NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp
Quyển III:
Hành Giới
PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA
Ngũ Giới Là Thường Giới (Pañcasīla Niccasīla)
Ngũ Giới Hành Phạm Hạnh
(Brahmacariya Pañcasīla)
Ngũ giới là thường giới (niccasīla) đối với tất cả mọi người tại gia gồm có hạng người phàm nhân và bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai tại gia có chồng hoặc có vợ. Còn đối với người tại gia là bậc Thánh Bất Lai đã diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong cõi dục giới xong rồi, không còn ham muốn trong ngũ dục, hoàn toàn tuyệt đói tránh xa sự hành dâm suốt đời trọn kiếp này và những kiếp vị lai nữa.
– Nếu bậc Thánh Bất Lai tại gia chưa có vợ hoặc chưa có chồng, thì bậc Thánh Bất Lai ấy suốt đời trọn kiếp không bao giờ có vợ hoặc có chồng.
– Nếu bậc Thánh Bất Lai tại gia, trước khi chưa chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai đã có vợ hoặc có chồng rồi, thì sau khi chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, chắc chắn tránh xa sự hành dâm suốt đời trọn kiếp. Cho nên, bậc Thánh nam Bất Lai chắc chắn vĩnh viễn tránh xa hành dâm với người vợ cũ; và bậc Thánh nữ Bất Lai cũng chắc chắn vĩnh viễn tránh xa hành dâm với người chồng cũ.
Do đó, bậc Thánh Bất Lai thọ trì ngũ giới hành phạm hạnh, tuyệt đối không còn hành dâm nữa.
Nghi thức thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh có phần giống như nghi thức thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới thường giới, chỉ có khác nhau về điều giới thứ ba.
Nghi Thức Thọ Trì Phép Quy Y Tam Bảo
Và Ngũ Giới Hành Phạm Hạnh
Người cận sự nam, cận sự nữ (hoặc hành giả) đảnh lễ Ngài Đại đức xong, tiếp theo hành nghi lễ tuần tự như sau:
Lễ bái Tam Bảo
Lễ sám hối Tam Bảo
* Lễ sám hối Đức Phật Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ
Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso,
Buddho khamatu taṃ mamaṃ.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật Bảo,
Cúi xin Phật Bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Lễ sám hối Đức Pháp Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
Dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso,
Dhammo khamatu taṃ mamaṃ.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp Bảo: Pháp học và pháp hành.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp Bảo,
Cúi xin Pháp Bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Lễ sám hối Đức Tăng Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
Saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso,
Saṃgho khamatu taṃ mamaṃ.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng Bảo: Thánh Tăng và phàm Tăng.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng Bảo,
Cúi xin Tăng Bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
Bài kệ cầu nguyện
Iminā puññakammena,
Sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,
Sabbadukkhā pamuccāmi.
Do nhờ năng lực tâm thiện sám hối này,
Cầu xin mọi tai hại hãy đều tiêu diệt.
Mong chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả Niết Bàn,
Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái sinh.
Xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh
Ahaṃ([5]) Bhante, tisaraṇena saha, pañca komārabrahmacariyasīlaṃ([6]) dhammaṃ yācāmi([7]), anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me([8]),c Bhante.
Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañca komārabrahmacariyasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañca komārabrahmacariyasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
Nghĩa:
“Kính bạch Ngài Đại đức, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh của người cận sự nam([9]).
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh của người cận sự nam cho con.
Kính bạch Ngài Đại đức, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh của người cận sự nam.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh của người cận sự nam cho con, lần thứ nhì.
Kính bạch Ngài Đại đức, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh của người cận sự nam.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh của người cận sự nam cho con, lần thứ ba”.
Phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh
Hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh như sau:
Ngài Đại đức truyền dạy rằng:
– Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi(2) (vadetha).
(Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, con hãy nên lặp lại đúng từng chữ từng câu như thế ấy).
Người cận sự nam (hoặc cận sự nữ) thưa rằng:
– Āma! Bhante.
(Dạ, xin vâng, kính bạch Ngài)
Lễ bái Đức Phật
Ngài Đại đức hướng dẫn đảnh lễ Đức Thế Tôn rằng:
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)
(Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy). (3 lần)
Người cận sự nam (hoặc cận sự nữ) lặp lại theo Ngài Đại đức:
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)
(Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy). (3 lần)
Thọ phép quy y Tam Bảo
Sau khi kính lễ Đức Phật xong, Ngài Đại đức hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảo như sau:
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.
Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.
Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.
Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.
Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.
Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.
Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng,lần thứ ba.
NĐĐ(1): Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy y Tam Bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
CSN(2): Āma! Bhante.
(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).
Thọ trì ngũ giới hành phạm hạnh
Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ giới:
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.
3- Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự hành dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.
5- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.
NĐĐ: Tisaraṇena saha pañca komārabrahmacariyaṃ(1) sādhukaṃ katvā appamādena sampādehi.
(Phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh của người cận sự nam xong rồi, con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh).
CSN: Āma! Bhante.
(Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài).
NĐĐ: Sīlena sugatiṃ yanti
Sīlena bhogasampadā
Sīlena nibbutiṃ yanti
Tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới,
Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới,
Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới,
Vậy, các con giữ giới, cho được trong sạch!.
CSN: Sādhu! Sādhu!
(Lành thay! Lành thay!).
Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh xong rồi, tiếp theo cận sự nam (hoặc cận sự nữ) nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức tin như sau:
Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ(1).
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới hành phạm hạnh của người cận sự nam (hoặc người cận sự nữ).
Ngũ giới hành phạm hạnh không những dành cho bậc Thánh Bất Lai tại gia, mà còn đối với những người cận sự nam, cận sự nữ sống độc thân, hoặc những người cận sự nam có vợ đã chết mà không tục huyền; hoặc những người cận sự nữ có chồng đã chết mà không tái giá. Tất cả những hạng người này đều có thể xin thọ trì ngũ giới hành phạm hạnh này được.
[1] Bộ Jātaka, sự tích tiền kiếp Karudhammajātaka. Karudhammo nāma pañca sīlāni: Pháp kuru là tên gọi ngũ giới.
[1] Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Abhisandasutta.
[2] Dammapadaṭṭhakathā trong sự tích Devadattavatthu.
1 Người bạn ở đây có ý nghĩa rộng gồm cả cha mẹ, thầy tổ, bạn hữu. Đức Phật cũng tự xưng là bạn lành, bạn tốt của tất cả chúng sinh.
[2] Bộ Milindapañhā.
[3] Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Uggasutta.
[1] Ngũ dục: 5 đối tượng tham muốn, đó là sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục.
[4] Orambhāgiyasamyojana: 5 pháp ràng buộc bậc thấp trong cõi dục giới đó là: Tà kiến theo ngũ uẩn, hoài nghi, chấp thủ pháp thường hành, tham ái trong cõi dục giới và thù hận. Bậc Thánh Bất Lai đã diệt đoạn tuyệt được 5 pháp ràng buộc này.
Còn lại 5 pháp ràng buộc bậc cao đó là: Tham ái trong cõi sắc giới, tham ái trong cõi vô sắc giới, ngã mạn, phóng tâm và vô minh. Bậc Thánh Arahán mới có thể diệt đoạn tuyệt được 5 pháp ràng buộc này.
[5] Nếu có nhiều người thì thay chữ “ahaṃ” bằng chữ “mayaṃ”.
[6] Nếu là người cận sự nữ thì đọc “komārībrahmacariyaṃ”.
[7] Nếu có nhiều người thì thay chữ “yācāmi” bằng chữ “yācāma”.
[8] Nếu có nhiều người thì thay chữ “me” bằng chữ “no”.
[9] Nếu là người cận sự nữ thì đọc “của người cận sự nữ”.
[2] Nếu chỉ có một người thì dùng chữ vadehi, nếu có 2 người trở lên thì dùng chữ vadetha.
[1] Ngài Đại đức.
[2] Người cận sự nam (hoặc người cận sự nữ).
[1] Nếu người cận sự nữ thì đọc: “komārībrahmacariyaṃ”.
[1] Ba bài kệ này trong quyển Nhật Hành Cư Sĩ của Sơ Tổ Hộ Tông.