lại ngũ giới, do năng lực của ngũ giới mà tôi đã giữ gìn trong sạchtrọn vẹn từ kiếp quá khứ xa xưa. Chính tại nơi đang ngồi thọ trì ngũ giới ấy, tôi liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán. Khi ấy tôi vừa mới lên 5 tuổi. Đức Phật đã biết rõ duyên lành của tôi, Ngài cho tôi xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài. Tôi đã giữ gìn ngũ giới trong sạch đầy đủ và trọn vẹn đến trọn đời, mà được hưởng quả báu của thiện nghiệp ngũ giới như vậy. Còn như chư vị Sadi, chư Tỳ khưu, chư bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Phật có rất nhiều điều giới, thì quả báu của thiện nghiệp giữ giới nhiều biết dường nào kể xiết được.

Những Sự Tích Liên Quan Mỗi Giới

1- Sự tích người phạm điều giới sát sinh

Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế gian, một cận sự nam tên Mahākāla là bậc Thánh Nhập Lưu, bị vu oan giá họa là kẻ trộm cắp, với tang chứng rõ ràng, và ông bị đánh chết. Câu chuyện được tóm lược như sau: Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, khi ấy một người cận sự nam Mahākāla([3]) là bậc Thánh Nhập Lưungũ giới hoàn toàn trong sạchtrọn vẹn; ông thường thọ bát giới (uposathasīla) vào những ngày giới hằng tháng. Hôm ấy, nhằm vào ngày giới (uposathasīla), ông cận sự nam Mahākāla đến ngôi chùa Jetavana xin thọ bát giới xong, rồi ở lại chùa nghe pháp, hành thiền suốt đêm, gần sáng ông mới trở về nhà. Khi ra khỏi chùa Jetavana, ông đến hồ nước trước cổng chùa để rửa mặt. Trong đêm ấy, bọn trộm cắp lén vào một nhà trong thành lấy trộm của cải, tài sản. Người chủ nhà hay biết thức dậy, bọn trộm cắp liền mang theo của cải chạy trốn thoát. Người chủ nhà cho người đuổi theo bọn trộm cắp khắp các ngõ đường. Một tên trong bọn chạy dọc theo ven đường đến chùa Jetavana, biết đằng sau có người đuổi theo mình và không thể mang theo gói của cải đã lấy trộm, nên liền ném gói đồ xuống hồ nước, để nhẹ người chạy thoát thân cho nhanh. Chẳng may gói đồ lấy trộm ấy lại rơi đúng gần bên cạnh ông cận sự nam Mahākāla đang ngồi rửa mặt lúc rạng đông. Khi ấy, nhóm người chủ nhà đến, nhìn thấy gói của cải lấy trộm nằm bên cạnh ông cận sự nam Mahākāla, chúng bắt ông cận sự nam Mahākāla rồi bảo rằng:

─ Đêm qua, ngươi vào nhà lấy trộm của cải của chúng tôi, có tang chứng rõ ràng, ngươi đừng giả vờ, đêm qua đã ở chùa giữ giới, nghe pháp, hành thiền trở về.

Người cận sự nam Mahākāla bị đánh đập đến chết, rồi chúng bỏ thây bên hồ nước. Buổi sáng hôm ấy, một số Tỳ khưu trẻ và Sadi mang nồi đi lấy nước ở hồ, nhìn thấy tử thi của ông cận sự nam Mahākāla, rồi bảo nhau rằng:

─ Ông cận sự nam Mahākāla giữ bát giới, nghe pháp, hành thiền suốt đêm hôm qua tại chùa; nay ông bị đánh đập chết oan, thật không công bằng.

Chư Tỳ khưu đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch về cái chết oan của ông cận sự nam Mahākāla. Đức Phật dạy rằng:

─ Này chư Tỳ khưu, người cận sự nam Mahākāla bị chết như vậy là không công bằng ở kiếp hiện tại này, nhưng lại công bằng theo ác nghiệp sát sinh của người cận sự nam Mahākāla đã tạo trong kiếp quá khứ.

Chư Tỳ khưu, Sadi lắng nghe Đức Phật dạy như vậy, liền đảnh lễ Đức Thế Tôn, kính thỉnh Ngài thuyết giảng về ác nghiệp sát sinh nào của người cận sự nam Mahākāla đã tạo trong kiếp quá khứ.

* Tiền kiếp của người cận sự nam Mahākāla đã tạo ác nghiệp sát sinh như thế nào?

Trong thời kỳ quá khứ, trong nước của Đức vua Bāraṇāsi, vùng biên giới có bọn cướp ẩn náu thường quấy nhiễu dân chúng qua lại, cướp của giết người; nên Đức vua truyền phái một đội binh lính đến vùng biên giới, đặt trạm canh phòng làm phận sự dẫn đường đưa dân chúng đi lại từ vùng này đến vùng khác, để bảo vệ dân chúng được an toàn cả sinh mạng lẫn của cải. Một hôm, có đôi vợ chồng trẻ, người vợ rất xinh đẹp đi trên một chiếc xe bò nhỏ đến trạm canh phòng lúc về chiều. Người trạm trưởng nhìn thấy người vợ trẻ xinh đẹp đem lòng thương yêu, và ganh tỵ với người chồng trẻ. Hai vợ chồng trẻ yêu cầu người trạm trưởng cho lính dẫn đường sang vùng bên kia. Người trạm trưởng đang có mưu đồ đen tối xấu xa, nên đã từ chối một cách khéo léo rằng:

─ Này anh chị, trời sắp tối rồi, đợi sáng mai tôi sẽ cho lính đưa anh chị đi sớm.

Hai vợ chồng trẻ khẩn khoản năn nỉ nhờ người trạm trưởng cho lính dẫn đường đi ngay lúc đó, bởi vì, thời gian còn đi lại được, hai vợ chồng trẻ cũng có công việc gấp, nên không muốn về nhà trễ. Người trạm trưởng có mưu đồ đen tối xấu xa, nên vẫn tiếp tục khuyên hai vợ chồng trẻ rằng:

─ Này anh chị, tối nay xin mời anh chị về nhà tôi nghỉ lại, sáng sớm tôi sẽ cho lính dẫn đường đưa anh chị đi.

Hai vợ chồng trẻ không còn cách nào khác, nên đành phải đến nhà người trạm trưởng, tạm ở lại qua đêm. Người trạm trưởng mời hai vợ chồng trẻ nghỉ trọ trong nhà khách, tiếp đãi cơm nước rất đàng hoàng, tử tế. Ban đêm, khi hai vợ chồng đang ngủ say, người trạm trưởng lén đem viên ngọc maṇī giấu vào chiếc xe nhỏ của họ. Gần rạng đông, người trạm trưởng kêu la lên là có kẻ trộm lén vào nhà lấy viên ngọc maṇī quý giá, rồi cho người nhà đi lục soát tìm khắp mọi nơi. Lúc ấy, hai vợ chồng trẻ thức dậy đang sửa soạn chiếc xe bò nhỏ để đi sớm, người trạm trưởng bảo người nhà lục soát trong chiếc xe bò nhỏ, nhìn thấy viên ngọc maṇī giấu trong chiếc xe. Chúng bảo với hai vợ chồng trẻ rằng:

─ Ngươi lấy trộm viên ngọc maṇī quý của chủ ta, rồi sáng sớm định sửa soạn chạy trốn thoát hay sao!

Chúng liền bắt người chồng trẻ đem đến trình chủ là người trạm trưởng rồi thưa rằng:

─ Thưa ông chủ, chúng tôi bắt được người này lấy trộm viên ngọc maṇī của ông, đây là viên ngọc maṇī tang chứng rõ ràng.

Người trạm trưởng quở mắng người chồng trẻ rằng:

─ Ta đã cho vợ chồng ngươi đến nghỉ đêm nhà ta, cho ăn uống tử tế, thế mà ngươi không biết ơn, còn lén vào nhà lấy trộm viên ngọc maṇī quý giá của ta.

Ông chủ trạm sai bảo người nhà đánh đập người chồng trẻ đến chết, đem thây vào bỏ trong rừng…, rồi bắt người vợ trẻ xinh đẹp làm vợ của mình. Người trạm trưởng sau khi chết, ác nghiệp sát sinh ấy cho quả tái sinh vào đại địa ngục Avīci, bị thiêu đốt, bị hành hạ chết đi rồi tái sinh trở lại trong địa ngục, chịu bao nỗi khổ cực suốt thời gian trong cõi địa ngục, do ác nghiệp mà mình đã tạo, cho đến khi mãn quả ác nghiệp mới thoát ra khỏi cõi địa ngục. Do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh trở lại làm người, kiếp nào cũng bị vu oan giá họa, rồi bị đánh đập đến chết suốt 100 kiếp. Người trạm trưởng phạm điều giới sát sinh trong thời quá khứ, chính là tiền kiếp của người cận sự nam Mahākāla. Do nhờ thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, người cận sự nam Mahākāla đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, song quả của ác nghiệp sát sinh còn có năng lực dư sót, nên kiếp hiện tại này bị vu oan giá họa, rồi bị đánh đến chết như vậy. Do đó, người cận sự nam Mahākāla bị đánh chết là công bằng theo ác nghiệp sát sinh của ông đã tạo trong kiếp quá khứ (khi làm người trạm trưởng).

* Sự tích người phạm điều giới sát sinh và gây oan trái

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, khi ấy Đức Thế Tôn thuyết giảng đề cập đến nữ Dạ xoa Yakkhinī([4]), được tóm lược như sau: Một đôi vợ chồng không có con, người vợ lớn đi tìm một người đàn bà về làm vợ nhỏ cho chồng, để sinh con nối dònggiữ gìn của cải, tài sản gia đình. Khi tìm được người vợ nhỏ cho chồng, người vợ lớn lại nghĩ rằng: “Nếu người vợ nhỏ có con, thì tất cả của cải, tài sản đều thuộc về người vợ nhỏ”. Nên bà vợ lớn bảo với bà vợ nhỏ rằng:

─ Khi nào em có thai, hãy báo cho chị biết.

Vâng lời bà vợ lớn, khi có thai, bà vợ nhỏ liền báo cho bà vợ lớn biết. Bà vợ lớn làm thuốc phá thai trộn lẫn vào thức ăn, đồ uống cho bà vợ nhỏ dùng, nên người vợ nhỏ đã bị hư thai lần thứ nhất. Người vợ nhỏ có thai lần thứ nhì, cũng như lần trước người vợ nhỏ liền báo cho người vợ lớn biết, người vợ lớn làm thuốc phá thai làm cho người vợ nhỏ bị hư thai lần thứ nhì. Người vợ nhỏ có thai lần thứ ba, bà nghĩ rằng: “Ta đã bị hư thai hai lần là bởi do bà vợ lớn, lần này ta không báo cho bà vợ lớn biết”. Cái thai trong bụng của bà vợ nhỏ càng ngày càng lớn dần; bà vợ lớn biết vậy, liền quở trách bà vợ nhỏ rằng:

─ Tại sao em có thai, mà không báo cho chị biết!

Bà vợ nhỏ thưa rằng:

─ Hai lần trước em có thai, báo cho chị biết, chị cho uống thuốc làm cho em hư thai hai lần, cho nên, lần này em không dám báo cho chị biết.

Bà vợ lớn sẵn có mưu đồ đen tối xấu xa, nên bà tìm cơ hội lúc bà vợ nhỏ sơ hở, bà trộn thuốc vào thức ăn, đồ uống; bà vợ nhỏ không biết nên ăn uống vào, làm cho bào thai bị hư. Lần này bào thai không thể ra ngoài được, làm cho bà vợ nhỏ phải chết. Trước khi chết, bà vợ nhỏ nguyện kết oan trái với bà vợ lớn rằng: “Kiếp này, ngươi đã hại ta hai lần bị hư thai, lần thứ ba này, ngươi không chỉ làm cho ta bị hư thai, mà còn sát hại sinh mạng của ta nữa. Kiếp sau ta sẽ sát hại con của ngươi và cả ngươi nữa”. Sau khi bà vợ nhỏ chết, với tâm oan trái trả thù, do ác nghiệp ấy cho quả tái sinh làm con mèo cái trong gia đình ấy.

* Oan trái gây oan trái lẫn nhau

Người chồng biết được người vợ lớn là thủ phạm đã hai lần làm người vợ nhỏ bị hư thai, lần này không chỉ làm hư thai, mà còn làm người vợ nhỏ chết; ông nổi giận đánh đập người vợ lớn đến chết. Sau khi người vợ lớn chết, ác nghiệp sát sinh cho quả tái sinh làm con gà mái cũng ở trong gia đình ấy. Khi gà mái đẻ trứng ra, cả hai lần đều bị con mèo cái đến ăn trứng; đến lần thứ ba, sau khi ăn trứng xong, con mèo cái vồ con gà mái cắn cổ chết rồi ăn thịt gà luôn. Con gà mái trước khi chết nguyện gây oan trái với con mèo cái rằng: “Kiếp này, ngươi đã ăn trứng của ta hai lần, lần thứ ba này, ngươi không chỉ ăn trứng của ta mà còn giết ta ăn thịt nữa. Kiếp sau ta sẽ sát hại con của ngươi và cả ngươi nữa”. Con gà mái sau khi chết, ác nghiệp oan trái trả thù cho quả tái sinh làm con cọp cái. Còn con mèo cái sau khi chết, do ác nghiệp sát sinh cho quả tái sinh làm con nai cái. Khi con nai cái sinh con lần thứ nhất, con cọp cái tìm đến ăn thịt nai con; khi con nai cái sinh con lần thứ nhì, con cọp cái cũng tìm đến ăn thịt nai con; khi con nai cái sinh con lần thứ ba, lần này con cọp cái tìm đến không chỉ ăn thịt nai con, mà còn bắt nai mẹ giết chết ăn thịt nữa. Con nai mẹ trước khi chết, nguyện kết oan trái với con cọp cái rằng: “Kiếp này, ngươi đã ăn thịt con của ta hai lần, lần thứ ba này, ngươi đã ăn thịt con ta lại còn giết ta ăn thịt nữa. Kiếp sau, ta sẽ sát hại con của ngươi và cả ngươi nữa”. Con nai cái sau khi chết, thiện nghiệp khác cho quả tái sinh làm nữ Dạ xoa Yakkhinī ở phương Bắc thuộc cõi trời Tứ Đại Thiên Vương. Còn con cọp cái sau khi chết, thiện nghiệp khác cho quả tái sinh làm con gái của một gia đình trong kinh thành Sāvatthi. Khi nàng trưởng thành khôn lớn có chồng, và sống ở bên gia đình chồng. Lúc nàng sinh đứa con thứ nhất, nữ Dạ xoa theo dõi biết rõ, rồi biến hóa thành người bạn thân đến thăm nàng. Nhìn thấy con nàng, nữ Dạ xoa liền bắt đứa con của nàng để ăn thịt. Nàng sinh đứa con lần thứ nhì, nữ Dạ xoa theo dõi biết, liền xuất hiện đến bắt đứa con của nàng để ăn thịt như lần trước. Khi nàng có thai lần thứ ba, gần đến ngày sinh, nàng bàn tính với chồng, xin về nhà cha mẹ của nàng để sinh con; bởi vì nếu nàng sinh ở đây, thì nữ Dạ xoa sẽ đến bắt con của nàng để ăn thịt như hai lần trước. Người chồng đồng ý, hai vợ chồng cùng đưa nhau về bên nhà cha mẹ nàng để sinh con. Khi nàng sinh đứa con và làm lễ đặt tên cho con xong, hai vợ chồng bồng đứa con trở về lại bên nhà chồng. Trên đường đang trở về nhà, khi đi ngang qua ngôi chùa Jetavana, nàng nhìn thấy nữ Dạ xoa đang đi tìm nàng, để bắt đứa con của nàng; nàng hoảng sợ quá, liền bồng đứa con chạy vào chùa trốn thoát. Khi ấy, Đức Thế Tôn đang thuyết pháp tế độ chúng sinh, nàng bồng đứa con đến gần Đức Thế Tôn rồi đặt đứa con phía dưới đôi bàn chân của Ngài, bèn bạch rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin kính dâng đứa con này đến Ngài, cầu xin Ngài rải tâm đại bi cứu mạng đứa con của con.

Lúc này, bên ngoài cửa ngôi chùa, chư thiên giữ cửa cấm không cho nữ Dạ xoa đi vào trong ngôi chùa Jetavana. Đức Thế Tôn truyền dạy Ngài Đại đức Ānanda cho gọi nữ Dạ xoa được phép vào hầu Ngài. Khi nữ Dạ xoa đi vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn. Nhìn thấy nữ Dạ xoa, nàng hoảng sợ vô cùng, khóc la bèn bạch rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, nữ Dạ xoa.

Đức Thế Tôn khuyên dạy, trấn an tâm của nàng rằng:

─ “Này con! Con đừng sợ, không có điều tai hại nào xảy đến cho đứa con của con và con đâu!”

Khi ấy, Đức Thế Tôn khuyên dạy nữ Dạ xoa rằng:

─ “Này các con! Nếu các con không đến gặp Như Lai, thì sự oan trái giữa các con sẽ tiếp diễn mãi mãi. Tại sao các con oan trái trả thù lại bằng oan trái? Sự thật, sự oan trái được dập tắt bằng sự không oan trái, chứ không phải dập tắt bằng sự oan trái”.

Đức Phật thuyết câu kệ rằng: “Na hi verena verāni, sammantīdha kudācanaṃ. Averena ca sammanti, esa dhammo sanantano”([5]). Trong đời này những sự oan trái, Chẳng bao giờ dập tắt oan trái, Bằng hành động oan trái đáp lại. Sự oan trái chỉ được dập tắt, Bằng sự không oan trái mà thôi. Đó là pháp có từ ngàn xưa, Của chư bậc thiện trí cao thượng. Sau khi lắng nghe câu kệ xong, nữ Dạ xoa liền chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, và các hàng đệ tử cũng được nhiều lợi ích, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn tùy theo trí tuệ ba-la-mật của mỗi người. Bắt đầu từ khi ấy, sự oan trái hoàn toàn bị dập tắt, tâm từ và nhẫn nại phát sinh giữa nữ Dạ xoa và nàng có đứa con, họ thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau thương yêu đứa con nhỏ.

Tóm lược tiến trình thay đổi qua mỗi kiếp và gây oan trái

hanhgioi-01

Vấn: Sự khác nhau giữa oan trái và ác nghiệp như thế nào?

Đáp: Người gây oan trái chắc chắn tạo ác nghiệp. Người tạo ác nghiệp, có khi có oan trái, có khi không có oan trái. Oan trái có thể dập tắt bằng sự không oan trái; còn ác nghiệp không thể dập tắt bằng thiện nghiệp, song thiện nghiệp có khả năng làm giảm bớt tiềm lực cho quả của ác nghiệp. Vấn: Hai người đàn bà gây oan trái với nhau, những đứa con của mỗi người có liên quan gì mà phải chịu khổ? Đáp: Cái thai (của người vợ nhỏ), trứng gà (của gà mái), nai con (của nai cái), đứa con (của người đàn bà) không liên quan trực tiếp đến oan trái của người mẹ, mà chịu ảnh hưởng gián tiếp về quả của ác nghiệp của mẹ mình. Những người con còn nhỏ thường chịu ảnh hưởng quả của thiện nghiệp, ác nghiệp của cha mẹ. Nếu cha mẹ giàu có, thì đứa con sinh ra được sống sung túc; nếu cha mẹ nghèo khổ, thì đứa con sinh ra chịu cảnh thiếu thốn. Ngược lại có trường hợp đặc biệt, cha mẹ chịu ảnh hưởng quả của thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp của người con, từ khi mới đầu thai hoặc khi sinh ra đời rồi. Ví như:

Trường hợp Ngài Đại đức Sīvali, khi Ngài đầu thai vào lòng mẹ là bà Suppavāsa, công nương dòng Koliya; trong nhà các kho của cải lúc nào cũng đầy đủ, sung túc, không bao giờ thấy bị hao hụt, giảm bớt chút nào. Đó là quả của thiện nghiệp của Ngài làm ảnh hưởng tốt lành đến gia đình cha mẹ của Ngài và những người thân trong dòng họ.

Trường hợp Ngài Đại đức Losaka, khi Ngài đầu thai vào một gia đình trong xóm dân chài gồm 500 gia đình; từ khi Ngài đầu thai, không chỉ gia đình cha mẹ của Ngài phải chịu cảnh đói khổ thiếu thốn, mà còn ảnh hưởng đến 500 gia đình trong xóm dân chài ấy cũng phải chịu cảnh đói khổ thiếu thốn nữa. Đó là quả của ác nghiệp của Ngài gây ảnh hưởng đói khổ đến gia đình cha mẹ của Ngài và những gia đình trong xóm dân chài.

Bậc Thánh Arahán không tránh khỏi quả ác nghiệp sát sinh

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh thành Rājagaha, đề cập đến sự tích Ngài Đại đức Mahāmoggallāna, bị bọn cướp sát nhân đánh đập Ngài cho đến gần chết, phải tịch diệt Niết Bàn. Câu chuyện được tóm lược như sau: Nhóm ngoại đạo tà giáo hội họp lại với nhau, cùng nghĩ rằng: “Sở dĩ chúng ta mất nhiều lợi lộc cúng dường là vì Đại đức Mahāmoggallāna xuất hiện lên cõi trời hỏi các chư thiên, khi ở cõi người đã tạo thiện nghiệp nào, mà nay được hưởng mọi sự an lạc như thế này; hoặc gặp các loài ngạ quỷ hỏi kiếp trước đã tạo ác nghiệp nào, mà nay phải chịu khổ như thế này v.v… Ngài tường thuật lại cho dân chúng nghe và họ tin theo Ngài, nên phần đông họ chỉ làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng đệ tử của Đức Phật mà thôi. Do đó chúng ta càng ngày càng mất nhiều lợi lộc cúng dường. Chúng ta nên tìm cách giết hại Đại đức Mahāmoggallāna, rồi chúng ta sẽ có lại những lợi lộc cúng dường như trước đây”. Nhóm ngoại đạo tà giáo đều đồng tâm nhất trí, họ thuê mướn bọn cướp sát nhân với số tiền trên 1.000 (một ngàn) đồng kahāpana (tiền Ấn Độ thời xưa) để giết hại Đại đức Mahāmoggallāna. Bọn cướp đồng ý làm theo sự yêu cầu của nhóm ngoại đạo tà giáo. Bọn chúng kéo nhau đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại đức Mahāmoggallāna tại làng Kāḷasila. Ngài vốn là bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, đệ nhất xuất chúng về thần thông. Khi biết bọn cướp đến vây hãm, Ngài bay lên hư không, cho nên bọn chúng vào không thấy Ngài. Những ngày kế tiếp, bọn chúng cũng đến vây hãm chỗ ở của Ngài, khi thì Ngài bay lên hư không, khi thì Ngài biến mất; bọn chúng không sao tìm gặp được Ngài, cứ như vậy kéo dài cả tháng mà bọn chúng vẫn không sao bắt được Ngài. Đến cuối tháng, khi bọn chúng kéo đến vây hãm chỗ ở của Ngài, lần này quán xét thấy đến lúc hết tuổi thọ, đồng thời ác nghiệp xưa cũng đến lúc cho quả, nên Ngài không dùngthần thông thoát ra khỏi chỗ ở. Bọn cướp xông vào bắt Ngài, rồi đánh đập Ngài tan xương nát thịt, bọn cướp tưởng Ngài đã chết nên đem bỏ thây ở bụi cây. Ngài Đại đức Mahāmoggallāna nghĩ rằng: “Ta nên đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép tịch diệt Niết Bàn”. Nghĩ xong, Ngài dùng năng lực thiền địnhthần thông gắn liền xương thịt lại rồi bay lên không trung đến hầu đảnh lễ Đức Phật xong, bèn bạch rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài cho phép con tịch diệt Niết Bàn ngay trong ngày hôm nay. Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn cho phép Ngài Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn tại làng Kāḷasila xứ Magadha. Như vậy, 1 tháng sau hạ thứ 45 của Đức Phật, vào rằm tháng 10, Ngài Đại đức Sāriputta, bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử, tịch diệt Niết Bàn tại làng Nālākagāma xứ Magadha; cuối tháng 10 (30 tháng 10) Ngài Đại đức Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn tại làng Kāḷasila xứ Magadha. Thế là hai vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật đều đã tịch diệt Niết Bàn. Sau khi Ngài Đại đức Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn, Đức vua Ajātasattu truyền lệnh truy tìm kẻ chủ mưu sát hại Ngài Đại đức Mahāmoggallāna. Quân lính điều tra biết rõ bọn cướp sát nhân đã nhận tiền thuê mướn của nhóm ngoại đạo, để sát hại Ngài Đại đức Mahāmoggallāna. Đức vua truyền lệnh bắt bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo tà giáo 500 người để xét xử, tất cả đều nhận tội. Đức vua truyền lệnh đem tất cả bọn chúng chôn một nửa người xuống đất, phủ rơm lên trên thiêu sống, dùng cày sắt cày xới, làm cho bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo chết tan xương nát thịt cả thảy. Đó là quả của ác nghiệp sát sinh, đánh đập bậc Thánh Arahán đến chết (tịch diệt Niết Bàn). Ngài Đại đức Mahāmoggallāna đã tịch diệt Niết Bàn, chư Tỳ khưu bàn luận rằng:

─ Thật đáng động tâm, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử đệ nhất thần thông xuất chúng trong hàng đệ tử, thế mà Ngài tịch diệt Niết Bàn như vậy, thật không công bằng chút nào!

Khi ấy, Đức Phật vừa ngự đến, bèn hỏi rằng:

─ Này các con, các con đang hội họp bàn luận chuyện gì vậy?

Chư Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đang bàn luận về Ngài Đại đức Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn như vậy là không công bằng chút nào. Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

─ Này chư Tỳ khưu, Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn không công bằng trong kiếp hiện tại này, song Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn lại công bằng xét theo ác nghiệp sát sinhtiền kiếp của Mahāmoggallāna đã tạo trong quá khứ xa xưa.

Chư Tỳ khưu đảnh lễ kính thỉnh Đức Phật thuyết giảng về ác nghiệp sát sinh trong tiền kiếp của Ngài Đại đức Mahāmoggallāna như sau: Trong thời quá khứ xa xưa, trong xứ Bārāṇasi, một người con trai có lòng hiếu thảo đối với cha mẹ mù lòa, có lòng biết ơn và đền đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mình. Hằng ngày, người con trai lo cơm nước, giặt quần áo, phụng dưỡng cha mẹ. Sau khi xong công việc trong nhà mới đi làm việc ngoài như vào rừng, ra ruộng,… để kiếm tiền bạc của cải đem về nuôi dưỡng cha mẹ già một cách rất chu đáo, với tấm lòng hiếu thảotôn kính cha mẹ. Một hôm, cha mẹ nói với đứa con yêu quý của mình rằng:

─ Này con yêu quý, một mình con chịu làm lụng vất vả ngoài đồng, về nhà còn phải lo bao nhiêu công việc trong nhà. Cha mẹ muốn tìm cho con một người vợ, để giúp đỡ con lo công việc trong nhà, nghe con!

Người con trai một mực từ chối, xin với cha mẹ rằng:

─ Thưa cha mẹ, con không muốn lấy vợ, con muốn chỉ một mình con lo phụng dưỡng cha mẹ mà thôi.

Mỗi ngày, cha mẹ khẩn khoản năn nỉ, người con trai đành phải chiều theo ý của cha mẹ, chịu cưới vợ để làm cho cha mẹ hài lòng. Người vợ giúp đỡ chồng lo công việc trong nhà, lo phục vụ cha mẹ chồng mới chỉ được 2 - 3 ngày mà thôi, rồi những ngày tiếp theo nàng tỏ vẻ bực dọc cảnh cha mẹ chồng mù lòa, không muốn sống chung với cha mẹ chồng nữa. Người vợ than vản với chồng rằng:

─ Này anh, em không muốn sống chung với cha mẹ mù lòa của anh nữa.

Nàng đặt điều nói xấu cha mẹ chồng. Ban đầu người chồng không tin theo lời người vợ. Một hôm, khi người chồng đi ra ngoài làm công việc, người vợ ở nhà bày đồ đạc, đổ vỡ rải rác trong nhà. Người chồng đi làm về hỏi người vợ:

─ Tại sao đồ đạc đổ vỡ rải rác như thế này?

Người vợ nói với người chồng là do hai ông bà mù lòa làm đồ đạc đổ vỡ rải rác, nàng phải dọn dẹp mệt nhừ cả người, mà vẫn không làm hết việc; nàng không thể nào chịu nổi. Bây giờ nàng không muốn sống chung với hai ông bà già mù lòa đó nữa. Mỗi ngày, từ đồng ruộng trở về, người chồng nghe vợ than vãn, không sao chịu nổi. Người con trai liền lập mưu kế nói lừa dối cha mẹ rằng muốn đưa cha mẹ đi thăm người bà con. Người con thưa rằng:

─ Thưa cha mẹ, người bà con bên làng ấy muốn mời cha mẹ đến thăm viếng, để con đánh xe đưa cha mẹ đi.

Cha mẹ tin con nói thật, nên đồng ý đi thăm, người con sửa soạn chiếc xe bò rồi bồng cha mẹ đặt ngồi lên xe và đánh chiếc xe bò chở cha mẹ đến một khu rừng rậm; tại đây người con thưa với cha mẹ rằng:

─ Thưa cha mẹ, nơi đây thường có bọn cướp sát nhân, xin cha mẹ hãy giữ lấy dây và roi, để con xuống xe xem xét.

Người con bước xuống xe bò, rồi một lát sau giả làm bọn cướp sát nhân hung ác la hét chạy đến đánh đập cha mẹ mù lòa. Tuy thân già yếu mù lòa chịu đánh đập đau đớn, nhưng vẫn luôn nghĩ thương đứa con thân yêu, nên hai ông bà la lớn bảo rằng:

─ Này con yêu quý, con hãy chạy thoát thân, cha mẹ già yếu mù lòa có chết cũng cam phận.

Mặc dù cha mẹ gào thét như vậy, nhưng người con vẫn giả giọng kẻ cướp sát nhân đánh đập cha mẹ già cho đến chết, và đem thây cha mẹ ném trong rừng, rồi đánh xe trở về nhà. Đức Phật thuyết thuật lại, người con giả làm bọn cướp sát nhân đánh đập cha mẹ đến chết, bỏ thây trong rừng trong thời quá khứ ấy, chính là tiền kiếp của Ngài Đại đức Mahāmoggallāna. Người con ấy đã tạo ác nghiệp giết cha mẹ thuộc ác nghiệp vô gián (anantariyakamma), chắc chắn cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt, chết đi tái sinh trở lại trong địa ngục suốt thời gian lâu dài, đến khi mãn quả ác nghiệp, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục. Do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh làm người, đã tạo mọi phước thiện, tạo mười pháp hạnh ba-la-mật. Nhưng do năng lực của ác nghiệp giết cha mẹ còn dư sót có cơ hội cho quả trong kiếp người, nên bị bọn cướp sát nhân đánh đập tan xương nát thịt chết như vậy, suốt hằng trăm kiếp. Đến kiếp chót này Ngài Đại đức Mahāmoggallāna đã trở thành bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử, đệ nhất thần thông trong hàng Thanh Văn đệ tử Phật, thế mà do năng lực của ác nghiệp giết cha mẹ từ tiền kiếp trong quá khứ xa xưa ấy vẫn có cơ hội cho quả lần cuối cùng, Ngài bị bọn cướp sát nhân đánh đập tan xương nát thịt gần chết, phải tịch diệt Niết Bàn. Do đó, Đức Phật dạy:

─ Này chư Tỳ khưu, Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn không công bằng trong kiếp hiện tại này, song Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn ấy, lại công bằng xét theo ác nghiệp sát sinhtiền kiếp của Mahāmoggallāna đã tạo trong quá khứ xa xưa.

Còn bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo tà giáo đã có tác ý bất thiện thuê mướn sai khiến bọn cướp sát nhân đánh đập Ngài Đại đức Mahāmoggallāna, bậc Thánh Arahán đến chết, tất cả đều phạm ác nghiệp giết hại bậc Thánh Arahán thuộc ác nghiệp vô gián, nên chúng đều bị hành hình theo lệnh truyền của Đức vua. Sau khi chết, ác nghiệp vô gián cho quả tái sinh trong cõi địa ngục Āvici, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy.

Sự Chết Của Chúng Sinh

Tất cả mọi chúng sinh trong ba giới([6]) bốn loài(2) đều phải chết. Sự chết có 4 trường hợp.

1- Chết vì hết tuổi thọ.

2- Chết vì mãn nghiệp hỗ trợ.

3- Chết vì hết tuổi thọ và mãn nghiệp hỗ trợ.

4- Chết vì tai nạn (chưa hết tuổi thọ, chưa mãn nghiệp hỗ trợ).

Người có phước tránh được tai nạn

Không đề cập đến 3 trường hợp trên, mà chỉ đề cập đến trường hợp thứ tư: Chết vì tai nạn. Người có phước thoát khỏi mọi tai nạn một cách mầu nhiệm tự nhiên, ngoài khả năng của con người, dù người khác có tác ý ác, cũng không thể giết được người có phước, bởi vì phước thiện hộ mệnh người ấy. Như trường hợp phú hộ Ghosaka: Trong Chú giải bộ Pháp Cú(1), Đức Phật đang ngự tại ngôi chùa Ghositārāma trong xứ Kosambi, Ngài thuyết pháp đề cập đến cuộc đời ông phú hộ Ghosaka một đoạn trong sự tích Sāmāvativatthu, được tóm lược như sau: Trong thời quá khứ, vùng Allakappa xảy ra nạn đói khát và bệnh dịch làm nhiều người chết. Người chồng tên Kotuhalika dẫn người vợ và đứa con đi đến xứ Kosambi để lánh nạn. Hai vợ chồng đi đường đồ ăn uống đã hết, bệnh đói khát làm rã rời tay chân, bồng đứa con cũng không nổi nữa, người chồng bàn với vợ rằng:

─ Này em, vợ chồng chúng ta còn sống, hy vọng sẽ có con nữa, bỏ đứa con này ta đi thôi.

Người mẹ thương yêu con không đành bỏ con khi nó đang còn sống. Hai vợ chồng đồng ý thay phiên nhau bồng đứa con, mỗi người một đoạn đường. Sự đói khát lại càng làm bủn rủn tay chân; người chồng lại bàn tính với vợ bỏ đứa con; người vợ một mực năn nỉ chồng đừng bỏ đứa con. Đứa con nhỏ được trao từ tay chồng sang tay vợ, rồi trao từ tay vợ sang tay chồng làm cho đứa trẻ như ngất xỉu trên tay người cha. Người cha biết đứa con mệt ngủ thiếp đi, nên đặt nó nằm trên đống lá cây khô, ở dưới bóng mát gốc cây, rồi bỏ đi theo vợ ở phía trước. Người vợ nhìn lại không thấy đứa con bèn hỏi: Con của chúng ta đâu rồi? Người chồng trả lời:

─ Anh để nó nằm dưới bóng mát ở gốc cây kia.

Người vợ khóc lóc, van xin chồng bồng đứa con lại cho mình, người chồng trở lại bồng đứa con, thì đứa trẻ đã chết(1). Hai vợ chồng tiếp tục đi đến một vùng nọ và gặp một gia đình nuôi bò. Hôm ấy, gia đình nuôi bò làm lễ cầu an cho bò. Hằng ngày, nhà ấy có thỉnh Đức Phật Độc Giác đến độ vật thực, nhưng đặc biệt hôm ấy là ngày lễ cầu an, nên người nuôi bò nấu cơm sữa bò nhiều. Người chủ nhà nhìn thấy hai vợ chồng đói khát từ nơi xa đến, nên tiếp đãi rất tử tế và cho hai phần cơm sữa bò. Người vợ nói với chồng:

─ Này anh, có anh thì em sống được an lạc; đã 7 ngày qua, anh chịu đói khát nhiều, vậy anh nên dùng thêm phần cơm sữa bò của em cho no đủ.

Người vợ nhường một phần cơm của mình thêm cho chồng ăn, còn mình chỉ dùng một ít cơm với bơ thôi. Người chồng chịu đói khát đã 7 ngày qua, nay gặp món cơm sữa bơ ngon miệng nên ăn quá no, nhìn thấy người chủ nhà cho con chó nằm dưới ghế, ăn cơm sữa bơ, người ấy ngồi nghĩ rằng: “Con chó này có quả phước tốt thật, được ăn những đồ ăn ngon lành đến thế!”. Đêm ấy, người chồng ăn vật thực quá no, không tiêu hóa được, nên bị chết. Sau khi chết, do tâm tưởng đến con chó, nên tái sinh vào bụng con chó cái của chủ nhà. Người vợ lo làm lễ hỏa táng cho chồng xong, xin ở lại làm công trong nhà người chủ nuôi bò ấy. Người góa phụ làm công được một ít gạo, nấu cơm để bát cúng dường Đức Phật Độc Giác, rồi bạch rằng:

─ Kính bạch Ngài, cầu xin phước thiện này được thành tựu đến người chồng của con vừa qua đời.

Người góa phụ suy nghĩ rằng: “Ta nên ở lại làm công nơi này, hằng ngày Đức Phật Độc Giác đến đây khất thực, dù ta không có gì để bố thí, đặt bát cúng dường làm phước, nhưng ta cũng có cơ hội để đảnh lễ Ngài, có đức tin trong sạch ở nơi Ngài, ta cũng có được nhiều phước thiện”. Mấy tháng sau, con chó mẹ sinh ra một con chó con, người chủ nuôi con chó con bằng sữa bò, nên chó con mau lớn khôn. Mỗi khi Đức Phật Độc Giác độ vật thực xong, Ngài cho chó con ăn vật thực còn thừa. Vì vậy con chó rất kính yêu Đức Phật Độc Giác. Mỗi ngày nó đi theo người chủ nuôi bò đến hầu Đức Phật Độc Giác. Trên đường đi đến nơi rừng cây rậm rạp, e sợ có thú dữ rình mồi, người chủ lên tiếngsù! Sù”  3 lần, nếu có thú dữ thì chúng lánh đi nơi khác. Một hôm, người nuôi bò bạch với Đức Phật Độc Giác rằng:

─ Kính bạch Ngài, ngày nào con không có cơ hội đến kính thỉnh Ngài được, con sẽ cho con chó này đến kính thỉnh Ngài đến nhà con.

Từ đó trở về sau, khi nào người chủ nhà nuôi bò không có cơ hội đến hầu Đức Phật Độc Giác được, thì người chủ nuôi bò sai bảo con chó rằng:

─ Này con, con hãy đến kính thỉnh Đức Phật Độc Giác nhé con!

Nghe xong, con chó liền vẫy đuôi chạy thẳng đến cốc của Đức Phật Độc Giác. Trên đường đi, đến nơi rừng cây rậm rạp, chó phát tiếng sủa 3 lần để cho thú dữ lánh đi nơi khác. Con chó đến cốc lá của Đức Phật Độc Giác, nhẹ nhàng đến trước cửa nằm mọp xuống ngẩng đầu sủa 3 tiếng, để báo tin cho Đức Phật Độc Giác biết, rồi nằm im lặng chờ Đức Phật Độc Giác đi ra. Con chó đi đằng trước dẫn đường, Đức Phật Độc Giác đi theo đường về nhà, nó rất kính yêu Đức Phật Độc Giác. Về sau y của Đức Phật Độc Giác cũ quá, người chủ nuôi bò dâng vải, để cho Đức Phật Độc Giác may y mặc. Đức Phật Độc Giác nói với người chủ nuôi bò rằng:

─ Một mình may y rất khó, cho nên Như Lai phải tìm bạn đồng phạm hạnh cùng giúp may.

Người chủ nuôi bò bạch rằng:

─ Kính thỉnh Ngài đi may y xong, kính thỉnh Ngài trở lại.

Con chó đứng nghe Đức Phật Độc Giác và người chủ nuôi bò nói chuyện với nhau. Tại nơi ấy, Đức Phật Độc Giác dùng thần thông bay lên hư không hướng về núi Gandha-mādana. Con chó đứng nhìn theo Đức Phật Độc Giác bay lên hư không, và sủa theo với tất cả tấm lòng kính yêu Đức Phật Độc Giác, cho đến khi không còn nhìn thấy bóng dáng nữa, thì con chó chết ngay tại nơi ấy. Con chó chết với lòng kính yêu vô hạn nơi Đức Phật Độc Giác, nên sau khi chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời Tam Thập Tam Thiên, có lâu đài nguy nga, có 1.000 (một ngàn) nữ chư thiên hầu hạ, hưởng mọi sự an lạccõi trời. Khi thiên nam này nói nhỏ bên tai chư thiên nào, thì tiếng nói ấy vang xa đến 16 do tuần (1 do tuần khoảng 20 km), nếu thiên nam này nói bình thường, tiếng nói vang rộng xa đến 10.000 (mười ngàn) do tuần; vì vậy, vị thiên nam này có tên là “Ghosakadevaputta: Thiên nam có giọng nói vang”. Đó là quả của phước thiện kiếp chó sủa với lòng kính yêu vô hạn đối với Đức Phật Độc Giác. Vị thiên nam Ghosaka hưởng mọi sự an vui ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Vị thiên nam Ghosaka say mê trong ngũ trần, quên dùng vật thực, thể xác không thể duy trì được, nên phải chết từ cõi trời, do thiện nghiệp cũ cho quả tái sinh đầu thai vào lòng một kỹ nữ xinh đẹp ở thành Kosambi.

Cuộc đời Ghosaka có phước thoát chết 7 lần

1- Trẻ sơ sinh Ghosaka bị bỏ rơi trong đống rác

Ngày Ghosaka chào đời, người kỹ nữ hỏi người tớ gái rằng:

─ Bé trai hay bé gái?

Người tớ gái thưa rằng:

─ Bé trai.

Người kỹ nữ bảo người tớ gái đem đứa bé trai ấy bỏ nơi đống rác, vì kỹ nữ chỉ nuôi con gái, không nuôi con trai, bởi vì con trai không kế nghiệp nghề kỹ nữ được. Đứa bé trai sơ sinh bị bỏ nơi đống rác, bầy quạ, diều, chó vây quanh đứa bé, mà không con nào dám ăn thịt. Đó là quả của phước thiện kiếp chó sủa với lòng kính yêu vô hạn đối với Đức Phật Độc Giác. Khi ấy, một người thấy bầy quạ, diều, chó vây quanh đống rác, liền đi lại xem có gì lạ thường, thì thấy một đứa bé trai; người ấy vui mừng hớn hở bồng đứa bé như đứa con của mình, sung sướng kêu lên rằng: “Ta được đứa con trai!”, rồi người ấy bồng đứa bé về nhà nuôi nấng tử tế.

2- Bé Ghosaka bỏ trước cổng chuồng bò

Khi ấy, phú hộ thành Kosambi đi đến chầu Đức vua, giữa đường gặp vị quân sư nhà vua chuyên môn xem sao đoán số. Ông phú hộ hỏi vị quan rằng:

─ Thưa vị quân sư, hôm nay có điều lành dữ thế nào?

Vị quân sư thưa:

─ Hôm nay Đức vua và triều đình, Hoàng gia cho đến thần dân thiên hạ đều bình an và có một việc lành: “Đặc biệt, đứa bé nào sinh ra đời ngày hôm nay, về sau, nó sẽ trở thành một phú hộ trong xứ này”.

Lúc này, phu nhân của phú hộ đang mang thai, già ngày già tháng rồi; phú hộ cho người trở về nhà xem phu nhân đã sinh hay chưa. Người nhà báo tin phu nhân chưa sinh. Ông phú hộ đến chầu Đức vua xong, vội vàng trở về, gọi bà tớ gái thân tín tên Kāḷi và trao cho bà 1.000 đồng (một ngàn đồng) kahāpana (tiền Ấn Độ thời xưa), để bà đi tìm kiếm trong kinh thành có đứa bé nào sinh trong ngày, thì bà trao cho họ số tiền 1.000 đồng kahāpana ấy, rồi bồng đứa bé về. Bà Kāḷi đi tìm hỏi khắp nơi, lần lượt đến nhà một người, nhìn thấy có đứa bé bèn hỏi người nhà ngày sinh của đứa bé ấy. Người nhà bảo đứa bé vừa mới sinh trong ngày. Bà Kāḷi trao cho người chủ nhà 1.000 đồng kahāpana, rồi bồng đứa bé về cho ông phú hộ. Ông phú hộ nghĩ rằng: “Nếu phu nhân ta sinh con gái, ta sẽ cho con gái của ta làm vợ nó, rồi cho nó chức tước phú hộ; nếu phu nhân ta sinh con trai, thì ta sẽ giết nó . Ông phú hộ bảo người nuôi nấng săn sóc đứa bé ở trong nhà. Về sau, phu nhân của phú hộ sinh con trai, ông phú hộ tính kế giết đứa bé này, để con mình lớn lên được chức tước phú hộ. Ông phú hộ gọi bà Kāḷi đến sai bảo rằng:

─ Sáng sớm này, bà hãy bồng đứa bé Ghosaka này bỏ trước cổng chuồng bò, để khi bò ra sẽ đạp chết đứa bé này. Bà đứng xem đứa bé chết hay sống thế nào rồi về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka bỏ trước cửa cổng chuồng bò. Người chăn bò mở cổng, thường ngày con bò đầu đàn đi ra sau chót, nhưng hôm ấy nó đi ra trước, bốn chân đứng như bốn trụ cột, đứa bé nằm ở giữa, đàn bò hằng trăm con lấn hai bên sườn con bò đầu đàn đi ra. Người chăn bò thấy điều lạ thường, nghĩ rằng: “Bò đầu đàn này hằng ngày đi ra sau cùng, hôm nay ra trước đứng yên một chỗ, có chuyện gì lạ vậy!. Đến xem thấy đứa bé đang nằm giữa bốn chân bò đầu đàn, người chăn bò sung sướng vui mừng bồng đứa bé, kêu lên rằng: “Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi nấng tử tế. Bà Kāḷi trở về trình cho ông phú hộ biết tất cả sự việc đã xảy ra. Ông phú hộ liền trao cho bà 1.000 đồng kahāpana, bảo bà đưa cho người chăn bò và bồng đứa bé trở về.

3- Bé Ghosaka bị bỏ trên đường

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

─ Này Kāḷi, sáng sớm hôm nay sẽ có đoàn xe bò 500 chiếc chở hàng hóa đi bán. Bà bồng đứa bé Ghosaka này đặt nằm ngang trên đường bánh xe lăn, để cho bò đạp chết, hoặc xe cán nó chết. Bà đứng đó theo dõisống chết thế nào rồi về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka đặt nằm ngang trên đường bánh xe. Khi ấy, người trưởng đoàn xe đi trước, khi đi đến gần chỗ đứa bé nằm, con bò đứng sững lại, không chịu bước tới trước, dù người trưởng đoàn la bảo thế nào hai con bò vẫn không chịu bước, chỉ đứng sừng sững tại một chỗ. Chờ đến gần sáng, người trưởng đoàn nghĩ rằng: “Tại sao hai con bò này lại đứng sừng sững như vậy?. Người trưởng đoàn bước xuống xe xem đường, nhìn thấy đứa bé nằm ngang trên đường bánh xe lăn, người trưởng đoàn vui mừng sung sướng kêu lên rằng: “Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi nấng tử tế. Bà Kāḷi về trình lại sự việc đã xảy ra cho ông phú hộ nghe. Ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 đồng kahāpana, bảo bà đưa cho người trưởng đoàn xe, rồi bồng đứa bé trở về.

4- Bé Ghosaka bị bỏ nơi nghĩa địa

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

─ Này Kāḷi, bà bồng đứa bé Ghosaka này bỏ nơi nghĩa địa, cho nằm giữa bụi cây, để cho chó rừng, quạ, diều ăn thịt, hoặc hạng phi nhân sát hại nó chết. Bà xem xétsống chết thế nào, về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka bỏ nơi nghĩa địa, cho nằm giữa bụi cây, bà đứng ở một nơi theo dõi xem xét. Bầy quạ, diều, chó rừng, phi nhân v.v… không con nào dám đến gần đứa bé, vì phước thiện của đứa bé trong tiền kiếp hộ mệnh nó. Khi ấy, người chăn dê thả đàn dê vào nghĩa địa ăn lá cây, một con dê mẹ đi ăn vào giữa bụi cây, nhìn thấy đứa bé, dê mẹ quỳ gối xuống để cho đứa bé bú sữa. Người chăn dê la bảo dê mẹ không chịu ra, nên đi vào bụi cây đuổi dê mẹ thì nhìn thấy dê mẹ đang quỳ gối cho đứa bé bú sữa. Người chăn dê sung sướng vui mừng kêu lên rằng: “Ta được đứa con trai!, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi nấng tử tế. Bà Kāḷi trở về trình lại sự việc đã xảy ra cho ông phú hộ nghe, ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 đồng kahāpana, bảo bà đưa cho người chăn dê, rồi bồng đứa bé về.

5- Bé Ghosaka bị ném xuống hố sâu

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

─ Này Kāḷi, bà bồng đứa bé Ghosaka này lên đỉnh núi nơi ném bọn cướp, rồi ném đứa trẻ xuống hố sâu để thân hình nó đụng vào đá tan xương nát thịt rơi xuống đất. Bà theo dõi xem xétsống chết thế nào, về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka lên đỉnh núi rồi ném đứa bé xuống. Đứa bé rơi xuống nằm trên bụi tre có dây tơ hồng chằng chịt như nằm trên tấm thảm làm bằng lông thú êm ấm. Hôm ấy, người thợ đan tre và đứa con lên núi đốn tre. Khi đốn cây tre xong, lôi cây tre ra, làm cho bụi cây rung chuyển, đứa trẻ phát ra tiếng khóc, người thợ nói rằng: “Giống như tiếng khóc của một đứa bé”. Người thợ đi vòng quanh, nhìn lên ngọn bụi tre, thấy đứa bé nằm trên ấy, người thợ sung sướng kêu lên rằng: “Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi nấng tử tế. Bà Kāḷi trở về trình lại sự việc xảy ra cho ông phú hộ nghe, ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 đồng kahāpana, bảo bà đưa cho người thợ đan tre, rồi bồng đứa bé về.

6- Nghĩ hại người, lại tự làm khổ mình

Ông phú hộ nghĩ mưu kế nào cũng không sát hại được đứa bé Ghosaka, đành nuôi nấng chờ tìm mưu kế khác. Đứa bé Ghosaka càng ngày càng khôn lớn trưởng thành, ngây thơ và tưởng mình là con của ông phú hộ, không hề hay biết ông phú hộ tìm mưu kế sát hại mình. Khi ấy, phú hộ nghĩ ra mưu kế sát hại cậu Ghosaka, ông phú hộ đến chỗ làm đồ gốm, gặp người thợ đồ gốm quen thân, hỏi rằng:

─ Khi nào anh sẽ đốt lò.

Người thợ trả lời:

─ Ngày mai, thưa ông!

Ông phú hộ bảo rằng:

─ Như vậy, anh nhận số tiền 1.000 đồng kahāpana này, rồi giúp tôi một việc.

Người thợ hỏi:

─ Thưa ông việc gì?

Ông phú hộ bảo rằng:

─ Tôi có một đứa con ngỗ nghịch, vong ơn, tôi sẽ sai nó đến chỗ anh, anh dẫn nó vào trong phòng chặt nó làm nhiều đoạn, bỏ vào trong hũ, rồi đem đốt trong lò. Tôi xin thưởng cho anh trước 1.000 đồng kahāpana, khi nào anh làm xong, tôi sẽ hậu tạ xứng đáng cho anh.

Người thợ đồ gốm nhận lời. Hôm sau, ông phú hộ gọi cậu Ghosaka đến rồi bảo rằng:

─ Này Ghosaka, hôm qua, cha có gặp người thợ đồ gốm nhờ làm một việc, con hãy đến nơi ấy, gặp người thợ đồ gốm nói rằng: Cha tôi sai tôi đến hỏi ông, công việc cha tôi nhờ ông làm hôm qua, hãy làm cho xong”.

Cậu Ghosaka vâng lời cha ra đi, vừa ra khỏi nhà, gặp đứa em trai (con ruột của ông phú hộ) đang chơi bắn bi với tính cách ăn thua với nhóm trẻ con. Người em thấy anh Ghosaka đến vui mừng nói rằng:

─ Này anh Ghosaka, em chơi bị thua bọn trẻ này rất nhiều bi, bây giờ nhờ anh chơi hộ, bắn thắng lại số bi ấy cho em.

Cậu Ghosaka bảo với em rằng:

─ Anh phải đem tin của cha đến chỗ lò gốm đất nung, ở đây chơi trò bắn bi sẽ bị cha rầy la, anh sợ cha lắm!

Biết cậu Ghosaka có tài chơi trò bắn bi rất giỏi, lúc nào cũng thắng bọn trẻ, nên người em năn nỉ rằng:

─ Thôi anh đừng sợ, để em đem tin của cha đến chỗ lò gốm đất nung thay anh, còn anh ở đây chơi trò bắn bi với nhóm trẻ, thắng lại số bi cho em; anh chờ em trở lại.

Cậu Ghosaka nói với em rằng:

─ Nếu như vậy, em đến chỗ lò gốm, gặp người thợ đồ gốm nói rằng: Cha tôi sai bảo tôi đến hỏi ông, công việc cha tôi nhờ ông làm hôm qua, hãy làm cho xong”.

Người em là người con ruột của ông phú hộ đến gặp người thợ đồ gốm nói như vậy. Khi ấy, người thợ đồ gốm liền giết đứa con của ông phú hộ theo lời yêu cầu của ông, chặt đứa con từng đoạn bỏ vào hũ đặt vào lò nung thiêu cháy. Cậu Ghosaka chơi trò bắn bi đợi cho đến chiều không thấy em trở lại, nên trở về nhà. Ông phú hộ nhìn thấy Ghosaka liền hỏi:

─ Con không đi hay sao?

Cậu Ghosaka thưa với cha (ông phú hộ) rằng:

─ Kính thưa cha, khi con đi ra, gặp em trai chơi trò bắn bi bị thua bọn trẻ, nên nó nhờ con chơi để gỡ lại, còn nó thay con đi đến nhà bác thợ nung lò gốm.

Khi nghe như vậy, ông phú hộ liền kêu la rằng:

─ Đừng có giết con tôi.

Ông phú hộ đầu óc choáng váng, bước đi khệnh khạng, đến chỗ người thợ đồ gốm, hai tay ôm đầu kêu la:

─ Hỡi anh thợ thân yêu! Xin đừng làm cho tôi thiệt hại.

Người thợ đồ gốm thấy ông phú hộ đến kêu la như vậy, bèn thưa với ông phú hộ rằng:

─ Thưa ông phú hộ, ông đừng lớn tiếng kêu la như vậy, công việc ông yêu cầu tôi đã hoàn thành xong rồi.

Ông phú hộ khổ tâm sầu não tột cùng, như bị quả núi lớn đè lên ngực của ông.

* Người này mưu hại người kia, mà người kia không có tâm mưu hại trở lại; hoặc người này mưu làm khổ người kia, mà người kia không có tâm mưu làm khổ trở lại, thì người mưu làm hại này sẽ phải chịu 10 điều khổ não, như Đức Phật đã dạy:

1- Chịu khổ tâm cùng cực.

2- Bị thiệt hại lớn.

3- Bị đau đầu, đứt mạch máu (vì sự nóng nảy quá độ).

4- Bị bệnh trầm trọng.

5- Bị phóng tâm, loạn trí, điên cuồng.

6- Bị tai hại do từ Đức vua.

7- Bị chê trách dữ dội.

8- Bà con, bè bạn bị tai nạn.

9- Của cải, sự nghiệp bị thiệt hại.

10- Sau khi chết sa vào địa ngục.

7- Mưu kế sát hại Ghosaka lần cuối cùng

Mặc dù vậy, vẫn chưa từ bỏ ý định sát hại cậu Ghosaka, ông phú hộ nghĩ ra được mưu kế: “Ta sẽ sai Ghosaka đi đến nhà bác thâu thuế 100 gia đình của ta, nhờ bác thâu thuế giết nó”. Nghĩ xong, ông phú hộ liền viết một lá thư gửi cho bác thâu thuế ấy rằng: “Người cầm thư này là đứa con ngỗ nghịch vong ơn của tôi, tôi nhờ bác giết nó chết rồi ném xuống hầm phân. Khi giết chết nó xong rồi, tôi sẽ ban thưởng cho bác trọng hậu”. Ông phú hộ gọi cậu Ghosaka rồi bảo rằng:

─ Này Ghosaka, con mang thư này đưa đến cho bác thâu thuế của nhà ta.

Ông phú hộ đem lá thư cột vào chéo áo của Ghosaka. Cậu Ghosaka không biết đọc chữ, vì từ nhỏ đến lớn cậu không được học hành chữ nghĩa, cho nên cậu Ghosaka đem thư giết mình, nhưng vẫn không biết, cậu thưa với người cha rằng:

Thưa cha, trên đường đi con sẽ ở trọ nơi nào?.

Ông phú hộ bảo rằng:

Con đừng lo, trên đường đi sang tỉnh bên ấy, có một phú hộbạn thân của cha, con đến nhà ông phú hộ ăn và nghỉ lại đêm nơi ấy, rồi sáng mai đi tiếp.

Ghosaka đảnh lễ cha rồi từ giã ra đi, đến tỉnh bên hỏi thăm nhà phú hộ, gặp phu nhân của phú hộ, cậu tự giới thiệu tên là Ghosaka, con trai của phú hộ xứ Kosambi. Được biết như vậy, bà phú hộ vô cùng hoan hỷ, bởi vì phú hộ xứ Kosambi với gia đình bà vốn là bạn thân thiết với nhau. Phu nhân phú hộ nhìn thấy Ghosaka đem lòng thương yêu như con của mình.

Tình thương yêu phát sinh do hai nguyên nhân

Gia đình phú hộ tỉnh này có một đứa con gái 16 tuổi rất xinh đẹp đáng yêu. Cô ở trong một căn phòng sang trọng đặc biệt trên tầng lầu thứ 7, với một người tớ gái lo phục vụ cho cô.. Khi ấy, cô sai bảo đứa tớ gái đi chợ. Phu nhân phú hộ nhìn thấy đứa tớ gái, gọi lại hỏi rằng:

─ Con đi đâu?

Người tớ gái thưa rằng:

─ Thưa bà, tiểu thư sai con đi chợ mua sắm đồ.

Phu nhân phú hộ sai bảo người tớ gái rằng:

─ Con hãy lo nước tắm, nước rửa chân, sắp đặt chỗ nghỉ cho cậu Ghosaka, con của phú hộ xứ Kosambi, rồi đi chợ sau.

Người tớ gái đi chợ về trễ, bị tiểu thư quở trách. Người tớ gái thưa chuyện với tiểu thư rằng: Sở dĩ em về trễ là vì phải lo phục vụ chỗ ở cho công tử phú hộ xứ Kosambi tên Ghosaka xong, rồi mới đi chợ, xin tiểu thư đừng trách em. Nghe đến tên Ghosaka, con trai phú hộ Kosambi, con gái phú hộ rung động con tim, lòng yêu thương dạt dào trong lòng, khiến nàng không thể ngồi yên. Thật ra, cô con gái phú hộ này vốn là vợ yêu quý của cậu Ghosaka trong tiền kiếp. Tiền kiếp Ghosaka tên là Kotuhalika, người chồng yêu quý nhất của nàng, hai vợ chồng bồng đứa con nhỏ đi sang xứ khác sinh sống, người vợ hết mực thương yêu chồng. Khi người chồng chết, trở thành góa phụ, người vợ làm công được ít gạo, nấu cơm để bát dâng cúng dường Đức Phật Độc Giác rồi hồi hướng đến cho người chồng quá cố. Do phước thiện bố thí ấy, nay kiếp này được sinh làm con gái của phú hộ. Cho nên, tình yêu thương trong kiếp trước đã phát sinh trở lại với nàng, khi nghe đến tên, liền cảm thấy thân thương gần gủi lắm. Do đó, Đức Phật dạy rằng: “Tình yêu phát sinh do hai nguyên nhân:

Do tình yêu vợ chồng sống chung trong kiếp trước.

Do tình nghĩa giúp đỡ lẫn nhau ở kiếp hiện tại”.

Cô gái phú hộ hỏi người tớ gái rằng:

─ Bây giờ công tử Ghosaka đang ở đâu?

Người tớ gái:

─ Thưa tiểu thư, công tử đang nghỉ ở trong phòng khách.

Cô gái phú hộ hỏi:

─ Công tử có mang gì theo không?

Người tớ gái:

─ Thưa tiểu thư, công tử có mang theo lá thư đeo ở chéo áo.

Cô gái phú hộ nôn nao muốn biết nội dung của lá thư. Cô gái phú hộ từ tầng lầu thứ 7 vội vàng đi xuống. Trong nhà, cả người làm lẫn cha mẹ đều không hay biết, nàng lén vào phòng ngủ của công tử Ghosaka, thấy cậu Ghosaka đang nằm ngủ say, tình yêu thương vô hạn phát sinh, nàng muốn biết lá thư nói gì, nên lấy lá thư trở về phòng đọc, nàng giật mình nghĩ rằng: “Người gì mà khờ khạo đến thế! Mang thư giết mình, mà không hay biết, nếu ta không đọc thư này, thì chắc anh ta chết mất thôi! Nàng xé bỏ lá thư ấy viết lại lá thư khác, dựa theo lời của ông phú hộ, nhưng đổi ý nghĩa lại rằng: “Thưa bác, con của tôi tên Ghosaka, mang thư này đến bác, nhờ bác thâu thuế 100 nhà, rồi làm một nhà lầu 2 tầng, có hàng rào xung quanh chắc chắn, có người canh gác cửa ngày đêm. Nhờ bác thay mặt tôi đứng làm lễ thành hôn con trai của tôi Ghosaka với con gái phú hộ ở tỉnh ấy. Khi công việc xong rồi, bác báo tin cho tôi biết, tôi sẽ hậu tạ bác”. Viết xong nàng gấp lại như cũ, xuống lầu đến phòng ngủ công tử Ghosaka, cột vào chéo áo của cậu ta như trước. Cậu Ghosaka nghỉ một đêm, sáng dậy ăn uống no đủ, từ giã ông bà phú hộ đi đến nhà bác thâu thuế. Bác thâu thuế nhìn thấy cậu Ghosaka hỏi:

─ Này công tử, công tử đến có công việc gì?

Cậu Ghosaka thưa rằng:

─ Thân phụ của con gửi thư cho bác đây!

Ghosaka đưa thư cho bác thâu thuế xem, đọc xong thư bác thâu thuế vô cùng hoan hỷ nghĩ rằng ông phú hộ đã giao cho ông công việc quan trọng, một vinh dự quá lớn lao. Ông tuyên bố với 100 gia đình thâu thuế rằng:

─ Thưa quý bà con, con trai của ông phú hộ mang thư đến cho tôi, giao phận sự cho tôi lo công việc thành hôn đứa con trai lớn của phú hộ với đứa con gái phú hộ tỉnh ấy. Chúng ta hãy mang vật liệu v.v… để xây cất một căn nhà lầu 2 tầng thật xinh đẹp, rồi làm lễ thành hôn cho con trai phú hộ.

Tất cả mọi người vô cùng hoan hỷ, chung lo xây cất nhà, rồi làm lễ thành hôn con trai lớn của phú hộ với con gái của phú hộ tỉnh ấy xong, cho người báo tin cho ông phú hộ xứ Kosambi biết rằng: “Công việc ông phú hộ giao cho tôi, bây giờ tôi đã làm xong”. Ông phú hộ nghe người đem tin thuật lại sự việc ngoài ý muốn của mình, ông than thở rằng: Ta muốn làm điều nào, thì điều ấy không thành tựu, ta không muốn làm điều nào, thì điều ấy lại thành tựu”. Ông phú hộ khổ tâm buồn phiền lâm bệnh nặng, một phần vì thương tiếc đứa con ruột, một phần uất ức đứa con nuôi, bao nhiêu lần giết nó mà vẫn không thành; căn bệnh của phú hộ càng ngày càng trầm trọng, không có thuốc men nào điều trị cho khỏi được. Về phần con gái phú hộ, sau khi làm lễ thành hôn với cậu Ghosaka rồi, nàng điều khiển nhóm gia nhân, bảo rằng:

─ Nếu có người nhà ông phú hộ xứ Kosambi đến đây, mang tin tức gì, các người hãy cho ta biết trước, không được cho cậu Ghosaka biết trước.

Ông phú hộ lâm bệnh nặng, nhưng nghĩ rằng: Ta sẽ không cho đứa con nuôi xấu số này thừa hưởng của cải sự nghiệp của ta”. Ông phú hộ sai người đem thư đến gọi đứa con nuôi Ghosaka về gặp ông hai lần mà phu nhân của Ghosaka vẫn giấu kín tin, không cho công tử Ghosaka biết; mãi đến lần thứ ba, người nhà phú hộ đem tin đến, bảo công tử Ghosaka trở về nhà cho ông phú hộ gặp mặt. Lần này phu nhân của Ghosaka hỏi thăm tình hình và biết ông phú hộ lâm bệnh nặng trầm trọng, không thể sống lâu được nữa, nàng mới báo tin cho chồng biết:

─ Cha của anh bị bệnh nặng trầm trọng, hai vợ chồng chúng ta nên sắp đặt trở về thăm cha.

Nàng muốn kéo dài thời gian, nên nàng tính đem xe chở của cải hàng hóa thâu thuế 100 nhà về nhà chồng. Khi cậu Ghosaka về đến nhà, thì ông phú hộ đã quá yếu rồi, người nhà báo tin cho ông phú hộ biết cậu Ghosaka về đến. Cậu Ghosaka đứng phía dưới chân của người cha, vợ của Ghosaka đứng ở phía trên đầu. Ông phú hộ gọi người thủ kho báo cáo tất cả của cải vàng bạc trong kho của ông và của cải bên ngoài. Người thủ kho báo cáo: “Của cải có 400.000.000 (bốn trăm triệu), còn ruộng đất, đàn gia súc: trâu, bò, ngựa, xe cộ, v.v… có chừng ấy, chừng ấy,…”. Ông phú hộ nghĩ không muốn cho cậu Ghosaka số của cải, tài sản ấy, nhưng miệng lại nói cho, ngược lại với điều ông đã nghĩ. Bởi vì, do phước thiện của cậu Ghosaka khiến ông phú hộ nói trái với điều ông suy nghĩ; sau đó, ông phú hộ chết, tất cả của cải, tài sản sự nghiệp của ông ta đều thuộc về cậu Ghosaka.

Cuộc đời Ghosaka trở thành phú hộ

Sau khi ông phú hộ xứ Kosambi chết, các quan tâu lên Đức vua Udena xứ Kosambi. Đức vua hỏi:

─ Ông phú hộ có đứa con nào không?

Các quan tâu:

─ Thưa có một đứa con tên là Ghosaka.

Đức vua truyền lệnh gọi cậu Ghosaka đến, rồi ban cho Ghosaka thừa kế chức tước phú hộ của người cha để lại. Từ đó Ghosaka trở thành phú hộ xứ Kosambi. Một hôm, phu nhân phú hộ nhìn Ghosaka mỉm cười, phú hộ hỏi phu nhân cười việc gì, nàng nói cho Ghosaka biết, ngày nay chàng trở thành phú hộ như thế này là nhờ nàng giúp một phần. Phú hộ Ghosaka không thể tin lời phu nhân, phú hộ Ghosaka tin rằng: “Ta là người con thừa kế của cải và chức tước của người cha để lại”. Phú hộ Ghosaka không hề hay biết gì về thân phận của mình, và những sự việc mà ông phú hộ đã đối xử với mình. Do đó, phú hộ Ghosaka không thể tin lời phu nhân. Nàng kể lại việc cậu Ghosaka đem lá thư đến bác thâu thuế, nhờ bác ấy giết cậu, chính nàng đã xé bỏ thư ấy, rồi viết lại thư khác, nhờ bác ấy làm lễ thành hôn với con gái phú hộ, v.v… Phú hộ Ghosaka vẫn chưa tin, nàng cho người gọi bà tớ gái Kāḷi đứng ra làm chứng. Bà tớ gái thân tín đứng ra làm chứng thuật lại, kể từ khi Ghosaka còn là đứa trẻ sơ sinh, ông phú hộ đã tốn nhiều tiền, với cố tâm giết chết Ghosaka, nhưng không thể nào giết được. Ghosaka thoát chết 7 lần, nay trở thành phú hộ ở xứ Kosambi này. Phú hộ Ghosaka nghe qua tiểu sử cuộc đời của mình như vậy, nên suy nghĩ rằng: Ta đã làm nghiệp gì nặng mà ta bị tai nạn như thế ấy, ta đã làm phước thiện gì, mới được thoát chết như vậy, từ nay ta không nên dể duôi, cố gắng tạo mọi phước thiện”. Từ đó, phú hộ Ghosaka mỗi ngày đem của cải ra làm phước bố thí, cho mọi người đói khát đi đường, v.v… Về sau, khi nghe tin Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng xuất hiện trên thế gian, phú hộ Ghosaka cùng với hai người bạn cũng là phú hộ tên KukkuṭaPāvārika cùng nhau đến hầu Đức Phật tại xứ Sāvatthi, nghe pháp xong, cả ba phú hộ đều chứng đắc bậc Thánh Nhập Lưu. Cả 3 phú hộ thỉnh Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng ngự đến xứ Kosambi, rồi mỗi người xây cất một ngôi chùa dâng cúng dường đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng.

Phú hộ Ghosaka xây cất ngôi chùa đặt tên Ghositārāma.

Phú hộ Kukkuṭa xây cất ngôi chùa đặt tên Kukkuṭārāma.

Phú hộ Pāvārika xây cất ngôi chùa đặt tên Pāvāritārāma.

3 ông hộ độ Tam Bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp.

2- Sự tích người phạm điều giới trộm cắp

Khi ấy, Đức Phật ngự tại cung điện Vua Bimbisāra trong kinh thành Magadha thuyết kinh Tirokuḍḍasutta này. Trong Chú giải kinh Tirokuḍḍasutta([7]) Đức Phật thuyết về nhóm ngạ quỷ tiền kiếpbà con của Đức vua Bimbisāra, được tóm lược như sau: Ở thời Đức Phật Phussa xuất hiện trên thế gian, lúc đó tuổi thọ của con người khoảng 90.000 (chín chục ngàn) năm, cách thời kỳ Đức Phật Gotama 92 đại kiếp trái đất, đã trải qua 7 Đức PhậtĐức Phật Vipassī, Đức Phật Sikhī, Đức Phật Vessabhū, Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa, rồi đến Đức Phật Gotama của chúng ta hiện tại. Đức Phật Phussa nguyên là Hoàng thái tử của Đức vua Jayasena và Mẫu hậu Sirimā, cùng có 3 hoàng đệ cùng Phụ vương khác Mẫu hậu. 3 Hoàng tử huynh đệ xin phép Vua cha hộ độ Đức Phật Phussa cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng suốt 3 tháng hạ. 3 Hoàng tử cùng 2.500 người tùy tùng hộ độ Tam Bảo. 3 huynh đệ Hoàng tử truyền lệnh cho quan thủ kho cùng với vợ là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, hằng ngày lo giúp công việc làm phước bố thí vật thực đến Đức Phật Phussa cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng một cách tôn kính; truyền lệnh cho vị quan thâu thuế cùng dân chúng khoảng 11.000 (mười một ngàn) người làm. Trong số người ấy, một số không có đức tin nơi Tam Bảo, có tâm ganh tỵbủn xỉn, họ đã phạm điều giới trộm cắp những thứ dùng để làm thức ăn cúng dường Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng, đem ăn trước và đem phân phát cho các con của họ cùng ăn nữa, đã tạo ác nghiệp trộm cắp của Tăng, lại còn đốt cháy nhà bếp. Đến khi ra hạ, 3 Hoàng tử huynh đệ làm phước lớn cúng dường Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng, kính thỉnh Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng ngự về thăm Vua cha. Đức Phật Phussa thọ 90.000 tuổi; sau đó Ngài tịch diệt Niết Bàn, Đức vua băng hà, 3 Hoàng tử huynh đệ, các vị quan thủ kho, các vị quan thâu thuế cùng vợ và một số dân chúng có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo làm phước bố thí cúng dường đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng một cách tôn kính, lần lượt chết. Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp cho quả đều tái sinh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc, từ cõi trời này đến cõi trời khác. Còn nhóm người không có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, đã phạm điều giới trộm cắp những thứ dùng để làm thức ăn cúng dường Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng, đem ăn trước và phân phát cho các con của họ cùng ăn nữa, tạo ác nghiệp trộm cắp của chư Tăng. Cho nên, sau khi chết, do ác nghiệp trộm cắp cho quả tái sinh vào địa ngục này đến địa ngục khác suốt thời gian 92 đại kiếp trái đất, trải qua 5 Đức PhậtĐức Phật Vipassī, Đức Phật Sikhī, Đức Phật Vessabhū, Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana, cho đến thời kỳ của Đức Phật Kassapa, tiền kiếp của nhóm người trộm cắp của chư Tăng trước đây, mới thoát ra khỏi địa ngục, do ác nghiệp trộm cắp còn dư sót cho quả tái sinh làm ngạ quỷ. Trong thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, vào thời đại con người có tuổi thọ 20.000 (hai mươi ngàn) năm, những người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, làm phước bố thí cúng dường đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng rồi hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc của họ là hàng ngạ quỷ. Những hàng ngạ quỷ khi hoan hỷ nhận được phước hồi hướng của thân bằng quyến thuộc, tất cả bọn chúng được thoát khỏi cảnh ngạ quỷ đói khát, đau khổ, tái sinh làm chư thiên được sự no đủ an lạc hạnh phúc. Khi ấy, nhóm ngạ quỷ kiếp trướcbà con của vị quan thâu thuế trong thời kỳ Đức vua Jayasena, thấy nhóm ngạ quỷ kia thoát khỏi cảnh đói khát, đau khổ, được sự no đủ an lạc hạnh phúc, nên kéo nhau đến hầu Đức Phật Kassapa bạch rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, đến bao giờ tất cả chúng con mới có thân quyến hồi hướng phước thiện bố thí đến nhóm ngạ quỷ chúng con, để chúng con thoát khỏi cảnh khổ, được hưởng sự an lạc? Bạch Ngài.

Đức Phật Kassapa dạy rằng:

─ Này các ngạ quỷ, bây giờ các con chưa được gì đâu! Các con hãy chờ cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, thuở ấy, Đức vua gọi là Bimbisāra đã từng là thân quyến của các con cách đây 92 đại kiếp trái đất. Đức vua Bimbisāra sẽ làm phước cúng dường đến Đức Phật Gotama cùng chư Đại đức Tăng, rồi hồi hướng phước thiện bố thí ấy đến cho các con.

Nhóm ngạ quỷ nghe lời thọ ký của Đức Phật Kassapa([8]), tâm cảm thấy vô cùng hoan hỷ trông ngóng như sắp được hoan hỷ phần phước thiện vào ngày hôm sau.

Khi Đức Phật Kassapa tịch diệt Niết Bàngiáo pháp của Ngài cũng hoàn toàn tiêu hoại. Từ đó, con người làm cho mọi thiện pháp từ từ suy thoái, còn ác pháp càng ngày càng phát triển, do đó, tuổi thọ con người càng ngày càng giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống còn khoảng 10 năm. Từ đó, con người kinh sợ tội lỗi, tránh xa ác pháp; cố gắng tạo thiện pháp; mọi thiện pháp dần dần phát triển, còn ác pháp từ từ suy thoái; cho nên, tuổi thọ con người tăng dần, tăng dần từ 10 năm lên đến tột cùng a-tăng-kỳ năm([9]). Sau đó, con người bắt đầu dể duôi, ác pháp phát sinh, làm cho tuổi thọ con người lại giảm dần, giảm dần cho đến khi tuổi thọ còn khoảng 100 năm. Khi ấy, Đức Phật Gotama hiện tại của chúng ta xuất hiện trên thế gian.

Như vậy, từ Đức Phật Kassapa cho đến Đức Phật Gotama, trải qua thời gian lâu dài không thể tính bằng số được.

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của 3 Hoàng tử huynh đệ của Đức vua Jayasena cùng nhóm tùy tùng, các quan trong kiếp quá khứ như sau:

─ Hậu kiếp của 3 Hoàng tử huynh đệ trong kiếp quá khứ, nay kiếp hiện tại sinh làm người đã xuất gia trở thành 3 Đạo sĩ trưởng. Và nhóm tùy tùng 2.500 người trong kiếp quá khứ, nay cũng xuất gia trở thành 2.500 Đạo sĩ, đệ tử của 3 Đạo sĩ trưởng. Đức Phật Gotama ngự đến tế độ 3 Đạo sĩ trưởng cùng nhóm đệ tử, tất cả đều xuất gia trở thành Tỳ khưu, rồi đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.

─ Hậu kiếp của vị quan thủ kho trong quá khứ, nay kiếp hiện tại ông là phú hộ Visakha; và vợ vị quan thủ kho trong kiếp quá khứ, nay bà là vợ của phú hộ Visakha, có tên là Dhammadinnā. Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng ngự đến tế độ ông phú hộ Visakha, ông phú hộ chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai; và vợ của ông phú hộ là bà Dhammadinnā xuất gia trở thành Tỳ khưu Ni rồi chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.

─ Hậu kiếp của vị quan thâu thuế kiếp quá khứ, nay kiếp hiện tại ông là Đức vua Bimbisāra ngự tại kinh thành Rājagaha, trị vì xứ Magadha. Đức Phật ngự đến tế độ Đức vua Bimbisāra, Đức vua đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, cùng với số đông các quan và dân chúng trong kinh thành Rājagaha.

─ Hậu kiếp những người bà con của vị quan thâu thuế, mà không có đức tin nơi Tam Bảo, đã phạm điều giới trộm cắp đồ ăn của chư Tỳ khưu Tăng trong kiếp quá khứ, nay kiếp hiện tại chúng là nhóm ngạ quỷ đói khát.

Đức vua Bimbisāra có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Tam Bảo, xây dựng ngôi chùa Veḷuvana dâng đến chư Đại đức Tăng tứ phươngĐức Phật chủ trì chứng minh. Nhóm ngạ quỷ thân quyến đang trông chờ Đức vua hồi hướng phần phước thiện đến cho họ; nhưng trong dịp ấy, Đức vua quên không hồi hướng phước thiện bố thí đến cho chúng. Nhóm ngạ quỷ thân quyến thất vọng đêm khuya đến kêu la, than khóc phát ra âm thanh đáng kinh sợ.

Sáng ngày, Đức vua đến hầu Đức Phật, bạch hỏi do nhân nào có hiện tượng như vậy.

Đức Phật dạy:

“Này Đại vương, không có gì đáng kinh sợ, đó là tiếng kêu la than khóc của nhóm ngạ quỷ thân quyến của Đại vương trong quá khứ. Nhóm ngạ quỷ này trông ngóng Đại vương làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện cho chúng, để chúng thoát khỏi cảnh khổ, được tái sinh nơi cõi thiện dục giới ”.

Lắng nghe Đức Phật dạy như vậy, Đức vua liền bạch:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Đại đức Tăng ngự đến cung điện của con, để con làm phước thiện bố thí một lần nữa, lần này con sẽ hồi hướng phước thiện đến nhóm ngạ quỷ thân quyến của con.

Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức vua.

Đức vua Bimbisāra đảnh lễ Đức Thế Tôn trở về cung điện, sửa soạn vật thực làm phước thiện bố thí cho ngày hôm sau.

Phước thiện bố thíhồi hướng

Sáng hôm sau, Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng ngự đến cung điện của Đức vua. Chính tự tay Đức vua cúng dường vật thực đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng xong, Đức Phật thuyết bài kinh “Tirokuḍḍapetavatthu” tế độ nhóm ngạ quỷ, đồng thời Đức vua Bimbisāra hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến nhóm ngạ quỷ thân quyến. Chúng phát sinh thiện tâm hoan hỷ thọ hưởng phần phước thiện ấy, nên tất cả bọn chúng đều thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát ngay khi ấy; do nhờ năng lực phước thiện cho quả, được tái sinh làm chư thiên, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời dục giới.

Chúng ta được sinh làm người, có cơ hội làm phước thiện bố thí, còn các chúng sinh khác khó có cơ hội bố thí. Cho nên, chúng ta nên tìm cơ hội tốt để làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho thân quyến của chúng ta đang chịu đói khát, khổ cực trong hàng ngạ quỷ; lúc nào họ cũng trông ngóng đến sự hồi hướng phước thiện của thân quyến. Khi họ hay biết hoan hỷ phần phước thiện, mà chúng ta hồi hướng đến cho họ, chắc chắn họ thoát ra khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát, do nhờ phước thiện ấy cho quả được tái sinh cõi thiện dục giới : Cõi trời, cõi người.

Cho nên, khi thí chủ tạo được phước thiện nào xong rồi, nên đọc câu hồi hướng rằng:

“Idaṃ no ñātīnaṃ hotu,

 Sukhitā hontu ñātayo…”([10]).

“Phước thiện bố thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả thân quyến của chúng tôi, từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ. Cầu mong tất cả thân quyến phát sinh thiện tâm hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện này, để thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài”.

Như vậy, thân quyến là loài ngạ quỷ đang đứng trông chờ hoan hỷ phần phước thiệnthân quyến đã hồi hướng, ngay khi ấy, do năng lực phước thiện cho quả, họ được thoát khỏi kiếp sống ngạ quỷ đói khát, được chuyển kiếp tái sinh làm người hoặc làm chư thiên, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời.

3- Sự tích của người phạm điều giới tà dâm

Người phạm điều giới tà dâm là người có quan hệ tình dục bất chính với vợ hoặc chồng của người khác, đã tạo nên ác nghiệp tà dâm.

Quả khổ của ác nghiệp tà dâm

Trích trong bộ Therīgāthā (Đại đức Tỳ khưu ni kệ), Đại đức Tỳ khưu ni Isidāsitheri(1) thuật lại rằng: Tỳ khưu ni IsidāsiTỳ khưu ni Bodhī là bậc có giới đức hoàn toàn trong sạch, nhập thiền an hưởng sự an lạc trong thiền, là bậc đa văn túc trí, bậc Thánh Arahán đã tận diệt mọi phiền não. 2 Đại đức Tỳ khưu ni cùng nhau đi khất thực, độ xong cùng trở về, ngồi nghỉ một nơi thanh vắng đàm đạo với nhau. Đại đức Tỳ khưu ni Bodhī hỏi Đại đức Tỳ khưu ni Isidāsi rằng:

─ Này em Isidāsi, em là bậc đáng kính trọng, em đang còn trẻ, em thấy tội lỗitrong đời mà em xuất gia Tỳ khưu ni vậy?

Đại đức Tỳ khưu ni Isidāsi là bậc trí tuệ thông minh, có tài thuyết pháp đã thưa rằng:

─ Thưa chị Bodhī, xin chị nghe em thuật lại câu chuyện cuộc đời em, khiến em đi xuất gia như vầy:

“Em là đứa con gái duy nhất trong gia đình, cha em là phú hộ ở trong thành Ujjeni, là người có giới, có lòng từ bi thương yêu em. Khi em đã trưởng thành, có một người con trai phú hộ ở xứ Sāketa đến xin làm lễ cưới em về làm vợ, thân phụ của em bằng lòng cho em về làm dâu gia đình phú hộ xứ Sāketa. Em đã về nhà cha mẹ chồng, hằng ngày, em đảnh lễ cha mẹ chồng; cha mẹ chồng dạy bảo điều nào em cũng làm tròn phận sự điều ấy. Chị gái, em gái, anh trai, em trai, bà con, bạn bè người quen biết bên chồng, em chỉ thấy một lần, về sau khi gặp lại em cư xử kính trọng lễ phép, tiếp đón tử tế bằng thức ăn, nước uống, đồ dùng v.v…, em biết những gì hợp với người nào, em tiếp đãi biếu tặng cho người ấy. Buổi sáng, em thường thức dậy sớm, rửa mặt rửa tay xong, chắp tay đi vào hầu hạ chồng, nào lấy nước nóng nhúng khăn lau mặt, chải tóc, xoa vật thơm, lấy gương soi mặt, đem áo quần thay mới, hầu hạ chồng em, như người tớ gái ngoan ngoãn vâng lời chủ. Em tự nấu cơm canh, rửa chén bát, giặt quần áo cho chồng,… Người mẹ hiền săn sóc đứa con yêu quý duy nhất như thế nào, em cũng săn sóc chồng như thế ấy. Em chỉ có một mực hết lòng thương yêu, chiều chuộng chồng, chung thủy với chồng, làm tròn bổn phận người vợ trung thực đối với chồng. Em không hề có tính ngã mạn khó dạy, không hề lười biếng, nhác làm. Em là người siêng năng cần mẫn, dễ dạy, có giới trong sạch và đầy đủ. Thế mà chồng em không vừa lòng với em, không thương yêu em, chồng em thưa với cha mẹ rằng:

─ Kính thưa cha mẹ, con sẽ bỏ nhà ra đi, con không thể nào sống chung cùng trong một ngôi nhà với nàng Isidāsi được.

Cha mẹ chồng bảo chồng em rằng:

─ Này con yêu quý, con chớ nên nói như vậy, nàng Isidāsi là người thiện thông minh, siêng năng chăm chỉ, làm tròn phận sự của người vợ hiền, dâu thảo. Tại sao con không vừa lòng, không thương yêu Isidāsi vậy con!

Chồng em thưa với cha mẹ rằng:

─ Kính thưa cha mẹ, Isidāsi không hề làm điều gì để cho con phật ý, không vừa lòng cả, nhưng thưa cha mẹ, con không thể sống chung với Isidāsi được, con không muốn nhìn thấy mặt Isidāsi, con xin phép từ giã cha mẹ, con xin đi nơi khác.

Cha mẹ chồng khi nghe chồng em nói như vậy, đến hỏi em rằng:

─ Này con yêu quý, con đã làm điều gì sai quấy, làm cho chồng con không vừa lòng mà muốn từ bỏ con, con hãy nói thật cho cha mẹ nghe điều ấy?

Em thưa với cha mẹ chồng rằng:

─ Kính thưa cha mẹ, con không hề làm điều gì sai quấy, con không hề làm điều gì khiến cho chồng con phật ý, không vừa lòng cả. Con không hề coi thường chồng con, con không hề nói lời thô tục khiến chồng con không vừa lòng hoặc giận hờn con cả.

Cha mẹ chồng em khổ tâm vô cùng, không nói gì cả, nhưng dù sao cũng phải giữ con trai ở lại nhà, không cho con trai đi nơi khác, nên đành phải trả em trở về nhà cha mẹ em ở thành Ujjeni. Thế là kể từ đó, em trở thành người đàn bà đẹp bị chồng bỏ. Em về sống với gia đình cha mẹ em được một thời gian, cha của em lại gả em cho một người con trai của một gia đình giàu có, của cải bằng một nửa gia đình cha mẹ người chồng thứ nhất. Em sống chung với người chồng thứ hai, em cố gắng làm tròn phận sự của một người vợ, một người con dâu trong gia đình cha mẹ chồng, em hầu hạ săn sóc chồng em như một người đầy tớ gái hầu hạ săn sóc chủ. Mặc dù vậy, em hầu hạ săn sóc chồng em được một tháng, người chồng thứ hai cũng gửi trả em về lại với cha mẹ của em. Em trở về sống với gia đình cha mẹ em. Một hôm, cha em gặp một chàng trai trẻ đi lang thang, đi xin ăn sống nhờ vào lòng từ bi của người khác, chàng trai trẻ có thân, khẩu, ý hành thiện tốt. Cha em bảo chàng trai hành khất ấy:

─ Anh hãy đến làm rể của nhà tôi, anh hãy vất bỏ cái nồi đất nhỏ, cái bát xin cơm, bộ đồ rách rưới dơ bẩn của anh đi.

Anh ấy đồng ý đến làm rể của cha mẹ em, làm chồng của em. Em sống chung với người con trai hành khất ấy là người chồng thứ ba được trọn mười lăm (15) ngày. Người con trai hành khất ấy thưa với cha em rằng:

─ Thưa ông, xin ông trả lại cái nồi đất nhỏ, cái bát xin cơm, và bộ đồ rách rưới dơ bẩn ấy lại cho con, để cho con đi xin ăn, con không thể sống chung với nàng Isidāsi được.

Cha mẹ em và người bà con hỏi anh chàng hành khất ấy rằng:

─ Có điều gì làm con không được vừa lòng trong căn nhà ấy, con hãy nói, cha mẹbà con sẽ giúp đỡ cho con được vừa lòng như ý.

Chàng trai hành khất thưa với cha mẹ em và bà con rằng:

─ Tôi muốn được sống tự do, tôi không muốn sống chung với nàng Isidāsi.

Cha mẹ em phải để cho chàng trai hành khất ra đi sống tự do, còn lại một mình em suy nghĩ: “Em nên từ biệt cha mẹ, em nên đi tự tử, hoặc nên đi xuất gia Tỳ khưu ni”. Khi ấy, Đại đức Tỳ khưu ni Jinadattā, Ngài có giới đức trang nghiêm, bậc đa văn túc trí đến khất thực tại nhà em. Em nhìn thấy Đại đức Tỳ khưu ni, cung kính đón rước tiếp đãi, trải chỗ cho Ngài ngồi, em đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ngài, rồi kính dâng vật thực cúng dường đến Ngài. Khi Đại đức Tỳ khưu ni Jinadattā độ vật thực xong, em đảnh lễ và bạch rằng:

─ Kính thưa Đại đức ni, con có nguyện vọng muốn xuất gia Tỳ khưu ni, kính xin Ngài từ bi tế độ cho con.

Khi ấy cha mẹ em bảo với em rằng:

─ Này con gái yêu quý, con nên sống tại nhà, thực hành pháp, dâng vật thực cúng dường đến Samôn, Bàlamôn, như vậy cũng tốt chứ con!

Em chắp tay lạy cha mẹ, vừa khóc vừa thưa với cha mẹ rằng:

─ Kính xin cha mẹ từ bi cho phép con được xuất gia Tỳ khưu ni, con cố gắng thực hành phạm hạnh để làm cho ác nghiệp cũ của con hết hiệu lực cho quả.

Cha mẹ em biết không thể ngăn được ý nguyện của em, cha mẹ đành cho phép em xuất gia Tỳ khưu ni. Cha mẹ em còn cầu chúc cho em chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn cao thượng mà Chư Phật đã dạy: “Niết Bàn là pháp an lạc tuyệt đối, đối với chúng sinh đã chứng ngộ”. Em chắp tay lạy cha mẹbà con, rồi xin đi xuất gia Tỳ khưu ni. Sau khi em xuất gia Tỳ khưu ni được 7 ngày, em đã chứng đắc Arahán Thánh Đạo đến Arahán Thánh Quả cùng Tam minh, trở thành bậc Thánh Arahán. Em đã nhớ rõ lại tiền kiếp của em suốt 7 kiếp, kể từ kiếp hiện tại này trở lại theo tuần tự 7 kiếp quá khứ của em, để biết ác nghiệp nào cho quả khiến cho cuộc đời của em bị chồng không vừa lòng bỏ em như vậy. Em xin kể lại quả của ác nghiệp đã tạo trong tiền kiếp. Xin chị lắng tai nghe ác nghiệp và quả ác nghiệp ấy:

Quả khổ não của ác nghiệp tà dâm

─ Tiền kiếp thứ 7, kể từ kiếp này trở lui, em là con trai tiệm vàng có nhiều của cải giàu sang ở thành Erakaccha, là người dể duôi si mê trong thời trẻ trung, đã phạm điều giới tà dâm với vợ người khác, đã tạo nên ác nghiệp tà dâm.

─ Tiền kiếp thứ 6, sau khi con trai tiệm vàng chết, do ác nghiệp tà dâm cho quả tái sinh vào cõi địa ngục, chịu khổ não suốt thời gian lâu dài trong đại địa ngục Avīci, là quả khổ của ác nghiệp phạm điều giới tà dâm, cho đến khi mãn quả ác nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cảnh địa ngục.

─ Tiền kiếp thứ 5, sau khi thoát ra khỏi cảnh địa ngục, do ác nghiệp tà dâm cho quả tái sinh làm con khỉ đực. Khỉ đực con sinh ra được 7 ngày, bị con khỉ chúa cắt đứt bộ dương vật. Đó là quả của ác nghiệp tà dâm.

─ Tiền kiếp thứ 4, sau khi kiếp con khỉ chết, do ác nghiệp tà dâm cho quả tái sinh làm con dê đực bị mù mắt, què chân; về sau, cũng bị cắt đứt bộ dương vật, rồi sinh bệnh sưng làm mủ, dòi ăn bộ sinh dục, phải chịu đau khổ suốt 12 năm rồi chết. Đó là quả của ác nghiệp tà dâm.

─ Tiền kiếp thứ 3, sau khi dê đực chết, do ác nghiệp tà dâm cho quả tái sinh làm con bò đực có bộ lông nâu. Khi lớn lên được 12 tháng cũng bị thiến bộ sinh dục. Kiếp làm bò đực, khi thì người chủ bắt kéo cày, khi thì người chủ bắt kéo xe, không có lúc nào được nghỉ ngơi; về sau, kiếp bò đực ấy bị mù đôi mắt, bệnh hoạn rồi chết. Đó là quả của ác nghiệp tà dâm.

─ Tiền kiếp thứ 2, sau khi kiếp bò đực chết, do thiện nghiệp khác cho quả tái sinh làm con của một người tớ gái, là đứa trẻ ái nam ái nữ (không phải trai cũng không phải gái), sống được 30 tuổi rồi chết. Đó là quả của ác nghiệp tà dâm.

─ Tiền kiếp thứ nhất, sau khi kiếp ái nam ái nữ chết, do thiện nghiệp khác cho quả tái sinh làm người con gái gia đình thợ dệt chiếu nghèo nàn cực khổ, túng thiếu mang nợ, chủ nợ đến đòi, không trả nổi, người chủ nợ lấy tất cả của cải, bắt gia đình, kể cả con gái về làm tôi tớ. Về sau, khi đứa con gái (là em) lớn được 16 tuổi rất xinh đẹp, người con trai chủ nợ tên Giridāsa bắt ép làm vợ, mặc dù ông ta đã có vợ lớn rồi. Người vợ lớn là người có giới, có đức hạnh tốt, thương yêu chiều chuộng chung thủy với chồng. Song ông Giridāsa rất say mê người vợ nhỏ xinh đẹp. Thấy vậy, người vợ nhỏ (là em) năn nỉ, lời ngon, tiếng ngọt, xúi dục ông Giridāsa đuổi người vợ lớn ra khỏi nhà. Do ác nghiệp đó nên kiếp này 3 người chồng đều ruồng bỏ em, đuổi ra khỏi nhà, không muốn nhìn mặt em, mặc dù em hết lòng hầu hạ chồng như người tớ gái ngoan ngoãn lo phục vụ chủ. Đó là ác nghiệp xúi dục chồng đuổi vợ lớn ra khỏi nhà.

Kiếp hiện tại này là kiếp cuối cùng của em, quả của mọi ác nghiệp sẽ kết thúc trong kiếp sống chót này, vì kiếp nàyem đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, sẽ tịch diệt Niết Bàn chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, không còn tái sinh trở lại kiếp nào nữa.

Quả khổ của ác nghiệp tà dâm

Trích trong bộ Chú giải Pháp cú, khi ấy Đức Phật đang ngự tại chùa Jetavana đề cập đến câu chuyện Aññatarapurisavatthu([11]): Có một đoạn nói về quả khổ của ác nghiệp tà dâm, được tóm lược như sau: Một hôm, Đức vua Pasenadi Kosala cỡi bạch tượng trang sức lộng lẫy có đoàn quân lính hầu ngự đi trong thành biểu dương oai lực của Đức vua. Khi ấy, một người đàn bà rất xinh đẹp, đứng ở cửa sổ trên tầng 7 của lâu đài nhìn Đức vua; Đức vua ngẩng lên nhìn thấy nàng đẹp như tiên nữ, Đức vua sinh tâm yêu say đắm nàng ấy. Khi trở về cung điện, Đức vua gọi vị quan cận thần đi dò hỏi xem nàng đã có chồng hay chưa. Vị quan cận thần về tâu cho Đức vua biết, nàng đã có chồng rồi. Đức vua truyền lệnh đòi chồng của nàng vào, Đức vua bày mưu kế hiểm giết người chồng, để chiếm người vợ trẻ rất xinh đẹp ấy. Mưu kế đã đặt bày, đợi ngày hôm sau mới giết người đàn ông và sẽ chiếm người vợ trẻ xinh đẹp, Đức vua bị lửa tình dục thiêu đốt, suốt đêm không sao ngủ được, trông cho mau đến sáng. Khi ấy, có 4 chúng sinh trong địa ngục Lohakumbhi Địa ngục nước đồng sôi” (chiều sâu 60 do tuần) bị lửa ngục thiêu đốt, nước đồng sôi làm cho cả 4 chúng sinh ấy nhào lên rồi lộn xuống, giống như hạt gạo đang sôi trong nồi cháo lỏng. Từ miệng địa ngục nước đồng sôi chìm đến đáy thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm; rồi từ đáy nước đồng sôi nổi lên đến miệng thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm, vừa đến miệng 4 chúng sinh nhìn nhau định đọc một câu kệ, nhưng thời gian không kịp, cho nên mỗi chúng sinh ấy chỉ đọc được âm: Du, sa, na, so. Đức vua suốt đêm không ngủ được, vào canh giữa đêm nghe rõ 4 âm đầu “du, sa, na, so”. Đức vua kinh sợ không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho mình, cho Hoàng hậu hoặc cho ngai vàng của mình, không sao nhắm mắt được cho đến sáng. Đức vua truyền lệnh gọi vị quân sư đến hỏi, vị quân sư không biết, nhưng sợ mất mặt nên nói bậy: “Có sự nguy hiểm đến sinh mạng của Đức vua”. Vị quân sư bày ra việc lấy máu tế thần, bắt 100 con voi, 100 con ngựa, 100 con bò đực, 100 con bò sữa, 100 con dê, 100 con cừu, 100 con gà, 100 con heo, 100 đứa con trai, 100 đứa con gái cắt cổ lấy máu tế thần, để Đức vua khỏi bị nguy hiểm đến tính mạng. Hoàng hậu Mallikā hay tin Đức vua tin theo lời vị quân sư, truyền lệnh bắt sinh vật làm lễ tế thần. Hoàng hậu Mallikā ngăn cản việc sát sinh và mời Đức vua đến hầu Đức Phật. Đức vua cùng Hoàng hậu Mallikā đến hầu Đức Phật, Hoàng hậu Mallikā kính bạch Đức Phật rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, vào canh giữa đêm Đức vua không ngủ được, nằm nghe 4 tiếng rùng rợn, Đức vua hỏi vị quân sư, quân sư tâu có sự nguy hiểm đến tính mạng của Đức vua, nên bày ra việc sát sinh làm lễ tế thần, để khỏi nguy hiểm đến tính mạng. Sự thật như thế nào? Bạch Ngài.

Đức Phật truyền dạy rằng:

─ Này Đại vương, Đại vương nghe tiếng như thế nào?

Đức vua bạch rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, đêm qua con không ngủ được, vào canh giữa đêm con nghe 4 âm du, sa, na, so, con cảm thấy kinh sợ không biết sự việc gì sẽ xảy đến cho con? Bạch Ngài.

Đức Phật dạy:

─ Này Đại vương, không có sự nguy hiểm gì xảy đến cho Đại vương. Đó là 4 chúng sinh trong địa ngục đã từng tạo ác nghiệp trong tiền kiếp, khi chúng nhìn thấy lại nhau, muốn đọc câu kệ, nhưng thời gian không kịp, mới đọc được âm đầu của câu, rồi bị chìm lại xuống đại địa ngục.

Đức vua bạch hỏi:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, 4 chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp gì? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn thuyết dạy về ác nghiệp của 4 chúng sinh ấy rằng:

─ Này Đại vương, Đại vương hãy lắng nghe ác nghiệp mà 4 chúng sinh ấy đã tạo trong kiếp quá khứ.

Trong quá khứ, thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ của con người khoảng 20.000 (hai mươi ngàn) năm. Đức Phật Kassapa cùng chư Tỳ khưu Tăng ngự đi khắp mọi nơi tế độ chúng sinh. Trong xứ Bārāṇasi, 4 người con trai của 4 ông phú hộ, có của cải đến 400 triệu, là bạn hữu với nhau, chúng không nghĩ làm phước bố thí cúng dường Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng, không nghĩ giữ gìn giới và tạo mọi thiện pháp, nhưng chúng lại bàn tính với nhau rằng: “Trong nhà chúng ta có nhiều của cải, chúng ta sẽ làm gì với số của cải ấy để được sung sướng”. Một người nói rằng:

─ Chúng ta uống rượu ngon, ăn đồ ngon, đi chơi, thì đời sống của chúng ta được sung sướng.

Một người khác lại nói rằng:

─ Chúng ta ăn cơm nấu từ gạo sāli, có mùi thơm được cất giữ suốt 3 năm, với đồ ăn ngon, đi chơi, thì đời sống của chúng ta được sung sướng.

Một người khác nói rằng:

─ Chúng ta sai người làm đồ ăn ngon đặc biệt, ăn rồi đi chơi, thì cuộc sống chúng ta được sung sướng.

Một người khác nói rằng:

─ Này các bạn, phần đông đàn bà ham tiền của, chúng ta đem tiền của ra dụ dỗ vợ của người khác sống chung với chúng ta, thì cuộc sống của chúng ta sẽ được sung sướng nhiều.

Cả 4 người con của 4 ông phú hộ đồng tình với nhau theo ý kiến cuối cùng. Từ đó, cả 4 người ấy đem tiền bạc dụ dỗ con gái, vợ người khác, đã phạm điều giới tà dâm tạo ác nghiệp. Cả 4 người sau khi chết, do ác nghiệp tà dâm cho quả tái sinh vào cõi đại địa ngục Avīci, suốt khoảng thời gian lâu dài, từ thời kỳ Đức Phật Kassapa cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian. Khi chúng mãn quả ác nghiệp tà dâm trong đại địa ngục Avīci, song quả ác nghiệp ấy còn dư sót, cho quả tái sinh vào địa ngục Lohakumbhi “Địa ngục nước đồng sôi” chiều sâu 60 do tuần (yojana), từ miệng địa ngục chìm xuống đến đáy trải qua thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm, rồi từ đáy địa ngục nước đồng sôi trồi lên đến miệng địa ngục trải qua thời gian 30.000 năm, khi nổi lên đến miệng địa ngục thì 4 người nhìn nhau định đọc câu kệ, nhưng vì thời gian ngắn ngủi không kịp, mỗi người chỉ đọc được một âm đầu, rồi chìm xuống đáy trở lại.

─ Này Đại vương, Đại vương nghe âm đầu của câu kệ “du”, còn câu kệ đầy đủ là:

Dujjīvitamajīvimha, Ye sante na dadamhase, Vijjamānesu bhojesu, Dīpaṃ nākamha attano”([12]). “Này các bạn thân mến của tôi!  Khi chúng ta có nhiều của cải, Đã không đem làm phước bố thí, Làm hòn đảo nương nhờ của mình. Chúng ta có tuổi thọ sống lâu. Mà sống đời thấp hèn đáng khinh”.

─ Này Đại vương, Đại vương nghe âm đầu của câu kệ “sa”, còn câu kệ đầy đủ là:

Saṭṭhivassasahassāni, Paripuṇṇāni sabbaso, Niraye paccamānānaṃ, Kadā anto bhavissati”(1). “Này các bạn thân mến của tôi! Chúng ta chịu khổ trong địa ngục, Đầy đủ suốt sáu chục ngàn năm. Khi nào chúng ta mới mãn hạn, Trong địa ngục này các bạn nhỉ?”.

─ Này Đại vương, Đại vương nghe âm đầu của câu kệ “na”, còn câu kệ đầy đủ là:

Natthi anto kato anto, Na anto paṭidissati, Tadā hi pakataṃ, pāpaṃ, Mama tuyhañca, mārisā”(2). “Này các bạn thân mến của tôi! Mãn hạn trong địa ngục không có, Sự mãn hạn từ đâu có được? Mãn hạn địa ngục không hiện rõ. Bởi vì khi chúng ta làm người, Tôi và các bạn tạo ác nghiệp”.

─ Này Đại vương, Đại vương nghe âm đầu của câu kệ “so”, còn câu kệ đầy đủ là:

Sohaṃ nūna ito gantvā, Yoniṃ laddhāna mānusiṃ. Vadaññū sīlasampanno, Kāhāmi kusalaṃ bahuṃ”(1). “Này các bạn thân mến của tôi! Sau khi tôi thoát khỏi địa ngục, Nếu được tái sinh lại làm người, Sẽ là người biết lắng nghe pháp, Giữ giới trong sạchtrọn vẹn. Chắc chắn sẽ tạo nhiều phước thiện”. Khi Đức Phật giảng giải xong ý nghĩa 4 âm đầu của 4 câu kệ đầy đủ của 4 chúng sinh địa ngục vốn là 4 người con của 4 ông phú hộ trong tiền kiếp, Đức vua lắng nghe phát sinh động tâm nghĩ rằng: “Tạo ác nghiệp tà dâm này nặng đến thế! 4 người con của 4 ông phú hộ phạm điều giới tà dâm, phải chịu thiêu đốt ở đại địa ngục Avīci, suốt khoảng thời gian từ Đức Phật Kassapa đến Đức Phật Gotama. Sau khi thoát ra khỏi đại địa ngục Avīci, rồi còn phải sa vào địa ngục nước đồng sôi Lohakumbhi chiều sâu 60 do tuần, chịu thiêu đốt 60.000 (sáu mươi ngàn) năm rồi, cũng chưa biết lúc nào mãn hạn quả khổ ở địa ngục nước đồng sôi này. Còn ta đem lòng thương yêu, say mê vợ người khác, làm suốt đêm không ngủ được. Kể từ nay, ta sẽ không dám sinh tâm thương yêu, say mê vợ người khác nữa”.

Quả khổ của ác nghiệp tà dâm

Trong bộ Chú giải Pháp cú (Dhammapadaṭṭhakathā). Khi ấy, Đức Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana, đề cập chuyện Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā([13]), một đoạn nói đến quả khổ của ác nghiệp tà dâm, được tóm lược như sau: Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā vốn có sắc đẹp tuyệt trần, có màu da đẹp như đóa hoa sen hồng. Ngài là bậc Thánh Arahán, với ngôi vị Thánh nữ Tối Thượng Thanh VănThần thông xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama Khi Ngài còn sống tại gia, có tên Nanda say mê sắc đẹp của Ngài. Mặc dù Ngài đã xuất gia Tỳ khưu ni trở thành bậc Thánh Arahán rồi, tên Nanda vẫn say mê Ngài, luôn luôn theo dõi để biết chỗ ở của Ngài, còn biết rõ ràng Ngài đi khất thực giờ nào, trở về vào giờ nào... Khi ấy, Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā ở một cốc nhỏ trong khu rừng rất yên tĩnh. Buổi sáng Ngài đi vào xóm để khất thực, tên Nanda lén vào rừng, chui vào cốc nằm trốn dưới gầm giường. Sau khi khất thực độ xong, trở về cốc nhỏ ở trong rừng, Ngài vừa ngồi lên giường, thì tên Nanda từ dưới gầm giường bò ra, leo lên giường dùng sức mạnh hãm hiếp Ngài. Tuy Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā ngăn cấm rằng:

─ Này kẻ ngu muội, ngươi chớ nên làm điều tội lỗi!

Này kẻ ngu muội, ngươi chớ nên làm điều tội lỗi!. Nhưng tên Nanda quá si mê tăm tối, không nghe lời ngăn cấm của Ngài mà vẫn dùng sức mạnh cưỡng hiếp Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā. Sau khi hành động xong, tên Nanda đã tạo ác nghiệp trọng tội khiến mặt đất nứt ra làm hai, ngọn lửa phun lên hút y vào trong lòng đất. Sau khi chết, ác nghiệp tà dâm cho quả tái sinh trong đại địa ngục Avīci, chịu khổ thiêu đốt trong đại địa ngục ấy. Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā trình sự việc ấy lên Tỳ khưu ni Tăng, Tỳ khưu ni Tăng trình bày lên Tỳ khưu Tăng, Tỳ khưu Tăng trình lên Đức Phật. Nhân sự việc xảy ra, Đức Phật thuyết câu kệ rằng: “Madhu vā maññati bālo, Yāva pāpaṃ na paccati. Yadā ca paccati pāpaṃ, Bālo dukkhaṃ nigacchati”(1). “Này chư Tỳ khưu, Kẻ ác tạo ác nghiệp, Ác nghiệp chưa cho quả. Kẻ ác tưởng như ngọt. Khi ác nghiệp cho quả. Kẻ ác chịu khổ đắng”. Chuyện Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā bị tên Nanda hãm hiếp; có số người không biết sinh tâm hoài nghi rằng: “Bậc Thánh Arahán có còn thỏa thích trong dục lạc hay không?”. Để diệt bỏ tâm hoài nghi ấy, nên Đức Phật truyền dạy rằng:

─ Này chư Tỳ khưu, chư bậc Thánh Arahán hoàn toàn không còn thỏa thích trong dục lạc nữa, không thích trong sự hành dâm; giống như hột nước không dính trên lá sen, không đọng lại trên lá sen mà chảy rơi xuống ngay; hoặc giống như hạt cải nhỏ không dính trên đầu mũi kim, không đứng vững trên đầu mũi kim mà phải rơi xuống ngay. Giống như vậy, phiền não dục (kilesakāma) và vật dục (vatthukāma) không bao giờ làm ô nhiễm tâm của bậc Thánh Arahán. Bậc Thánh Arahán không bao giờ dính mắc hai loại dục này.

4- Sự tích người phạm điều giới nói dối

Người phạm điều giới nói dối là người nói lời lừa dối, trái với sự thật, khiến cho người nghe tin theo, đem lại sự tai hại trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai. Cho nên, người phạm điều giới nói dối, tạo ác nghiệp nói dối, rồi phải chịu quả khổ tái sinh trong cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.

Tích con cá vàng Kapila

Sự tích con cá vàng Kapila trong bộ Chú giải Dhamma-padaṭṭhakathā, được tóm lược như sau: Khi ấy, Đức Phật đang ngự tại chùa Jetavana, đề cập đến sự tích con cá tên là Kapila([14]), tóm lược một đoạn liên quan đến ác nghiệp nói dối như sau: Trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Kassapa, có hai anh em, người anh tên Sāgata, người em tên Kapila. Cả hai anh em có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật Kassapa. Còn thân mẫu tên Sādhinī, và em gái tên Tapanā, cả hai người đều xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Sau khi hai anh em trở thành Tỳ khưu xong, một hôm hai huynh đệ Tỳ khưu bạch hỏi Thầy tế độ rằng:

─ Kính bạch Thầy, phận sự trong Phật giáo có bao nhiêu? Bạch Thầy.

Vị Thầy tế độ dạy rằng:

─ Này con, trong Phật giáo này có hai phận sự chính là:

1- Gandhadhura: Phận sự học pháp học đó là học Tam Tạng, Chú giải, v.v…

2- Vipassanādhara: Phận sự hành pháp hành thiền tuệ, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Vị Tỳ khưu Sāgata suy nghĩ rằng: “Ta lớn tuổi, ta nên theo phận sự hành pháp hành thiền tuệ, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn ”. Vị Tỳ khưu Sāgata ở với vị Thầy tế độ 5 hạ (5 năm) học hiểu rõ về giới, định, tuệ, pháp hành thiền tuệ với Thầy tế độ xong, xin phép đi vào rừng để thực hành thiền tuệ; về sau chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán. Vị Tỳ khưu Kapila nghĩ rằng: “Ta còn nhỏ tuổi, ta nên theo phận sự học pháp học trước, khi lớn tuổi ta sẽ theo phận sự hành pháp hành thiền tuệ sau”. Vị Tỳ khưu Kapila cố gắng theo học pháp học, ghi nhớ Tam Tạng, nhờ ghi nhớ pháp học giỏi, có tài biện luận, có tài thuyết pháp hay, nên có nhiều người nghe theo. Do có nhiều người nghe theo, nên có nhiều lợi lộc phát sinh, vị Tỳ khưu Kapila say mê trong lợi lộc, ỷ lại vào tài năng sở học của mình, nên phát sinh tâm ngã mạn, tự cho mình là tài giỏi hơn người, coi thường bậc phạm hạnhgiới đức, dùng sở học của mình áp chế người khác, ngụy biện đảo lộn.

─ Điều nên hành (kappiya), nói không nên hành (akappiya).

─ Điều không nên hành (akappiya), nói nên hành (kappiya).

─ Điều có lỗi (sāvajja), nói không có lỗi (anavajja).

─ Điều không có lỗi (anavajja), nói có lỗi (sāvajja)…

Những bậc thiện trígiới đức, có lòng từ bi, đến khuyên bảo nhắc nhở rằng:

─ Này pháp hữu Kapila, không nên nói như vậy, làm hư hoại Phật giáo.

Tỳ khưu Kapila không kính trọng bậc thiện trí, lại còn coi thường trách rằng:

─ Quý vị không hiểu biết gì, quý vị chỉ có nắm tay không…

Những bậc thiện trí đem chuyện này thưa với Ngài Đại đức Sāgata, bậc Thánh Arahán, là pháp huynh của Tỳ khưu Kapila. Ngài Đại đức Sāgata đến khuyên bảo nhắc nhở rằng:

─ Này Kapila, pháp đệ nên thực hành đúng đắn như chư thiện trí khuyên dạy, làm cho Phật giáo được trường tồn. Vì vậy, cho nên pháp đệ hãy từ bỏ tà kiến sai lầm, như điều nên hành nói không nên hành, v.v…

Tỳ khưu Kapila ngã mạn khó dạy, không làm theo lời khuyên của pháp huynh. Ngài Đại đức Sāgata từ bi đến khuyên dạy 2-3 lần, biết Tỳ khưu Kapila không nghe lời khuyên bảo nhắc nhở, mới dạy rằng:

─ Này Kapila, như vậy, pháp đệ sẽ thọ lãnh quả ác nghiệp của mình.

Tỳ khưu Kapila càng ngày càng tạo ác nghiệp nói dối, sau khi chết, ác nghiệp nói dối ấy cho quả tái sinh vào cõi đại địa ngục Avīci chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo. Thân mẫu và em gái là Tỳ khưu ni có tính thiên vị, bênh vực Tỳ khưu Kapila, rồi mắng nhiếc những Tỳ khưu có giới đức, nên cả hai sau khi chết, cũng do ác nghiệp cho quả đều tái sinh vào cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

Kapila sinh làm con cá vàng lớn

Hậu kiếp Tỳ khưu Kapila ở trong đại địa ngục Avīci, bị thiêu đốt chịu bao nhiêu khổ cực, suốt khoảng thời gian từ thời Đức Phật Kassapa cho đến thời Đức Phật Gotama, mới thoát ra khỏi địa ngục. Do ác nghiệp nói dối ấy còn dư sót cho quả tái sinh làm con cá lớn ở sông Aciravatī có vảy như màu vàng, nhưng miệng có mùi hôi thối ghê tởm, đó là quả của ác nghiệp nói dối. Một hôm nhóm trẻ xóm dân chài, bàn tính nhau đi bắt cá, đem lưới giăng ở sông Aciravatī, cá vàng lớn này bị mắc lưới, được bắt lên trên ghe, dân chài thấy cá lạ, mang đến trình Đức vua để lãnh thưởng. Đức vua nhìn thấy con cá vàng lớn lạ thường, nên nghĩ rằng: “Mang con cá này đến trình Đức Phật để biết rõ thế nào”. Con cá được mang đến chùa Jetavana, khi con cá mở miệng mùi hôi thối tỏa ra khắp chùa Jetavana. Đức vua bạch hỏi Đức Phật rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, do nhân nào con cá có màu như vàng? Do nhân nào miệng con cá lại hôi thối đến như thế? Bạch Ngài.

Đức Phật dạy rằng:

─ Này Đại vương, con cá này tiền kiếp là Tỳ khưu tên Kapila trong giáo pháp của Đức Phật Kassapa, là bậc đa văn túc trí, học Tam Tạng có tài thuyết pháp; được nhiều người nghe theo. Vì lòng tham muốn trong lợi lộc chế ngự, mắng nhiếc Tỳ khưu có giới đức không nghe theo mình. Khi giáo pháp của Đức Phật Kassapa bị mai một; Tỳ khưu Kapila sau khi chết, do ác nghiệp nói dối cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ ác nghiệp mà y đã tạo. Bây giờ cũng do ác nghiệp nói dối ấy cho quả tái sinh làm con cá màu vàng này.

Con cá có màu như vàng là do quả của thiện nghiệp, học pháp học Phật giáo nhiều năm và tán dương ca tụng Ân đức Phật lâu năm. Miệng của con cá có mùi hôi thối ghê tởm là do quả của ác nghiệp mắng nhiếc Tỳ khưu có giới, thuyết pháp sai chánh pháp.. Này Đại vương, Như Lai sẽ làm cho con cá nói được.

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài làm cho con cá nói. Bạch Ngài.

Đức Phật hỏi con cá rằng:

─ Ngươi có tên là Kapila phải không?

Con cá bạch rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, con tên là Kapila. Bạch Ngài.

─ Ngươi từ đâu đến tái sinh?

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, kiếp trước con từ đại địa ngục Avīci, do ác nghiệp cho quả tái sinh đến làm con cá. Bạch Ngài.

─ Tỳ khưu Sāgata, pháp huynh của ngươi ở đâu?

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp huynh Sāgata đã tịch diệt Niết Bàn. Bạch Ngài.

─ Tỳ khưu ni Sādhinī, thân mẫu của ngươi ở đâu?

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, thân mẫu của con đang ở trong địa ngục.

─ Tỳ khưu ni Tāpana, em gái của ngươi ở đâu?

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, em gái của con cũng đang ở trong địa ngục.

─ Bây giờ ngươi sẽ đi đâu?

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, sau khi chết, ác nghiệp sẽ cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi đại địa ngục Avīci như trước. Bạch Ngài.

Con cá Kapila hối hận tức mình tự đập đầu chết tức thì, cũng do ác nghiệp nói dối cho quả tái sinh vào cõi đại địa ngục Avīci trở lại. Tất cả mọi người nghe cuộc đối thoại giữa Đức Phật và con cá vàng, phát sinh động tâm nổi da gà, rợn tóc gáy.

Nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā vu oan cho Đức Phật

Thuở ấy, Đức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, nhóm các tu sĩ ngoại đạo bày mưu với nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā([15]) vu oan, mắng nhiếc Đức Phật, để làm mất uy tín của Ngài trước tứ chúng đệ tử([16]).

Vào thời kỳ đầu của chánh pháp, các hàng đệ tử ngày một thêm đông, chư thiên, phạm thiên, nhân loại đã chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả vô số, không sao kể xiết. Vì vậy, danh thơm tiếng tốt của Đức Phật lan tỏa khắp mọi nơi. Đại đa số quần chúng trước kia có truyền thống theo các giáo phái ngoại đạo, nay đã trở thành đệ tử của Đức Phật. Đó là điều mà các tu sĩ ngoại đạo cảm thấy bị tổn thương, những tín đồ cũ không giữ lại được, tín đồ mới không thêm, sự cúng dường lợi lộc càng ngày càng giảm dần.

Khi thấy quần chúng lũ lượt kéo nhau đi nghe pháp cúng dường tứ vật dụng đến Đức PhậtTăng chúng, các tu sĩ ngoại đạo đã ra đứng chặn giữa đường rồi lớn tiếng thuyết phục:

─ Không chỉ Samôn Gotama là Đức Phậtchúng tôi đây cũng là Thế Tôn. Bố thí cúng dường đến Samôn Gotama có phước nhiều, quả báu nhiều, thì bố thí cúng dường đến chúng tôi cũng được như vậy!

Mặc dù các tu sĩ ngoại đạo gắng sức rao truyền quảng cáo, cũng không thể đem lại đức tin cho quần chúng được nữa. Khi phần đông dân chúng mất đức tin nơi các tu sĩ đạo, thì họ cũng bị mất nhiều lợi lộc. Do đó, chúng họp bàn với nhau bày mưu kế thâm độc để hạ uy tín của Đức Phật.

Thời ấy, trong thành Sāvatthi có người kỹ nữ duyên dáng, xinh đẹp như thiên nữ tên là Ciñcāmāṇavikā. Nàng vốn là đệ tử thuần thành của các tu sĩ ngoại đạo. Thấy sắc đẹp tuyệt trần của nàng Ciñcāmāṇavikā, các tu sĩ ngoại đạo nghĩ ra diệu kế: “Chúng ta dùng nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai với Samôn Gotama, gây ra sự hiểu lầm, để làm mất uy tín của Samôn!”.

Mưu kế ấy được họ chấp nhận.

Một hôm, như lệ thường nàng Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, đảnh lễ các tu sĩ xong, nàng ngồi một bên. Nàng Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao các tu sĩ ngồi im lặng không nói với nàng một câu nào. Nàng nghĩ: “Mình có lỗi gì đây!”.

Nàng bạch vị Trưởng Lão rằng:

─ Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng con không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?

Vị Trưởng Lão tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng:

─ Không! Này con, con là một đệ tử rất tốt, con không có lỗi gì! Hiện nay đời sống của quý thầy khổ sở, thiếu thốn lắm con à! Vì vậy, quý thầy buồn bực, khổ tâm, không ai buồn nói với ai điều gì nữa.

Nàng Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên, nóng lòng hỏi:

─ Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?

─ Này Ciñcāmāṇavikā, con không biết gì hay sao? Chính Samôn Gotama đã làm khổ quý thầy, chính Samôn Gotama đã làm cho quý thầy mất hết cả uy tín, danh vọng và những lợi lộc cúng dường,… cho nên, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy!

Nàng Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa:

─ Vậy mà con có hay biết gì đâu? Không biết con có thể làm gì, để giúp đỡ cho quý Ngài?

Các vị tu sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói:

─ Chỉ sợ con ngại khó, mà không giúp quý thầy đó thôi.

Nàng Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp:

─ Không! khó khăn gì con cũng có thể làm được, miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi!

Vị tu sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói:

─ Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý thầy, thì chỉ có một phương pháp duy nhất là con hãy dùng cái sắc đẹp duyên dáng, đầy quyến rũ của con, làm thế nào đó giả mang thai với Samôn Gotama. Con làm được như vậy, sẽ làm giảm uy tín của Samôn Gotama, như thế thì phần đông tín đồ của Samôn Gotama sẽ trở về lại với chúng ta.

Nàng Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói:

─ Đúng vậy, kế này rất hay! Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.

Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sāvatthi sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức Phật trở về nhà, họ thường gặp nàng Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay đang đi trên đường hướng đến chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi:

─ Chiều tối rồi, cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý tạo ra một sự nghi ngờ:

─ Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

Nói xong, nàng bước đi theo hướng đến chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.

Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận sự nam, cận sự nữ đem vật dụng đến chùa Jetavana để cúng dường Đức PhậtTăng chúng, thì thấy nàng Ciñcāmāṇavikā từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Sāvatthi, người ta lại hỏi nàng:

─ Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp:

─ Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!

Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, nàng Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận sự nam, cận sự nữ khác hỏi rằng:

─ Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực.

─ Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi mà! Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin khai thật: “Đêm qua tôi nghỉ ở Gandhakuṭi chung với Samôn Gotama để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi”.

Nói xong, nàng tỏ vẻ đắc ý bỏ vào thành.

Khi nghe nàng Ciñcāmāṇavikā nói vậy, một số cận sự nam, cận sự nữ thiểu trí, sinh tâm bán tín bán nghi. 3 - 4 tháng sau, nàng Ciñcāmāṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài làm như người đang mang thai. Có một số người không có trí tuệ, không hiểu biết về giáo pháp của Đức Phật nghĩ là cô Ciñcāmāṇavikā thật sự có thai với Samôn Gotama rồi.

Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Đức Thế Tôn đến hồi chung cuộc. Nhóm tu sĩ ngoại đạo gọi nàng Ciñcāmāṇavikā đến, họ dùng một miếng gỗ đẽo hình dạng giống như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có 4 đầu dây giăng. Nàng Ciñcāmāṇavikā mang vào buộc chặt sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người mang thai thật; sau đó, nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng cây đánh vào sống bàn tay, bàn chân của nàng cho sưng lên nhìn đúng là người đàn bà sắp đến thời kỳ sinh nở.

Đức Phật thắng nàng Ciñcāmāṇavikā

Vào một buổi chiều, khi Đức Phật đang ngự trên pháp tòa, tại giảng đường chùa Jetavana, tứ chúng đệ tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì nàng Ciñcā-māṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, đến trước Đức Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:

─ Này ông đại Samôn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ? Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ…. Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dầu ông bận không lo cho tôi được, thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức vua Pasenadi, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà Visākhā,… lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thỏa mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây!

Nghe nàng Ciñcāmāṇavikā mắng nhiếc, Đức Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại, an tịnh trên pháp tòa rồi từ tốn nói:

“Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvaṃ vā vitathabhāvaṃ vā ahameva ca tvañca jānāma”([17]).

─ Này cô! Cô nói lời chân thật hay giả dối chỉ có Như Lai và cô biết rõ mà thôi?

Nàng Ciñcāmāṇavikā liền đáp:

─ Đúng vậy, này ông Đại Samôn, chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi!

Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam Thập Tam Thiên, bảo tòa của Vua trời Sakka nóng lên, bằng thiên nhãn quan sát nguyên nhân, vua trời thấy rõ nàng Ciñcāmāṇavikā đang mắng nhiếc Đức Phật trước tứ chúng đệ tử, bởi những chuyện không có thật. Đây là âm mưu thâm độc của nhóm tu sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā vô liêm sỉ, cố ý làm hạ uy tín của Đức Phật trước tứ chúng đệ tử. Vua trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Vua trời cùng 4 thiên nam xuất hiện xuống giảng đường chùa Jetavana ngay tức khắc. Theo lệnh của Đức vua trời, 4 vị thiên nam hóa thành 4 con chuột, cùng một lúc bò lên cắn đứt 4 sợi dây dùng để cột tấm gỗ, hình dạng giống bào thai, sau lưng nàng Ciñcāmāṇavikā, đồng thời Vua trời hóa một luồng gió thổi cho tấm gỗ kia rơi xuống đất đụng nhằm vào hai bàn chân của nàng Ciñcāmāṇavikā, làm cho đôi chân của nàng bầm máu.

Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên được phơi bày trước mắt tứ chúng đệ tử. Nàng Ciñcāmāṇavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người nhổ nước bọt rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên chùa. Nàng Ciñcāmāṇavikā thất vọng, thất tha, thất thểu bước đi ra vừa khuất tầm mắt của mọi người, ác nghiệp nói dối của nàng quá nặng nên mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy nàng rồi hút xác nàng xuống sâu dưới lòng đất. Sau khi nàng Ciñcāmāṇavikā chết, do ác nghiệp nói dối ấy cho quả tái sinh vào đại địa ngục Avīci chịu quả khổ của ác nghiệp nói dối ấy.

Quả khổ của ác nghiệp nói dối

Trích trong Chú giải Pháp cú, khi ấy Đức Phật đang ngự tại chùa Jetavana, Ngài đề cập đến chuyện tu nữ ngoại đạo tên Sundarī, tạo ác nghiệp nói dối, được tóm lược như sau: Đức Phật Gotama thuyết pháp tế độ chúng sinh, càng ngày càng nhiều người bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài; và cũng càng ngày càng nhiều người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin thọ phép quy y Tam Bảo trở thành người cận sự nam hoặc người cận sự nữ trong giáo pháp của Ngài. Trong số Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, có số trước kia là tín đồ của các nhóm ngoại đạo, nay đã trở thành đệ tử của Đức Phật. Những người cận sự nam, cận sự nữ này có đức tin trong sạch nơi Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng, nên thường đem những lễ vật, 4 thứ vật dụng đến cúng dường Đức Phật và chư Đại đức Tỳ khưu Tăng càng ngày càng nhiều. Ngược lại nhóm tu sĩ ngoại đạo có số tín đồ càng ngày càng giảm dần, cho nên những thứ lễ vật cúng dường càng ngày càng ít lại, không sung túc như trước, thậm chí còn lâm vào cảnh thiếu thốn nữa. Nhóm tu sĩ ngoại đạo hội họp, bàn tán với nhau rằng: “Từ khi Samôn Gotama xuất hiện trên thế gian, chúng ta mất dần lợi lộc, chúng ta phải tìm cách làm mất uy tín của Samôn Gotama, để cho lợi lộc của chúng ta được phát sinh trở lại”.

Dùng nàng Sundarī làm mất uy tín của Đức Phật

Thời ấy, nữ tu sĩ ngoại đạo tên Sundarī rất xinh đẹp, đến viếng thăm các tu sĩ ngoại đạo, đảnh lễ xong rồi, thấy nhóm tu sĩ ngoại đạo ngồi im lặng không nói với cô một lời nào. Cô bèn bạch hỏi:  – Kính thưa quý Ngài, con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con lời nào? Một tu sĩ ngoại đạo than vãn rằng:

– Tất cả chúng tôi bị Samôn Gotama làm khổ, mà con không quan tâm hay biết gì, đó là lỗi cuả con đó! Con có thể vu khống Samôn Gotama được hay không?

– Kính thưa quý Ngài, con có thể làm được.

Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sāvatthi, sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức Phật trở về nhà, họ thường gặp cô tu sĩ Sundarī cầm một bó hoa trong tay đang đi trên đường hướng đến ngôi chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi:

– Chiều tối rồi, cô đi đâu vậy?

Cô tu nữ Sundarī trả lời gây ra sự nghi ngờ:

– Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

Nói xong, cô liền bước đi theo hướng đến ngôi chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó. Rồi sáng hôm sau, khi có số cận sự nam, cận sự nữ đem phẩm vật đến chùa Jetavana, để cúng dường Đức Phật và chư Tỳ khưu Tăng, họ lại thấy cô tu nữ Sundarī từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Sāvatthi. Người ta hỏi cô:

– Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu, mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Cô tu nữ Sundarī muốn gây ra sự ngờ vực bèn đáp rằng:

– Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Nếu quý vị muốn biết, thì tôi sẽ nói thật: “Đời tôi rất vinh hạnh, đêm đêm được đến phục vụ Samôn Gotama tại cốc Gandhakuṭi của Ngài”.

Nhóm tu sĩ ngoại đạo chờ tin này, nay có cơ hội, họ liền truyền tin vu khống rằng:

– Thưa quý vị, quý vị đã nghe rõ hành vi xấu xa của Samôn Gotama như vậy!

Chính cô tu nữ Sundarī cũng rêu rao vu khống hành vi xấu của Đức Phật đối với cô nữa, gieo rắc hoang mang, gây ra sự ngờ vực đến mọi người. Đối với các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật thì chắc chắn không bao giờ tin lời vu khống của các tu sĩ nhóm ngoại đạo và cô tu nữ ngoại đạo Sundarī. Còn đối với một số phàm nhân thiểu trí thì sinh tâm ngờ vực. Đó là âm mưu của các tu sĩ ngoại đạo làm giảm uy tín của Đức Phật, để mong phục hồi uy tín của mình.

Giết nàng Sundarī đổ tội cho Tỳ khưu

Dù các tu sĩ ngoại đạo và cô Sundarī vu khống Đức Phật những điều xấu không có thật, vẫn không làm giảm uy tín Đức Phật được, nên nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng đến thủ đoạn thâm độc là thuê mướn nhóm côn đồ nghiện rượu giết cô tu nữ ngoại đạo Sundarī, rồi giấu xác chết của cô trong đống rác trước cổng ra vào ngôi chùa Jetavana. Nhóm côn đồ nghiện rượu đã hành động y theo kế của họ. Sau đó, nhóm tu sĩ ngoại đạo xin vào trình Đức vua Pasenadi Kosala:

– Tâu Đức vua, cô tu nữ Sundarī, đệ tử của chúng tôi đã mất tích.

Đức vua truyền lệnh cho phép đi tìm kiếm cô tu nữ Sundarī. Nhóm tu sĩ ngoại đạo kéo nhau giả vờ đi tìm, đến gặp xác chết cô tu nữ Sundarī trong đống rác trước cổng ra vào ngôi chùa Jetavana, họ đặt xác chết cô tu nữ Sundarī trên cáng đem vào trình Đức vua, rồi khiêng đi quanh thành Sāvatthi rêu rao, vu khống rằng: “Thưa quý vị! Xin quý vị hãy nhìn thấy hành vi xấu xa của Samôn Gotama,và nhóm đệ tử của y đã giết chết cô tu nữ Sundarī, đệ tử ngoan đạo của chúng tôi, để che giấu tội lỗi của Samôn Gotama”.

Nhóm tu sĩ ngoại đạo và nhóm sát nhân chịu tội

Đức vua Pasenadi Kosala anh minh và sáng suốt, truyền lệnh quân lính đi điều tra tìm rõ kẻ đã giết cô tu nữ Sundarī. Khi ấy, nhóm côn đồ nghiện rượu đang uống rượu say sưa rồi cãi cọ với nhauđổ lỗi cho nhau rằng:

– Mày giết cô tu nữ Sundarī!

– Không phải tao, mà chính mày!...

Lính trong triều đình nghe được câu chuyện, liền bắt nhóm côn đồ nghiện rượu đem trình lên Đức vua xét hỏi. Đức vua truyền hỏi:

– Các ngươi đã giết chết cô tu nữ Sundarī có phải không?

– Muôn tâu Đức vua! Dạ phải, chính bọn con giết cô tu nữ Sundarī.

Đức vua truyền hỏi tiếp:

– Ai thuê mướn các ngươi giết chết cô tu nữ Sundarī.

Nhóm côn đồ nghiện rượu liền khai:

– Muôn tâu Đức vua! Chính nhóm tu sĩ ngoại đạo thuê mướn chúng con giết chết cô tu nữ Sundarī, rồi bảo chúng con đem giấu xác chết của cô trong đống rác trước cổng ra vào của ngôi chùa Jetavana.

Đức vua liền truyền lệnh cho bắt nhóm tu sĩ ngoại đạo, bắt chúng phải nhận tội; rồi phải đi quanh thành Sāvatthi cải chính lại lời vu khống Đức Phật Gotama và chư Tỳ khưu Tăng trước kia rằng:

– Kính thưa tất cả mọi người! Chính chúng tôi là người đã thuê mướn nhóm côn đồ nghiện rượu giết chết cô tu nữ Sundarī, để đổ tội cho Samôn Gotama và chư Tỳ khưu Tăng Thanh Văn đệ tử của Ngài. Sự thật, Đức Phật Gotama và nhóm Thanh Văn đệ tử hoàn toàn vô tội.

Khi nhóm tu sĩ ngoại đạo làm như vậy, dân chúng trong thành Sāvatthi không còn ngờ vực gì nữa. Nhóm côn đồ nghiện rượu và nhóm tu sĩ ngoại đạo chủ mưu giết hại cô tu nữ Sundarī đều bị hành hình. Tất cả bọn chúng bị chết do ác nghiệp nói lời vu khống Đức Phật cùng chư Tỳ khưu. Sau khi chết, do ác nghiệp nói lời vu khống ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục Avīci, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy.

5- Sự tích người phạm điều giới uống rượu và các chất say

Trích trong Chú giải Pháp cú, thuở ấy, Đức Thế Tôn đang ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, Ngài đã đề cập đến hai người con của hai nhà phú hộ (Mahādhanaseṭṭhiputta-vatthu)([18]), được sơ lược như sau: Một nhà phú hộ trong thành Bārānasī có của cải, tài sản nhiều đến 800 triệu, chỉ có một người con trai duy nhất. Hai ông bà phú hộ bàn với nhau rằng:

– Gia đình chúng ta có nhiều tiền, nhiều của như thế này, chúng ta chỉ có một đứa con trai, sau này chúng ta sẽ giao tất cả gia tài lại cho con mình, để nó thừa hưởng sung sướng suốt cuộc đời cũng không sao hết được. Con chúng ta không cần làm việc gì cho vất vả.

Hai ông bà phú hộ nhất trí như vậy, nên cho đứa con trai đi học đờn ca, múa hát vui chơi, không học nghề hay chuyên môn nào khác. Một nhà phú hộ khác cũng trong thành Bārānasī này, cũng có của cải, tài sản nhiều đến 800 triệu, cũng chỉ có một người con gái duy nhất. Hai ông bà phú hộ cùng bàn với nhau, như nhà phú hộ có người con trai, nên cho đứa con gái đi học đờn ca, múa hát vui chơi, như con trai nhà phú hộ kể trên. Đến khi người con trai và người con gái của hai nhà phú hộ đến tuổi trưởng thành, hai bên kết làm thông gia, cho con cái họ kết hôn với nhau. Sau khi cha mẹ hai bên lần lượt qua đời, tất cả gia tài của hai nhà phú hộ gom chung lại thành 1.600 triệu. Như vậy, họ có một tài sản của cải rất lớn, nên gọi là “Mahādhana”, và hai người con của hai nhà phú hộ gọi là “Seṭṭhiputtā”. Hai danh từ ghép lại nhau gọi là “Mahādhanaseṭṭhiputtā”, nghĩa là: “Hai đứa con của hai nhà phú hộtài sản lớn”. Hai vợ chồng trẻ, con nhà phú hộ, không biết công việc làm ăn nào khác, chỉ biết đờn ca, múa hát vui chơi mà thôi. Thường ngày, hai vợ chồng đến chầu Đức vua. Bên đường đi, có một nhóm người ăn chơi, rượu chè ca hát; chúng nhìn thấy hai vợ chồng con của phú hộ thường qua lại, nên bàn tính với nhau rằng: “Chúng ta có thể làm cách nào để cho hai vợ chồng con của phú hộ này nghiện rượu, chúng ta sẽ sống bám vào họ, và được sung sướng suốt đời”. Chúng bàn mưu tính kế vừa xong, khi thấy hai vợ chồng con của phú hộ đang đi tới, bọn chúng vừa uống rượu, vừa ca hát, nhảy múa có vẻ rất vui sướng, rồi đồng thanh nói lời chúc tụng rằng:

– Chúng tôi cầu chúc hai vợ chồng con của phú hộ được sống lâu trăm tuổi, được hạnh phúc an lạc; chúng tôi nương nhờ nơi hai người, cũng sẽ được an lạc, sung sướng.

Người con trai phú hộ nghe bọn chúng chúc tụng mình có vẻ thích thú hoan hỷ lắm, mới hỏi người đánh xe rằng:

– Này chú, chúng nó uống nước gì vậy?

– Thưa cậu chủ, chúng nó uống rượu ạ!.

– Rượu có vị ngon không?

– Thưa cậu chủ, trong các loại nước, rượu là loại nước có vị ngon, làm cho người ta ngây ngất.

Người con trai của phú hộ bèn nói với người đánh xe rằng:

– Nếu như vậy, thì ta cũng nên uống chơi cho biết vị của rượu.

Người con của phú hộ sai người đánh xe đến gặp nhóm người kia lấy một chút rượu, uống thử cho biết. Về sau không lâu, uống rượu được nhiều, người con trai phú hộ đã trở thành người nghiện rượu nặng. Nhóm người nghiện rượu kia biết người con trai của phú hộ đã nghiện rượu rồi, chúng rủ nhau đến tận nhà người con trai phú hộ để uống rượu cho có bạn. Lâu ngày, tiếng đồn càng xa, bọn chúng rủ nhau đến ngày càng đông. Người con trai của phú hộ sai gia nhân mua rượu, mỗi lần 100 kahāpana, rồi 200 kahāpana, v.v… Ngoài việc tốn tiền mua rượu, còn tốn thêm tiền mua bông hoa, nước thơm, tiền mướn đoàn vũ nữ nổi tiếng đến ca hát, nhảy múa, xong rồi còn ban thưởng, mỗi lần 1.000 kahāpana, 2.000 kahāpana, v.v… Người con trai phú hộ phung phí tiền bạc suốt ngày đêm như vậy, trải qua một thời gian lâu, của cải, tài sản 800 (tám trăm) triệu phần của mình đã hết sạch. Người quản gia đến trình cho người con trai phú hộ biết rằng:

– Thưa cậu chủ, của cải, tài sản phần của cậu đã hết sạch rồi!

Người con trai của phú hộ bèn hỏi:

– Của cải, tài sản phần của phu nhân ta không còn hay sao?

Người quản gia thưa rằng:

– Thưa cậu chủ, của cải, tài sản phần của mợ vẫn còn ạ!

Người con trai của phú hộ ra lệnh:

– Hãy lấy của cải phần của phu nhân ta ra xài.

Người con trai của phú hộ phung phí như vậy trải qua thêm một thời gian lâu nữa, tài sản phần của người vợ cũng hết sạch. Những ngày tiếp theo sau, bán dần ruộng, vườn, xe cộ, đồ đạc trong nhà, đến cuối cùng cũng bán cả căn nhà đang ở để tiêu xài. Đến lúc hai vợ chồng con của phú hộ tuổi già, không có nhà ở, phải dẫn nhau ra ở bên hiên nhà người khác. Hằng ngày, hai vợ chồng cầm mảnh bát đi xin những đồ ăn thừa của người ta, để sống qua ngày. Một hôm, ông già đứng gần cửa trai tăng đường để chờ nhận đồ ăn còn dư của chư Tỳ khưu, Sadi. Đức Thế Tôn nhìn thấy mỉm cười. Khi ấy, Đại đức Ānanda bạch hỏi Đức Thế Tôn, do nguyên nhân nào Ngài mỉm cười. Đức Thế Tôn dạy Đại đức Ānanda rằng:

– Này Ānanda, ông già kia, trước đây là con của nhà phú hộ, có một tài sản lớn lao, nhưng đã tiêu xài phung phí hết sạch; sau đó lại còn bán hết tất cả ruộng, vườn, đồ đạc, nhà cửa,…. Bây giờ, không còn gì nữa, ông ta phải dẫn vợ đi xin ăn trong thành phố này.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

– Nếu người con của phú hộ, trong tuổi thiếu niên không tiêu xài phung phí của cải, tài sản, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn, thì sẽ trở thành phú hộ thứ nhất trong thành Bārānasī này.

– Nếu cả hai vợ chồng, con của phú hộ trong tuổi thiếu niên, xuất gia trong Phật giáo, biết thực hành thiền tuệ, thì người chồng có thể sẽ chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán; còn người vợ có thể sẽ chứng đắc đến Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Bất Lai.

– Nếu người con của phú hộ, trong tuổi trung niên, với phần của cải, tài sản còn lại, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn, thì sẽ trở thành phú hộ thứ nhì trong thành Bārānasī này.

– Nếu cả hai vợ chồng, con của phú hộ, trong tuổi trung niên, xuất gia trong Phật giáo, biết thực hành thiền tuệ, thì người chồng có thể sẽ chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo, Bất Lai Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Bất Lai; còn người vợ có thể sẽ chứng đắc đến Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Nhất Lai.

– Nếu người con của phú hộ, trong tuổi lão niên, với phần của cải, tài sản còn lại, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn, thì sẽ trở thành phú hộ thứ ba trong thành Bārānasī này.

– Nếu cả hai vợ chồng, con của phú hộ, trong tuổi lão niên, xuất gia trong Phật giáo, biết thực hành thiền tuệ, thì người chồng có thể sẽ chứng đắc đến Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Nhất Lai; còn người vợ có thể sẽ chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Nhưng bây giờ, hai vợ chồng, con của phú hộ này, đã trải qua hết cả 3 thời rồi, của cải, tài sản trong thế gian của họ đã bị khánh kiệt; của báu Siêu tam giớiThánh ĐạoThánh Quả trong Phật giáo cũng bị hủy hoại luôn, như con cò già rụng hết lông cánh, nằm thoi thóp trong vũng bùn khô. Đức Phật dạy bài kệ rằng: “Acaritvā brahmacariyaṃ, Aladdhā yobbane dhanaṃ, Jiṇṇakoñcāva jhāyanti, Khīṇamaccheva pallale. Acaritvā brahmacariyaṃ, Aladdhā yobbane dhanaṃ, Senti cāpātikhīṇāva, Purāṇāni anutthunaṃ”([19]).

“Người ngu dốt không biết hành phạm hạnh.

Không được của báu lúc còn trẻ trung, Như con cò già yếu nằm than thở, Trên vũng bùn khô, không còn tôm cá.

Người ngu dốt không biết hành phạm hạnh,

Không được của báu lúc còn trẻ trung, Nằm hối tiếc của cải xưa đã hết, Như mũi tên đã rời khỏi cây cung, Rơi xuống đất làm đồ ăn cho mối”.

Nhận xét chung: Nghiệp và quả của nghiệp thật là công bằng, không bao giờ thiên vị một ai cả, dù là Đức Phật hoặc chư Thánh Arahán, nghiệp nào có cơ hội cho quả, thì nghiệp ấy vẫn cứ cho quả của nó, không một ai có quyền năng ngăn cản được.

Nghiệp và quả của nghiệp là 1 trong 4 điều “bất khả tư nghì”, người bình thường không dễ gì hiểu biết rõ, không có khả năng suy tư được. Duy chỉ có Đức Phật với trí tuệ đặc biệt gọi là Cutūpapatañāṇa: Trí tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự sinh của mỗi chúng sinh, do đã tạo nghiệp nào, hưởng quả ấy ra sao. Những người bình thườngđức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp tin rằng:

Thiện nghiệp cho quả tốt, quả an lạc; hay hưởng được quả an lạc, quả tốt là do thiện nghiệp mà mình đã tạo.

Ác nghiệp cho quả xấu, quả khổ não; hay chịu quả khổ não, quả xấu là do ác nghiệp mà mình đã tạo.

─ Quả an lạc chắc chắn phát sinh từ thiện nghiệp, và quả khổ não chắc chắn phát sinh từ ác nghiệp. Song tất cả mọi thiện nghiệp, ác nghiệp không phải lúc nào cũng có thể cho quả của chúng được.

Sự thật, thiện nghiệp hoặc ác nghiệp nào có cơ hội, hoặc hội đủ nhân duyên của nó, thì thiện nghiệp hoặc ác nghiệp ấy mới có cơ hội cho quả của nó. Nếu nghiệp nào không có cơ hội, không hội đủ nhân duyên, thì nghiệp ấy cũng phải chờ khi có đủ điều kiện mới cho quả của nó.



[1] Bộ Therāpadāna, sự tích Ngài Đại đức Pañcasīlasamādāniyatthera.

[2] Khoảng cách thời gian từ thời kỳ Đức Phật Anomadassī đến Đức Phật Gotama là 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, trải qua 18 Đức Phật Toàn Giác xuất hiện trên thế gian.

[3] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Mahākāla upāsakavatthu.

[4] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Kāḷayakkhinīvatthu.

[5] Dhammapadagāthā thứ 5 trong tích Kāḷayakkhinīvatthu.

[6] Ba giới : Gồm có 31 cõi:

Cõi dục giới có 11 cõi,

- Cõi sắc giới có 16 cõi,

- Cõi vô sắc giới có 4 cõi.

[2] Bốn loài : Loài thai sinh, loài noãn sinh, loài thấp sinh, loài hóa sinh.

[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Sāmāvativatthu.

[1] Người cha bỏ con như vậy, về sau, khi tái sinh làm người bị người ta bỏ chết 7 lần, nhưng do nhờ phước thiện hộ mệnh nên không chết.

[7] Bộ Khuddakanikāya, Khuddakapātha, kinh Tirokuññasutta.

[8] Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian vào thời đại tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm.

[9] A-tăng-kỳ năm tính theo số lượng thì bằng số 1 theo sau 140 số không (10140).

[10] Khuddakanikāya, bộ Petavatthu, trong tích Tirokuññapetavatthu.

[1] Bộ Khuddakanikāya, trong tích Therīgāthā, kệ Isidāsitherīgāthā.

[2] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, phần Bālavagga, câu chuyện Aññatarapurisavatthu.

[1] Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Aññatarapurisavatthu.

[1-2] Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Aññatarapurisavatthu.

[1] Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Aññatarapurisavatthu.

[13] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, phần Bālavagga, chuyện Uppalavaṇṇatherīvatthu.

[1] Dhammapadagāthā câu kệ thứ 69.

[14] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Kapilamacchavatthu.

[15] Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Ciñcāmāṇavikā; Bộ Chú giải Jātaka…

[16] Chuyện xảy ra vào khoảng thời gian sau hạ thứ 7, chưa đến hạ thứ 8 của Đức Phật.

[17] Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Ciñcāmāṇavikāvatthu.

[18] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, phần Jarāvagga, tích Mahādhanaseṭṭhiputtavatthu.

[19] Dhammapadagāthā thứ 155, 156.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 162)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 619)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 677)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 701)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 491)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 702)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 790)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 767)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 958)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 826)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1382)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 911)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1074)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1059)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 990)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1120)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1156)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 965)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 816)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 970)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1516)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1394)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1372)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1249)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant