Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

II. Giới Ājīvaṭṭhamakasīla

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7388)
II. Giới Ājīvaṭṭhamakasīla

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA


II. Giới Ājīvaṭṭhamakasīla 


(Bát Giới Có Giới Thứ 8 Sống Chánh Mạng)

Giới ājīvaṭṭhamakasīla: Bát giới có giới thứ 8 sống chánh mạng không những là giới chung cho tất cả người tại gia và những bậc xuất gia, mà còn là giới của các hành giả thực hành pháp hành thiền định, nhất là thực hành pháp hành thiền tuệ. Cho nên giới ājivaṭṭhamakasīla này có một tầm quan trọng trong cuộc sống của mọi người, dù có thọ trì hay không thọ trì. Nếu người nào phạm đến điều giới nào, thì người ấy đã tạo ác nghiệp.

Bởi vậy cho nên, người nào đã thọ trì giới ājīvaṭṭhamaka-sīla này xong, người ấy cố gắng giữ gìn giới cho được trong sạchtrọn vẹn, để tạo mọi thiện nghiệp. Nếu dể duôi mà phạm điều giới nào, thì cần phải biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, biết ăn năn sám hối tội lỗi, có trí nhớtrí tuệ biết mình, rồi xin thọ trì giới ấy trở lại. Như vậy gọi là người có giới.

Nghi Thức Thọ Phép Quy Y Tam Bảo

Và Giới Ājīvaṭṭhamakasīla

Người cận sự nam, cận sự nữ (hoặc hành giả) đảnh lễ Ngài Đại đức xong, tiếp theo hành nghi lễ tuần tự như sau:

Lễ bái Tam Bảo

Lễ sám hối Tam Bảo

Lễ sám hối Đức Phật Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.

Buddhe yo khalito doso,

Buddho khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức Phật.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật Bảo,

Cúi xin Phật Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Lễ sám hối Đức Pháp Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Dhammañca duvidhaṃ varaṃ.

Dhamme yo khalito doso,

Dhammo khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Pháp Bảo: Pháp học và pháp hành.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp Bảo,

Cúi xin Pháp Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Lễ sám hối Đức Tăng Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Saṃghañca duvidhuttamaṃ.

Saṃghe yo khalito doso,

Saṃgho khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Tăng Bảo: Thánh Tăngphàm Tăng.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng Bảo,

Cúi xin Tăng Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ cầu nguyện

Iminā puññakammena,

Sabbe bhayā vinassantu.

Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,

Sabbadukkhā pamuccāmi.

Do nhờ năng lực thiện tâm sám hối này,

Cầu xin mọi tai họa hãy đều tiêu diệt.

Mong chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả Niết Bàn,

Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái sinh.

Lễ xin thọ phép quy y Tam Bảo và giới Ājīvaṭṭhamakasīla

Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

Dutiyampi mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

Tatiyampi mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và giới ājīvaṭṭhamakasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và giới ājīvaṭṭhamakasīla cho chúng con.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và giới ājīvaṭṭhamakasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và giới ājīvaṭṭhamakasīla cho chúng con, lần thứ nhì.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ trì phép quy y Tam Bảo và giới ājīvaṭṭhamakasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và giới ājīvaṭṭhamakasīla cho chúng con, lần thứ ba.

Ngài Đại đức truyền dạy rằng:

NĐĐ: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha.

(Sư hướng dẫn từng chữ, từng câu như thế nào, các con hãy nên lập lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy).

Tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh thưa rằng:

CSN: Āma, Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

Kính lễ Đức Phật

Ngài Đại đức hướng dẫn đảnh lễ Đức Thế Tôn rằng:

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)

 (Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy). (3 lần) 

Thọ phép quy y Tam Bảo

Sau khi kính lễ Đức Phật xong, Ngài Đại đức hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảo như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.

Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.

Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.

Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.

Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

NĐĐ: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

(Phép quy y Tam Bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)

CSN: Āma! Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài)

Thọ Trì Giới Ājīvaṭṭhamakasīla

Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong, tiếp theo thọ trì giới ājīvaṭṭhamakasīla:

1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sinh.

2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

3- Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà dâm.

4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

5- Pisuṇavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói lời chia rẽ.

6- Pharusavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

7- Samphappalāpā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói lời vô ích.

8- Micchājīvā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa cách sống tà mạng.

NĐĐ: Tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā, appamādena sampādetha.

(Các con đã thọ trì phép quy y Tam Bảo cùng giới ājīvaṭṭhamakasīla xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn, để làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh, bằng pháp không dể duôi, thực hành Tứ niệm xứ).

CSN: Āma, Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

NĐĐ: Sīlena sugatiṃ yanti.

Sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti.

Tasmā sīlaṃ visodhaye.

Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới.

Vậy, các con giữ giới, cho được trong sạch!

CSN: Sādhu! Sādhu!

(Lành thay! Lành thay!).

Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảo và giới ājīvaṭṭha-makasīla xong, tiếp theo tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định khôngquy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức tin như sau:

Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Buddho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Phật Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Pháp Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Tăng Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảo và giới ājīvaṭṭhamakasīla .

Giải Thích Giới Ājīvaṭṭhamakasīla

Ājīvaṭṭhamakasīla = ājīva + aṭṭhamaka + sīla.

Ājīva: Mạng sống, nuôi mạng

Có 2 cách:

1- Micchājīva: Sống tà mạng, nghĩa là sống bằng cách thân hành ác, khẩu hành ác như sát sinh, trộm cắp, v.v...

2- Sammā ājīva: Sống chánh mạng, nghĩa là sống bằng cách thân hành thiện, khẩu hành thiện như tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, v.v…; không buôn bán những thứ gây tai hại đến chúng sinh.

─ Aṭṭhamaka: Thứ 8.

─ Sīla: Điều giới.

─ Ājīvaṭṭhamakasīla: Điều giới thứ 8 sống chánh mạng, nghĩa là điều giới thứ 8 tránh xa cách sống tà mạng.

Ājīvaṭṭhamakasīla có 8 điều giới, 4 điều giới đầu (điều giới thứ nhất, điều giới thứ nhì, điều giới thứ ba và điều giới thứ tư) đã được giải thích ở trong phần ngũ giới.

Điều Giới Thứ 5

Pisuṇavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Pisuṇavācā = Pisuṇa + vācā

Pisuṇa: Phá tan sự đoàn kết, làm cho chia rẽ.

Vācā: Lời nói.

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Pisuṇavācā: Lời nói làm mất tình thương yêu đoàn kết nhau, lời nói chia rẽ nhau.

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói lời chia rẽ.

Chi Pháp Phạm Điều Giới Nói Lời Chia Rẽ

Người phạm điều giới nói lời chia rẽ cần phải hợp đủ 5 chi pháp:

1- Nói lời chia rẽ giữa hai người đang thân thiết với nhau.

2- Tác ý ác nói làm cho hai người ấy chia rẽ nhau.

3- Cố gắng bằng khẩu để hai người ấy chia rẽ nhau.

4- Hai người nghe và tin lời người nói, rồi lánh xa nhau.

5- Hai người oán ghét lẫn nhau, rồi chia rẽ xa lánh nhau.

Nếu hội đủ 5 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới nói lời chia rẽ. Nếu thiếu 1 trong 5 chi pháp, thì không thể gọi là phạm điều giới nói lời chia rẽ.

Giảng Giải Về Sự Nói Lời Chia Rẽ

Sự nói lời chia rẽ như thế nào?

Cậu A và cô B là hai người bạn thân thiết với nhau, thường giúp đỡ lẫn nhau. Cô C nhìn thấy họ như vậy nên sinh tâm ganh tỵ, tìm cách làm cho cậu A và cô B nghi ngờ lẫn nhau, rồi ghét nhau dẫn đến xa lánh nhau.

Cô C lén tìm đến gặp cậu A nói rằng:

─ Này anh A, em báo cho anh biết, cô B lén lút quan hệ với người con trai khác, anh nên thận trọng là hơn!

Ban đầu cậu A không tin, nhưng do cô C nói nhiều lần khiến cho cậu A phát sinh tâm nghi ngờ cô B; từ nghi ngờ nên mỗi khi gặp cô B, cậu A thường có thái độ dè dặt.

Lúc khác cô C lén tìm đến gặp cô B khuyên rằng:

─ Này em B, chị báo cho em biết, cậu A lén lút quan hệ với người con gái khác, em hãy thận trọng trong việc quan hệ với cậu ấy, để tránh sự hối hận về sau.

Ban đầu cô B không tin, nhưng do cô C nói nhiều lần khiến cho cô B phát sinh tâm nghi ngờ cậu A; từ nghi ngờ, nên cô B có thái độ dè dặt, bắt đầu để ý, dò xét thấy gần đây cậu A có thái độ thờ ơ đối với cô. Cô B tin lời cô C nói là thật và nghĩ rằng: “Chị C thật tâm thương mình nên nhắc nhở”.

Về phía cậu A, từ khi nghe lời cô C, cậu A cũng dò xét, để ý thấy cô B gần đâythái độ đáng nghi ngờ, nên nghĩ rằng:

─ Điều cô C nói có lẽ là sự thật!

Một hôm, bất ngờ cậu A nhìn thấy cô B đang nói cười vui vẻ với một người con trai khác ở một nơi nào đó. Cậu A liền lẫn tránh không cho cô B nhìn thấy, rồi nghĩ rằng: “Cô C thật tốt với mình, cô ấy không muốn mình thất vọng”.

Chuyện gì sẽ xảy ra?

Cậu A tìm đến gặp cô B, mắng nhiếc cô B rằng:

─ Cô là con người lừa dối, không thật tâm đối với tôi!

Khi nghe vậy, cô B do bị xúc phạm quá nặng và vì quá oan ức, nên cô cũng phản ứng gay gắt rằng:

─ Anh cũng không tốt gì đâu!

Vì nghe theo lời nói chia rẽ của cô C, làm cho cậu A và cô B đã hiểu lầm nhau, ghét bỏ nhau, rồi xa lánh nhau.

Như vậy, cô C là người đã phạm điều giới nói lời chia rẽ.

Nói lời chia rẽ do khẩu là chính, nhưng cũng có trường hợp thuộc về phần thân: “Không nói mà có cử chỉ, hành động, hoặc viết thư gửi cho hai người khiến cho họ hiểu lầm nhau, rồi ghét bỏ nhau, rồi xa lánh nhau”.

Tội Nặng - Tội Nhẹ Phạm Điều Giới Nói Lời Chia Rẽ

Tội nặng hoặc tội nhẹ của sự phạm điều giới nói lời chia rẽ tùy thuộc vào đối tượng người có giới đức hoặc không có giới đức.

─ Nếu người có tác ý bất thiện nói lời chia rẽ giữa hai người có giới đức, thì có tội nặng; sau khi chết, do ác nghiệp này có thể cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

─ Nếu người có tác ý bất thiện nói lời chia rẽ giữa hai người không có giới đức, thì có tội nhẹ.

Quả xấu của ác nghiệp nói lời chia rẽ

Người phạm điều giới nói lời chia rẽ, có tội nặng; sau khi chết, nếu ác nghiệp này cho quả thì sẽ tái sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) chịu quả khổ của ác nghiệp cho đến khi mãn quả ác nghiệp. Nếu thiện nghiệp khác cho quả tái sinh làm người, thì người ấy phải chịu những quả xấu của ác nghiệp nói lời chia rẽ từ trong kiếp quá khứ như sau:

1- Tâm thường bất hòa với bạn bè, vợ chồng, anh em, bà con...

2- Thường bị người khác đánh đập, bị tàn tật.

3- Không có bạn bè thân thiết.

4- Bạn bè không bền vững, không lâu sẽ bỏ nhau.

5- Có nhiều người không ưa thích, không thân thiết.

6- Tâm thường bị ô nhiễm bởi phiền não, sống đau khổ.

Quả báu của thiện nghiệp tránh xa nói lời chia rẽ

Đối với người thọ trìgiữ gìn điều giới tránh xa sự nói lời chia rẽ; sau khi chết, nếu thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, thì người ấy được hưởng những quả báu của thiện nghiệp không nói lời chia rẽ từ trong kiếp quá khứ như sau:

1- Tâm thường hòa thuận với bạn bè, vợ chồng, anh em, bà con...

2- Không bị người khác đánh đập, không bị tàn tật.

3- Có nhiều bạn bè thân thiết.

4- Tình bạnthân thiết bền vững, không bỏ nhau.

5- Có nhiều người thương yêu, quý mến.

6- Tâm ít bị ô nhiễm, sống an lạc.

Điều Giới Thứ 6

Pharusavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Pharusavācā = Pharusa + vācā

Pharusa: Thô tục, phát sinh từ tâm sân.

Vācā: Lời nói.

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Pharusavācā: Lời nói thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc), phát sinh từ tâm sân.

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

Chi Pháp Phạm Điều Giới Nói Lời Thô Tục

Người phạm điều giới nói lời thô tục cần phải hợp đủ 3 chi pháp:

1- Tâm sân tức giận.

2- Có người bị chửi rủa, mắng nhiếc.

3- Đã nói lời chửi rủa, mắng nhiếc.

Nếu hội đủ 3 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc). Nếu thiếu 1 trong 3 chi, thì không thể gọi là phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

Giảng Giải Về Sự Nói Lời Thô Tục

Sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) này có tác ý bất thiện (tác ý ác) phát sinh từ tâm sân, do đó, lời nói thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) chua chát hoặc ngọt ngào, nghe êm tai, thì cũng gọi là pharusavācā: Lời nói thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

Người nào nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) thậm tệ với tâm sân làm khổ người khác, thì người ấy phạm điều giới pharusavācā: Nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

Trường hợp nói lời ngọt ngào nghe êm tai, với tác ý bất thiện (tác ý ác) bắt nguồn từ tâm sân muốn tiêu diệt đối tượng.

Ví dụ: Một người có tâm sân muốn giết người khác, nhưng nói bằng lời lẽ ngọt ngào rằng:

Tôi sẽ giúp anh được yên giấc nghìn thu; hoặc tôi sẽ đưa anh về nơi chín suối; hoặc tôi sẽ gửi anh đi chầu trời, v.v...”.

Như vậy, người ấy vẫn phạm điều giới pharusavācā: Lời nói thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

Trong Chú giải Aṭṭhasālini, giảng giải về sự nói lời thô tục rằng:

Cha mẹ rầy la, chửi mắng con; hoặc thầy rầy la, chửi mắng học trò,... là cốt để dạy dỗ, khuyên răn, hăm dọa muốn cho con cái, học trò trở nên người tốt, người thiện. Những lời rầy la, chửi mắng ấy hoàn toàn không có tác ý bất thiện làm hại con cái, làm hại học trò...”.

Như vậy khi cha mẹ, thầy rầy la, chửi mắng không hợp đủ chi phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc). Cho nên cha mẹ, thầy không gọi là phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

Trong Phụ chú giải Ṭikā của Trường Bộ KinhTrung Bộ Kinh, giảng giải về nói lời thô tục rằng:

Người nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) với tâm sân, dù không có người thù mình, ghét mình, hoặc người thù ghét đã chết, người ấy vẫn hợp đủ 3 chi pháp phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc), cho nên, người ấy đã phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc)”.

Lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc)

Lời chửi rủa, mắng nhiếc là 1 trong 3 chi pháp phạm điều giới này. Lời chửi rủa, mắng nhiếc như thế nào?

Lời chửi rủa, mắng nhiếc có 10 cách:

1- Hạng người (jāti): Lời mắng nhiếc gọi người thấp hèn hay người cao quý.

* Hạng người thấp hèn như: Đồ tôi tớ!, đồ kẻ ăn mày!,...

* Hạng người cao quý như: Thôi, ông chủ!, thôi, ông tướng!,...

2- Tên người (nāma): Lời mắng nhiếc gọi tên xấu hay tên đẹp.

* Tên xấu như: Đồ thằng quỷ!, đồ con ma!,...

* Tên đẹp như: Ông hoàng!, bà chúa!,...

3- Dòng dõi (gotta): Lời mắng nhiếc gọi dòng dõi thấp hèn hay cao quý.

Dòng dõi thấp hèn như: Con nhà ăn trộm!, con nhà lừa đảo!,...

Dòng dõi cao quý như: Con ông hoàng!, công nương!, tiểu thư!,...

4- Nghề nghiệp (kamma): Lời mắng nhiếc gọi nghề nghiệp thấp hèn hay cao quý.

* Nghề nghiệp thấp hèn như: Đồ sát sinh!, đồ trộm cắp!, đồ tà dâm,...

* Nghề nghiệp cao quý như: Thầy dạy học!, ông làm quan!,...

5- Chuyên môn (sippa): Lời mắng nhiếc gọi chuyên môn thấp hay cao.

* Chuyên môn thấp như: Đồ chuyên môn lừa đảo!,...

* Chuyên môn cao như: Thôi, anh làm thơ hay rồi!, anh giỏi nói chữ!,...

6- Bệnh (ābādha): Lời mắng nhiếc gọi bệnh người hèn, bệnh người sang.

* Bệnh người hèn như: Thằng bệnh lậu!, thằng bệnh nghiện ma túy,...

* Bệnh người sang như: Ông bệnh đau đầu!, bà bệnh đau tim!,...

7- Hình dáng (liṅgika): Lời mắng nhiếc gọi hình dáng xấu hay hình dáng đẹp.

Hình dáng xấu như: Thằng lùn!, con mụ mập!,...

Hình dáng đẹp như: Thôi, cậu công tử!; thôi, cô tiên nữ!,...

8- Phiền não (kilesa): Lời mắng nhiếc gọi phiền não...

Đồ tham lam!, đồ ngu ngốc!,...

9- Tội lỗi (āpatti): Lời mắng nhiếc gọi tội...

Ông đã phạm tội bất công trụ!,...

10- Lời thô tục (akkosa): Lời mắng nhiếc nói lời thô tục...

Mẹ mày!, cha mày!, đồ loài súc sinh!,...

Đó là 10 cách chửi rủa, mắng nhiếc thô tục.

Chửi rủa, mắng nhiếc bằng 2 môn

─ Chửi rủa mắng nhiếc bằng khẩu.

─ Chửi rủa mắng nhiếc bằng thân.

Lời chửi rủa, mắng nhiếc phần nhiều bằng khẩu, nhưng cũng có trường hợp bằng thân như hành vi cử chỉ thô tục hoặc viết thư, viết báo, viết sách,... bằng những lời lẽ thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

Tội Nặng - Tội Nhẹ Phạm Điều Giới Nói Lời Thô Tục

Người nào phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đến cha mẹ, thầy tổ, những bậc Trưởng Lão, chư Tỳ khưu, Sadi có giới hạnh trong sạch, đến Đức Phật Độc Giác, Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì người ấy phạm tội nặng; sau khi chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục.

Người nào phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đến người không có giới đức trong sạch, thì người ấy phạm tội nhẹ.

Quả xấu của ác nghiệp nói lời thô tục

Người phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) phạm tội nặng; sau khi chết, ác nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) cho quả tái sinh trong cõi địa ngục chịu khổ, cho đến khi mãn quả ác nghiệp ấy. Nếu có thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, thì người ấy còn phải chịu những quả xấu của ác nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) từ trong kiếp quá khứ như sau:

1- Thường nghe những lời không hài lòng như lời chửi rủa, mắng nhiếc, v.v...

2- Có nhiều người ghét.

3- Thường bị chê trách, bị vu oan giá họa.

4- Ít được nghe những lời ngon ngọt mật thiết.

5- Đời sống nghèo nàn khổ cực.

6- Bị tàn tật câm điếc, đui mù.

Quả báu của thiện nghiệp tránh xa nói lời thô tục

Đối với người thọ trì điều giới, tránh xa sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc); sau khi chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, người ấy còn hưởng được những quả báu tốt của thiện nghiệp tránh xa sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) như sau:

1- Thường được nghe những lời ngọt ngào đáng hài lòng.

2- Được nhiều người thương yêu quý mến.

3- Thường được nghe những lời tán dương ca tụng, không bị vu oan giá họa.

4- Thường được nghe những lời ngọt ngào thân thiết.

5- Đời sống an lạc hạnh phúc.

6- Có giọng nói thanh tao rất hay.

Điều Giới Thứ 7

Samphappalāpā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Samphappalāpā = Sampha+ palāpā

Sampha: Làm mất sự lợi ích và sự an lạc.

Palāpā: Lời nói.

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Samphappalāpā: Lời nói làm mất sự lợi ích và sự an lạc.

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói lời vô ích.

Chi Pháp Phạm Điều Giới Nói Lời Vô Ích

Người phạm điều giới nói lời vô ích cần phải hợp đủ 2 chi pháp:

1- Tác ý bất thiện nói lời vô ích.

2- Nói lời vô ích.

Nếu hội đủ 2 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới nói lời vô ích, nếu thiếu 1 trong 2 chi, thì không thể gọi là phạm điều giới nói lời vô ích.

Giảng Giải Về Sự Nói Lời Vô Ích

Trường hợp người nói hoặc người viết sáng tác những chuyện không có thật thành câu chuyện để cho người nghe hoặc người đọc tin theo, say mê theo lời nói của mình, rồi họ phát sinh tâm tà kiến thấy sai chấp lầm làm mất sự lợi ích, sự an lạc. Như vậy, lời nói của người ấy gọi là lời nói vô ích (samphappalāpa).

Trường hợp người nói hoặc người viết những chuyện không có thật để làm ví dụ trong việc giảng dạy, để giúp cho người nghe, người đọc dễ hiểu theo lời dạy ấy, thì lời nói của người ấy không gọi là lời nói vô ích.

Trường hợp người nói hoặc người viết trình bày những câu chuyện có thật, đúng theo sự thật, nhưng không đem lại lợi ích gì cho người nghe hoặc người đọc. Như vậy, lời nói của người ấy không gọi là lời nói vô ích.

Trường hợp người nói hoặc người viết những câu chuyện nhảm nhí, hoang đường, không có thật, để làm cho người nghe, người đọc say mê tiêu khiển trong chốc lát, làm mất thì giờ mà không đem lại lợi ích, gọi là lời nói vô ích (samphappalāpa); nhưng không gọi là lời nói dối (musāvāda), bởi vì người nói hay người viết không có tác ý bất thiện nói dối làm cho người nghe, người đọc tin theo rồi gây ra sự tai hại.

Nếu người nói hoặc người viết những chuyện nhảm nhí, hoang đường, không có thật, để người nghe hoặc người đọc say mê, tin theo rồi làm mất lợi ích, gây ra sự tai hại đến với họ, thì người nói hoặc người viết phạm điều giới nói lời vô ích phạm điều giới nói dối nữa.

Tội Nặng - Tội Nhẹ Phạm Điều Giới Nói Lời Vô Ích

Nếu người phạm điều giới nói lời vô ích trở thành thói quen hằng ngày như các diễn viên hài, viết chuyện vui cười, chuyện nhảm nhí,... thì người ấy có tội nặng.

Nếu thỉnh thoảng hoặc đôi khi nói lời vô ích, thì người ấy có tội nhẹ.

Quả xấu của ác nghiệp nói lời vô ích

Đối với người phạm điều giới nói lời vô ích, có tội nặng, sau khi chết, do ác nghiệp nói lời vô ích cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) chịu quả khổ của ác nghiệp ấy, cho đến khi mãn quả ác nghiệp ấy. Do nhờ thiện nghiệp khác cho quả, nếu tái sinh làm người, thì người ấy còn phải chịu những quả xấu của ác nghiệp nói lời vô ích từ trong kiếp quá khứ như sau:

1- Có nhiều người không tin theo lời nói của mình.

2- Có nhiều người không ưa thích.

3- Không được nhiều người kính trọng.

4- Không thể nói cho người khác tin theo.

5- Là người nghèo khổ.

6- Là người không có quyền lực.

7- Là người thiểu trí (ngu dốt).

Quả báu của thiện nghiệp tránh xa nói lời vô ích

Đối với người thọ trì điều giới tránh xa sự nói lời vô ích, sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, thì người ấy được hưởng những quả báu của giới tránh xa sự lời nói vô ích như sau:

1- Có nhiều người tin theo lời nói của mình.

2- Có nhiều người thương yêu, quý mến.

3- Có nhiều người kính trọng.

4- Có thể nói cho người khác tin theo.

5- Là người sống hạnh phúc an lạc.

6- Là người có nhiều quyền lực.

7- Là người có nhiều trí tuệ, có khả năng đối đáp nhanh nhẹn.

Nói Lời Vô Ích

Nói lời vô ích (niratthakathā) là nói những lời không đem lại sự lợi ích. Trong kinh Sāmaññaphalasutta([1]) Đức Phật thuyết giảng có 32 chuyện không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ gọi là Tiracchānakathā, đó là:

1- Rājakathā: Nói chuyện về Đức vua, Hoàng tộc,...

2- Mahāmattakathā: Nói chuyện về các quan trong triều đình, trong Chính phủ.

3- Corakathā: Nói chuyện về bọn trộm cướp.

4- Senākathā: Nói chuyện về quân đội.

5- Bhayakathā: Nói chuyện về tai họa.

6- Yuddhakathā: Nói chuyện về chiến tranh.

7- Annakathā: Nói chuyện về vật thực: Cơm, gạo,...

8- Pānakathā: Nói chuyện về đồ uống.

9- Vatthakathā: Nói chuyện về vải, quần áo.

10- Mālākathā: Nói chuyện về các loại hoa, vòng hoa.

11- Sayanakathā: Nói chuyện về chỗ nằm, chỗ ở.

12- Ghandhakathā: Nói chuyện về mùi thơm, dầu thơm.

13- Ñātikathā: Nói chuyện về bà con, dòng họ.

14- Yānakathā: Nói chuyện về xe cộ.

15- Gāmakathā: Nói chuyện về xóm làng.

16- Nigamakathā: Nói chuyện về quận, huyện.

17- Nagarakathā: Nói chuyện về thành phố.

18- Janapadakathā: Nói chuyện về vùng quê, ngoại thành.

19- Itthikathā: Nói chuyện về đàn bà.

20- Purisakathā: Nói chuyện về đàn ông.

21- Kumārakathā: Nói chuyện về những chàng trai.

22- Kumārīkathā: Nói chuyện về những cô gái.

23- Surakathā: Nói chuyện về sự can đảm.

24- Visikhākathā: Nói chuyện về đường xá.

25- Kumbaṭṭhānakathā: Nói chuyện về bến nước.

26- Pubbapetakathā: Nói chuyện về bà con đã qua đời.

27- Nānattakathā: Nói những chuyện nhảm nhí.

28- Lokakkhāyika: Nói chuyện về thế giới tạo thiên lập địa.

29- Samuddakkhāyika: Nói chuyện về đại dương.

30- Itibhavābhavakathā: Nói chuyện về kiếp nhỏ, kiếp lớn luân hồi.

31- Araññakathā: Nói chuyện về rừng.

32- Pabbatakathā: Nói chuyện về núi,...

10 Chuyện Có Ích (Kathāvatthu)(1)

Đức Phật dạy có 10 chuyện nên nói đem lại lợi ích, đó là:

1- Appicchakathā: Nói chuyện về ít tham muốn.

2- Santutthikathā: Nói chuyện về biết tri túc.

3- Parivekakathā: Nói chuyện về hoan hỷ ở nơi thanh vắng.

4- Asaṃsaggakathā: Nói chuyện về sự sống không chung đụng nhiều người, nên sống riêng rẽ một mình.

5- Vīriyārambhakathā: Nói chuyện về sự cố gắng tinh tấn giải thoát khổ.

6- Sīlakathā: Nói chuyện về giới trong sạchtrọn vẹn.

7- Samādhikathā: Nói chuyện về định vững chắc.

8- Paññākathā: Nói chuyện về tuệ thấy rõ chân lý Tứ Thánh Đế.

9- Vimuttikathā: Nói chuyện về giải thoát khỏi phiền não.

10- Vimuttiñāṇadassanakathā: Nói chuyện về tri kiến giải thoát phiền não.

Đó là 10 chuyện nên nói, nên đàm đạo.

Hai phận sự nên hành

Đức Phật khuyên dạy chư Tỳ khưu rằng:

─ “Sannipatitānaṃ vo bhikkhave dvayaṃ karaṇīyaṃ dhammī vā kathā ariyo vā tuṇhibhāvo(2).

Này chư Tỳ khưu, đối với các con khi gặp mặt nhau có 2 việc nên làm là: Nói đúng pháp, hoặc nên im lặng như bậc Thánh.

Trường hợp Đức Phật thuyết pháp

Đức Thế Tôn tùy thời thuyết pháp chân lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho chúng sinh, nếu không đem lại sự lợi ích, thì Đức Thế Tôn không thuyết pháp.

Đức Thế Tôn biết rõ 6 trường hợp, trường hợp nào nên thuyết giảngtrường hợp nào không nên thuyết giảng như sau:

─ Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

─ Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

─ Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

─ Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, người nghe cũng không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

─ Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thậtđem lại sự lợi ích, nhưng người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

─ Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thậtđem lại sự lợi ích, người nghe cũng hài lòng, hoan hỷ. Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

Nhận Xét Về 7 Giới

3 điều giới đầu liên quan đến sự sát sinh, sự trộm cắpsự tà dâm có thể bị phạm do thânkhẩu; nhưng phần nhiều bị phạm do thân, cho nên phạm 3 điều giới này thuộc về thân ác nghiệp hoặc thân hành ác cũng gọi là tà nghiệp.

4 điều giới tiếp theo liên quan đến sự nói dối, sự nói lời chia rẽ, sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) và sự nói lời vô ích; có thể bị phạm do khẩuthân, nhưng phần nhiều bị phạm do khẩu, cho nên phạm 4 điều giới này thuộc về khẩu ác nghiệp hoặc khẩu hành ác cũng gọi là tà ngữ.

Điều Giới Thứ 8

Micchājīvā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Micchājīvā = Micchā + ājīvā

Micchā: Sai lầm, tà.

Ājīvā: Sinh mạng.

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Micchājīvā: Sống bằng tà mạng.

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa cách sống tà mạng.

Giảng Giải Về Sự Tránh Xa Cách Sống Tà Mạng

Micchājīvā: Sống tà mạng, nghĩa là nuôi mạng bằng thân hành ác, khẩu nói ác.

─ Thân hành ác sát sinh, trộm cắp, tà dâm gọi là tà nghiệp.

─ Khẩu nói ácnói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc), nói lời vô ích gọi là tà ngữ.

Người nào sống bằng những thứ vật dụng như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh... là những thứ nhu cầu cần thiết cho cuộc sống được tạo ra bằng tà nghiệp (thân hành ác), tà ngữ (khẩu nói ác), thì người ấy được gọi là sống tà mạng (micchājīvā).

Và người sống bằng tà mạng do làm 5 nghề buôn bán như:

1- Satthavāṇijjā: Làm nghề buôn bán vũ khí giết hại chúng sinh.

2- Sattavāṇijjā: Làm nghề buôn bán người để làm nô lệ, làm tôi tớ.

3- Maṃsavāṇijjā: Làm nghề giết gia cầm, gia súc để bán thịt.

4- Majjavāṇijjā: Làm nghề buôn bán các chất say như rượu, thuốc phiện, ma túy, thuốc lá,...

5- Visavāṇijjā: Làm nghề buôn bán các loại thuốc độc giết hại chúng sinh (người, các loài vật,...).

Và các nghề cờ bạc, nghề cá độ ăn thua,... người nào sống bằng những thứ của cải được tạo ra do những nghề bất lương như vậy, thì người ấy được gọi là sống bằng tà mạng.

Vấn: Điều giới tránh xa cách sống tà mạng, sống bằng chánh mạng như thế nào?

Đáp: Người nào sống bằng chánh mạng là sống bằng những thứ của cải được tạo ra một cách hợp pháp, là tránh xa tà nghiệp (thân hành ác); tránh xa tà ngữ (khẩu nói ác); tránh xa 5 nghề buôn bán làm khổ chúng sinh; tránh xa nghề cờ bạc, nghề cá độ ăn thua,... Sống bằng chánh nghiệp, chánh ngữ, thì người ấy được gọi là sống bằng chánh mạng.

Vấn: Trước kia, một người chưa hiểu biết cách sống bằng chánh mạng, mà sống bằng tà mạng. Người ấy đã tạo ra những của cải bằng tà nghiệp do thân hành ác; bằng tà ngữ do khẩu nói ác; bằng nghề buôn bán bất lương làm khổ chúng sinh, v.v... Về sau, được nghe chánh pháp, hiểu biết chánh pháp, người ấy đã tránh xa cách sống tà mạng, đã từ bỏ cách sống tà mạng, sống bằng chánh mạng. Nhưng những của cải sự nghiệp như nhà cửa ruộng đất, những thứ vật dụng, đồ dùng, v.v... đã có trước kia được tạo ra bằng tà nghiệp do thân hành ác; bằng tà ngữ do khẩu nói ác; hoặc bằng nghề buôn bán bất lương làm khổ chúng sinh.

Như vậy, người ấy có thể tiếp tục sử dụng những thứ của cải bất hợp pháp ấy được không? Nếu người ấy sử dụng những thứ của cải bất hợp pháp ấy, thì có gọi người ấy sống bằng tà mạng hay không?

Đáp: Sau khi hiểu biết chánh pháp, tránh xa cách sống tà mạng, từ bỏ cách sống tà mạng, người tại gia ấy có thể tiếp tục sử dụng những thứ của cải bất hợp pháp cũ đã có từ trước kia cho đến hết (mà không tạo ra thêm những thứ của cải bất hợp pháp mới). Người ấy chỉ làm những nghề lương thiện mà thôi. Như vậy, tuy thân vẫn còn sử dụng những thứ của cải bất hợp pháp cũ còn lại, nhưng tâm người ấy đã tránh xa tà nghiệp (thân hành ác); đã tránh xa tà ngữ (khẩu nói ác); đã tránh xa các nghề buôn bán bất lương… thì không thể gọi người ấy sống bằng tà mạng, mà nên gọi người ấy sống bằng chánh mạng.

Ví dụ: Trong bộ chú giải Pháp Cú, tích ông đao phủ tên Tambadāṭhikacoraghātaka([2]) ông hành nghề giết tội nhân trộm cướp theo lệnh của Đức vua suốt 55 năm để nuôi mạng. Đến khi tuổi già sức yếu, ông xin nghỉ việc về hưu.

Một hôm Ngài Đại đức Sāriputta đi khất thực, ông thỉnh Ngài vào trong nhà để làm phước bố thí vật thực. Ngài Đại đức Sāriputta thuyết pháp tế độ ông. Sau khi nghe pháp xong, ông đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu. Sau khi chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh lên cõi trời Tusita (Đấu Xuất Đà Thiên) hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Cùng trong chú giải Pháp Cú, tích người thợ săn tên Kukkuṭamitta(1) làm nghề săn bắn thú rừng nuôi sống cả gia đình gồm người vợ, 7 đứa con trai và 7 đứa con dâu (bà vợ của người thợ săn là bậc Thánh Nhập Lưu từ khi còn con gái. Khi kết hôn với người thợ săn, bà sinh được 7 đứa con trai).

Một hôm Đức Phật ngự đến thuyết pháp tế độ họ, người thợ săn cùng với 7 người con trai và 7 người con dâu, đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu. Từ đó về sau, tất cả gia đình đều tuyệt đối tránh xa sự sát sinh săn thú rừng; vĩnh viễn từ bỏ sự sát sinh săn thú rừng để nuôi mạng, trở lại hành nghề lương thiện nuôi mạng chân chính, gọi là họ sống bằng chánh mạng.

Vấn: Một người thích săn bắn thú rừng hoặc thích câu cá,… xem như thú vui tiêu khiển. Vậy, người ấy có phải sống bằng tà mạng hay không?

Đáp: Người ấy thích săn bắn thú rừng hoặc thích câu cá,… xem như thú vui tiêu khiển, không liên quan đến vấn đề nuôi mạng. Cho nên người ấy không phạm điều giới sống bằng tà mạng, mà chỉ phạm điều giới sát sinh (tà nghiệp) mà thôi.

Tương tự, một người nói dối lừa gạt người khác cho vui, không liên quan đến vấn đề nuôi mạng, thì người ấy không phải sống bằng tà mạng, mà chỉ phạm điều giới nói dối (tà ngữ) mà thôi.

─ Nếu người nào làm nghề sát sinh để nuôi mạng, thì người ấy phạm điều giới sát sinh (tà nghiệp) và phạm điều giới sống bằng tà mạng sát sinh.

─ Nếu người nào nói dối lường gạt người khác để lấy của cải về nuôi mạng, thì người ấy phạm điều giới nói dối (tà ngữ) và phạm điều giới sống bằng tà mạng nói dối.

Bậc xuất gia sống bằng chánh mạng

─ Bậc xuất gia là Tỳ khưu, Sadi sống bằng chánh mạng và người tại giacận sự nam, cận sự nữ sống bằng chánh mạng có những điểm khác biệt nhau như thế nào?

Bậc xuất gia là Tỳ khưu, Sadi tránh xa cách sống tà mạng, sống bằng chánh mạng cần phải thực hành theo đúng giới luậtĐức Phật đã chế định và ban hành.

Đức Phật không cho phép vị Tỳ khưu hành nghề thầy thuốc, thầy bói, thầy xem tướng số,… và các ngành nghề khác. Nếu Tỳ khưu nào làm nghề như vậy, Tỳ khưu ấy bị phạm điều giới (āpatti). Và những thứ vật dụng được phát sinh do hành nghề ấy gọi là những thứ vật dụng không hợp pháp. Do đó, vị Tỳ khưu phạm điều giới ấy không thể sử dụng được những thứ vật dụng không hợp pháp ấy, và tất cả chư Tỳ khưu khác, dù biết hay không biết, cũng không thể sử dụng được. Cho nên, vị Tỳ khưu ấy chỉ phải xả bỏ mà thôi.

Đức Phật chế định những điều giới đối với vị Tỳ khưu sống bằng tà mạng:

Bởi vì sống bằng tà mạng thấp hèn, Tỳ khưu tự khoe khoang pháp của bậc Thánh mà chính mình không có, Tỳ khưu ấy phạm điều giới Bất cộng trụ (Pārājika) (không còn phẩm hạnh Tỳ khưu nữa).

Bởi vì sống bằng tà mạng, Tỳ khưu làm mai mối cho người nam và người nữ kết hôn thành vợ chồng, Tỳ khưu ấy phạm điều giới Tăng tàn (Saṃghādisesa).

Bởi vì sống bằng tà mạng, Tỳ khưu nói gián tiếp trong chùa có vị Thánh Nhân, Tỳ khưu ấy phạm điều giới Trọng (Thullaccaya).

Bởi vì sống bằng tà mạng, Tỳ khưu không có bệnh xin vật thực ngon để dùng, Tỳ khưu ấy phạm điều giới Ưng đối trị (Pācittiya).

Bởi vì sống bằng tà mạng, Tỳ khưu độ vật thực như cơm, canh,… không đàng hoàng, Tỳ khưu ấy phạm điều giới Tác ác (Dukkaṭa).

Để nâng cao đời sống trở nên cao thượng, tất cả những bậc xuất giamọi người tại gia phải nên giữ gìn giới tránh xa cách sống tà mạng, chỉ sống bằng chánh mạng mà thôi.

Nhận Xét Về Ngũ Giới và Bát Giới Ājīvaṭṭhamakasīla

Ngũ giớibát giới ājīvaṭṭhamakasīla có điểm giống nhau và khác nhau:

Ngũ giớibát giới ājīvaṭṭhamakasīla (giới thứ 8 sống bằng chánh mạng) là 2 loại giới chung cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo nào, dân tộc nào. Dù thọ trì hay không thọ trì 2 loại giới này, hễ người nào phạm đến giới nào, thì người ấy vẫn bị phạm tội của giới ấy. Tội nặng hoặc tội nhẹ tùy theo tác ý bất thiện và đối tượng làm cho phạm giới.

Bát giới ājīvaṭṭhamakasīla có nhiều điểm đặc biệt hơn ngũ giới. 4 điều giới đầu của bát giới ājīvaṭṭhamakasīla là: Giới tránh xa sự sát sinh, giới tránh xa sự trộm cắp, giới tránh xa sự tà dâm và giới tránh xa sự nói dối có trong ngũ giới. Còn lại 4 điều giới sau không có trong ngũ giới.

Trong giới ājīvaṭṭhamakasīla, gồm có đủ 3 chánh: Chánh nghiệp, chánh ngữ chánh mạng.

Chánh nghiệp có 3 thân thiện nghiệp là:

- Tránh xa sự sát sinh.

- Tránh xa sự trộm cắp.

- Tránh xa sự tà dâm.

Chánh ngữ có 4 khẩu thiện nghiệp là:

- Tránh xa sự nói dối.

- Tránh xa sự nói lời chia rẽ.

- Tránh xa sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

- Tránh xa sự nói lời vô ích.

Chánh mạng là tránh xa cách sống tà mạng do thân ác nghiệp, khẩu ác nghiệp; chỉ sống bằng chánh mạng mà thôi.

Ngũ giới là giới cơ bản của con người, làm nền tảng để cho dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp phát sinh và phát triển.

Bát giới ājīvaṭṭhamakasīla (giới thứ 8 sống bằng chánh mạng) cũng là giới cơ bản của con người, không những làm nền tảng cho dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp phát sinh và phát triển, mà còn đặc biệt để cho thiện pháp Siêu tam giới phát sinh và phát triển. Bởi vì bát giới ājīvaṭṭhamakasīla gồm có đủ 3 chánh: Chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới trong Bát Chánh Đạo.

Mỗi khi Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định đồng sinh trong Thánh Đạo Tâm và Thánh Quả Tâm đặc biệt chỉ có đối tượng Niết Bàn mà thôi.

Như vậy, ngũ giới không những có một tầm quan trọng giữ gìn duy trì địa vị con người được vững chắc mà còn nhờ thiện nghiệp này làm nền tảng nâng cao kiếp sau có thể trở thành chư thiên hoặc phạm thiên.

Bát giới ājīvaṭṭhamakasīla có một tầm quan trọng hơn ngũ giới. Bát giới này là thiện nghiệp làm nền tảng không những nâng cao kiếp sau trở thành chư thiên hoặc phạm thiên, mà còn có thể nâng cao con người trở thành bậc Thánh Nhân ngay trong kiếp hiện tại này.

Bởi vậy cho nên, bát giới ājīvaṭṭhamakasīla có một tầm quan trọng cho cuộc sống hằng ngày của mỗi người. Người nào thọ trì, giữ gìn bát giới ājīvaṭṭhamakasīla (giới thứ 8 sống bằng chánh mạng) trong sạchtrọn vẹn, thì ngay trong kiếp hiện tại được an lạc, và quả báu của bát giới này rất lớn, được thành tựu quả báu trong cõi người (manussasampatti), thành tựu quả báu trong cõi trời (devasampatti) và thành tựu chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti).

Giới Ādibrahmacariyakasīla Là Giới Ājīvaṭṭhamakasīla

Trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) gọi giới ādibrahmacariyakasīla: Giới ban đầu thực hành phạm hạnh cao thượng (thực hành Tứ niệm xứ), giới ấy chính là giới ājīvaṭṭhamakasīla gồm có 8 giới mà giới thứ 8 là tránh xa cách sống tà mạng. Trong 8 giới này có đầy đủ 3 chánh: Chánh ngữ, chánh nghiệp chánh mạng. 3 chánh này thuộc về phần giới trong Bát chánh đạo. Cho nên, hành giả thực hành pháp hành Tứ niệm xứ hoặc thực hành pháp hành thiền tuệ, cần phải thọ trì giới ājīvaṭṭhamakasīla, rồi giữ gìn giới này cho được trong sạch và đầy đủ trọn vẹn, để làm nền tảng thực hành pháp hành Tứ niệm xứ hay thực hành pháp hành thiền tuệ cho được phát triển.

Cho nên, giới ājīvaṭṭhamakasīla không những đóng vai trò quan trọng trong tam giới mà còn có tầm quan trọng trong pháp Siêu tam giới nữa.

 

Những Tích Chuyện Liên Quan Đến Phạm Điều Giới Ājīvaṭṭhamakasīla

Quả xấu của sự phạm điều giới nói lời chia rẽ

Tích Ngạ Quỷ Sūciloma

Trong kinh Sūcilomasutta([3]), được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh thành Rājagaha. Khi ấy, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna và Ngài Đại đức Lakkhaṇa ở tại núi Gijjhakūṭa.

Một buổi sáng, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna và Ngài Đại đức Lakkhaṇa đi vào kinh thành Rājagaha để khất thực. Từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna nhìn thấy ngạ quỷ có lông kim đâm thật kỳ quái, Ngài mỉm cười([4]). Khi ấy, Ngài Đại đức Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại đức Mahāmoggallāna rằng:

─ Kính thưa pháp huynh Mahāmoggallāna, do nhân duyên nào mà pháp huynh mỉm cười.

Ngài Đại đức Mahāmoggallāna trả lời rằng:

─ Này pháp hữu Lakkhaṇa, bây giờ không phải lúc trả lời. Pháp hữu hãy hỏi, khi có Đức Thế Tôn hiện diện.

Hai vị Đại đức đi vào kinh thành Rājagaha khất thực. Sau khi độ vật thực xong, hai vị Đại đức cùng nhau đến ngôi chùa Veḷuvana đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.

Khi ấy, Ngài Đại đức Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại đức Mahāmoggallāna rằng:

─ Kính thưa pháp huynh Mahāmoggallāna, khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, do nhân duyên nào mà pháp huynh mỉm cười?

Ngài Đại đức Mahāmoggallāna trả lời rằng:

─ Khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, tôi nhìn thấy ngạ quỷ có lông kim đâm lơ lửng trên hư không; những lông kim ấy đâm từ đầu ra miệng, đâm từ miệng ra ngực, đâm từ ngực ra bụng, đâm từ bụng ra 2 vế non, đâm từ 2 vế non ra 2 bắp chân, đâm từ 2 bắp chân ra 2 bàn chân. Ngạ quỷ ấy đau đớn khóc than thảm thiết.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy chư Tỳ khưu rằng:

─ Này chư Tỳ khưu, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử là người có nhãn thông, có trí tuệ, có khả năng nhìn thấy, biết rõ ngạ quỷ ấy đúng như vậy, có thể làm chứng được. Thật ra, trước đây, Như Lai đã từng gặp ngạ quỷ có lông kim đâm ấy, nhưng chưa cho các con biết có loài ngạ quỷ như vậy. Khi ấy Như Lai nói ra, nếu người nào không tin Như Lai, thì điều ấy sẽ đem lại sự bất lợi, làm họ khổ lâu dài.

Này chư Tỳ khưu, tiền kiếp của ngạ quỷ có lông kim đâm này là người phạm điều giới nói lời chia rẽ, làm cho mọi người trong kinh thành Rājagaha mất đoàn kết.

Tích Ngạ Quỷ Đầu Heo

Trong Chú giải Pháp Cú (Dhammapadaṭṭhakathā). Khi Đức Phật ngự ở tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh thành Rājagaha, Ngài đề cập đến ngạ quỷ đầu heo (sūkarapetavatthu(1)), được tóm lược như sau:

Một hôm, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna và Ngài Đại đức Lakkhaṇa cùng nhau đi khất thực, từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, đến một nơi Ngài Đại đức Mahāmoggallāna nhìn thấy ngạ quỷ thật kỳ quái, rồi Ngài mỉm cười. Ngài Đại đức Lakkhaṇa hỏi rằng:

─ Kính thưa pháp huynh Mahāmoggallāna, do nhân duyên nào mà pháp huynh mỉm cười.

Ngài Đại đức Mahāmoggallāna bảo rằng:

─ Này pháp hữu Lakkhaṇa, bây giờ tôi chưa có thể trả lời được. Pháp hữu chờ khi trở về, chúng ta cùng đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, khi ấy, tôi sẽ trả lời cho pháp hữu rõ.

Hai vị Đại đức đi vào kinh thành Rājagaha khất thực. Sau khi độ vật thực xong, hai vị Đại đức cùng đến ngôi chùa Veḷuvana gần kinh thành Rājagaha, đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Ngài Đại đức Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại đức Mahāmoggallāna rằng:

─ Kính thưa pháp huynh Mahāmoggallāna, khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, do nhân duyên nào mà pháp huynh mỉm cười?

Ngài Đại đức Mahāmoggallāna trả lời rằng:

─ Này pháp hữu Lakkhaṇa, khi ấy tôi nhìn thấy một ngạ quỷ thật kỳ quái, nó cao khoảng 3 gāvuta([5]) thân hình của nó giống người, cái đầu giống đầu heo, trong miệng của nó có mọc một cái đuôi, các con dòi chảy ra từ miệng. Tôi chưa từng thấy một ngạ quỷ kỳ quái như vậy.

Đó là nhân duyên làm cho tôi mỉm cười.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy rằng:

─ “Này chư Tỳ khưu, chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Như Lai, có nhãn thông nhìn thấy được ngạ quỷthân hình kỳ quái ấy đúng như vậy!

Trước đây, chính Như Lai cũng đã từng gặp ngạ quỷthân hình kỳ quái ấy, nhưng Như Lai chưa cho các con biết, vì nói ra có người không tin sẽ có hại cho họ. Bây giờ Như Lai nói, vì có Moggallāna làm chứng.

Này chư Tỳ khưu, Moggallāna thuật lại thấy ngạ quỷthân hình kỳ quái như vậy là hoàn toàn đúng với sự thật”.

Lắng nghe lời dạy của Đức Phật, chư Tỳ khưu bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, tiền kiếp ngạ quỷ này đã tạo ác nghiệp thế nào, mà kiếp này là ngạ quỷthân hình kỳ quái như vậy, bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

─ Này chư Tỳ khưu, như vậy, các con hãy lắng nghe, trong tiền kiếp ngạ quỷ ấy đã tạo ác nghiệp được tóm lược như sau:

“Trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, có hai vị Đại đức rất thương yêu kính mến nhau, cùng sống chung trong một ngôi chùa làng. Một vị có 60 hạ và vị kia có 56 hạ; vị Đại đức nhỏ hạ hết lòng tôn kính vị Đại đức cao hạ.

Hằng ngày, vị Đại đức nhỏ hạ cung kính làm mọi phận sự như đem nước uống, nước dùng, quét dọn, giặt y,… cho vị Đại đức cao hạ. Khi vị Đại đức cao hạ đi khất thực, thì vị Đại đức nhỏ hạ mang y và bát theo sau… vị Đại đức nhỏ hạ làm mọi phận sự như một vị Sadi cung kính phục vụ vị thầy của mình. Hai vị Đại đức sống chung hòa thuận với nhau như hai anh em ruột cùng cha mẹ sinh ra.

Một hôm, có một vị Pháp sư đến chùa, nhằm vào ngày thuyết pháp; hai Ngài Đại đức kính thỉnh vị Pháp sư thuyết pháp. Sau khi lắng nghe pháp xong, hai Ngài phát sinh đức tin vô cùng hoan hỷ.

Ngày hôm sau, hai vị Đại đức thỉnh vị Pháp sư cùng đi vào xóm làng khất thực, sau khi thọ thực xong, hai vị Đại đức thỉnh vị Pháp sư thuyết pháp tế độ những thí chủ. Nghe pháp rất hoan hỷ, những người thí chủ kính thỉnh vị Pháp sư mỗi ngày đi khất thực, để họ có cơ hội tốt cúng dường vật thực và nghe pháp.

Vị Pháp sư nghĩ rằng: “Hai vị Đại đức này dễ dạy, những thí chủ nơi đây có đức tin nơi ta, vậy ta nên tìm cách làm cho hai vị Đại đức bỏ ngôi chùa này đi nơi khác, chỉ có một mình ta ở lại ngôi chùa này, thì lợi ích biết dường nào!”

Sau khi suy nghĩ xong, lén tìm đến chỗ ở của vị Đại đức cao hạ, vị Pháp sư bịa chuyện thưa với vị Đại đức cao hạ rằng:

─ Thưa Ngài, tôi xin nói nhỏ cho Ngài biết, vị Đại đức nhỏ hạ nói xấu Ngài, còn khuyên tôi không nên gần gũi thân cận với Ngài.

Ban đầu, vị Đại đức cao hạ không tin rằng đó là sự thật, bởi vì từ lâu họ đã sống chung với nhau như tình huynh đệ.

Và lại lén tìm đến vị Đại đức nhỏ hạ, vị Pháp sư bịa chuyện thưa với vị Đại đức nhỏ hạ rằng:

─ Thưa Ngài, tôi xin nói nhỏ cho Ngài biết, vị Đại đức cao hạ nói xấu Ngài, còn khuyên tôi không nên gần gũi thân cận với Ngài.

Ban đầu, vị Đại đức nhỏ hạ không tin rằng đó là sự thật, bởi vì từ lâu họ đã sống chung với nhau như tình huynh đệ.

Vị Pháp sư cố gắng bịa chuyện nói như vậy nhiều lần, khiến gây ra sự ngờ vực giữa hai vị Đại đức, rồi từ ngờ vực lẫn nhau, phát sinh hiểu lầm nhau, dẫn đến tin rằng: Điều mà vị Pháp sư nói có lẽ là sự thật!

Như thường ngày, đến giờ đi khất thực, vị Đại đức nhỏ hạ đến đảnh lễ vị Đại đức cao hạ xin nhận mang y bát theo sau, nhưng sáng hôm ấy vị Đại đức cao hạ không cho vị Đại đức nhỏ hạ nhận y bát của mình, mỗi vị Đại đức đi khất thực riêng rẽ.

Khi xảy ra sự bất bình giữa hai vị Đại đức với nhau, cả hai vị Đại đức đều bỏ ngôi chùa đi mỗi người mỗi hướng, một vị Đại đức đi về hướng Đông, còn vị Đại đức khác đi về hướng Tây.

Chỉ còn lại một mình vị Pháp sư đi vào xóm làng khất thực, những người thí chủ bạch hỏi đến hai vị Đại đức ấy, vị Pháp sư nói rằng:

─ Ngày hôm qua hai vị Đại đức ấy có chuyện bất hòa, cãi cọ với nhau, bần sư đã cố gắng hết sức khuyên bảo giải hòa, nhưng không được, cho nên hai vị Đại đức đã đi khỏi ngôi chùa, mỗi người mỗi hướng.

Vị Đại đức cao hạ nghĩ rằng: “Ác nghiệp của vị nhỏ hạ nặng thật, đã nói xấu ta, lại còn khuyên vị Pháp sư không nên gần gũi thân cận với ta”.

Và vị Đại đức nhỏ hạ cũng nghĩ rằng: “Ác nghiệp của vị cao hạ nặng thật, đã nói xấu ta, lại còn khuyên vị Pháp sư không nên gần gũi thân cận với ta”.

Vì vậy, hai vị Đại đức mỗi vị đi một con đường suốt 100 năm; tâm của hai vị không được an lạc. Một hôm, vị Đại đức cao hạ đến tạm trú tại một ngôi chùa; về sau, vị Đại đức nhỏ hạ cũng ghé vào tạm trú tại ngôi chùa ấy, ngẫu nhiên hai vị Đại đức gặp lại nhau. Vị Đại đức cao hạ nhận biết vị Đại đức nhỏ hạ, và vị Đại đức nhỏ hạ cũng nhận biết vị Đại đức cao hạ, hai vị Đại đức vô cùng cảm động và đều trào nước mắt. Vị Đại đức nhỏ hạ đảnh lễ vị Đại đức cao hạ xong, rồi bạch rằng:

─ Kính thưa pháp huynh, trong thời gian qua, tất cả mọi phận sự mà pháp đệ đã làm do thân và khẩu đã bị phạm những lỗi lầmlàm phật ý pháp huynh hay không?

Vị Đại đức cao hạ suy xét kỹ rồi trả lời rằng:

─ Này pháp đệ, pháp huynh chưa từng thấy lỗi lầm nào cả.

─ Kính thưa pháp huynh, như vậy, tại sao pháp huynh nói xấu pháp đệ với vị Pháp sư, và khuyên vị Pháp sư không nên gần gũi thân cận với pháp đệ?

Vị Đại đức cao hạ khẳng định rằng:

─ Này pháp đệ, pháp huynh không bao giờ nói như vậy với vị Pháp sư ấy. Và chính vị Pháp sư đã nói với pháp huynh rằng: “Pháp đệ nói xấu pháp huynh với vị Pháp sư ấy, và khuyên vị Pháp sư không nên gần gũi thân cận với pháp huynh”.

Nghe vậy, vị Đại đức nhỏ hạ khẳng định chắc chắn rằng:

─ Kính thưa pháp huynh, pháp đệ không bao giờ dám nói xấu pháp huynh với vị Pháp sư, và cũng không bao giờ khuyên vị Pháp sư không nên gần gũi thân cận với pháp huynh.

Ngay lúc ấy, hai vị Đại đức mới hiểu rõ rằng: Vị pháp sư có mưu đồ đen tối bịa chuyện nói lời chia rẽ, gây ra sự hiểu lầm giữa hai vị Đại đức huynh đệ thân thiết như ruột thịt, làm cho hai vị Đại đức giận hờn nhau bỏ đi mỗi vị một hướng, để ngôi chùa lại cho vị Pháp sư. Bây giờ đã hiểu biết rõ như vậy, nên hai vị Đại đức sám hối lẫn nhau, tình huynh đệ trở lại thân thiết như xưa.

Hai vị Đại đức cùng nhau trở về ngôi chùa cũ, vị Pháp sư giả vờ tỏ vẻ vui mừng đón rước, nhưng do đã biết rõ thái độ giả dối của vị Pháp sư, nên hai vị Đại đức nói rằng:

─ Này vị Pháp sư, Ngài không còn xứng đáng ở tại ngôi chùa này nữa, Ngài hãy đi nơi khác.

Biết âm mưu của mình đã bị bại lộ, vị Pháp sư liền đi ra khỏi chùa ngay tức thì.

Vị Pháp sư đã xuất gia suốt 20.000 năm trong thời kỳ Đức Phật Kassapa. Tuy vị Pháp sư thuyết pháp hay, nhưng đã phạm điều giới nói lời chia rẽ hai vị Đại đức có giới, cho nên sau khi chết, do khẩu ác nghiệp nói lời chia rẽ ấy cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, từ thời kỳ Đức Phật Kassapa. Khi mãn quả ác nghiệp ấy, được ra khỏi cõi địa đại ngục Avīci, cũng do ác nghiệp nói lời chia rẽ ấy, lại cho quả tái sinh làm ngạ quỷ có hình thù kỳ quái đầu heo như vậy”.

Tuy vị Pháp sư thuyết pháp hay, nói đạo giỏi, xuất gia từ thời kỳ Đức Phật Kassapa, nhưng không thể tránh khỏi 4 cõi ác giới, bởi vì phạm điều giới nói lời chia rẽ hai vị Đại đức có giới. Trong vòng tử sinh luân hồi từ thời kỳ Đức Phật Kassapa cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama vẫn chưa thoát khỏi 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.

Người phạm điều giới nói lời thô tục

Đức Phật đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh thành Rājagaha, Ngài đề cập đến tiền kiếp của Ngài Đại đức Jambuka([6]) đã nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) bậc Thánh Arahán trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, được tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, một người thí chủ giàu, có đức tin nơi Tam Bảo, tạo dựng một ngôi chùa xong, rồi thỉnh vị Đại đức làm trụ trì tại ngôi chùa ấy và xin hộ độ 4 thứ vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bệnh,...

Hằng ngày, vị Đại đức trụ trì đến độ ngọ tại nhà thí chủ. Một hôm, một vị Đại đức Tăng khách là bậc Thánh Arahán du hành khất thực đến đứng trước cổng nhà người thí chủ ấy, Ngài biết thu thúc lục căn thanh tịnh thật đáng tôn kính. Nhìn thấy Ngài Đại đức Tăng khách, người thí chủ liền phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài; người thí chủ ra tận cổng, kính thỉnh Ngài vào trong nhà, thỉnh Ngài ngồi chỗ cao quý, rồi kính dâng vật thực đến Ngài Đại đức Tăng khách một cách cung kính; thấy tấm y của Ngài đã cũ, người thí chủ xin phép dâng đến Ngài tấm y mới; thấy tóc Ngài hơi dài, người thí chủ xin phép gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho Ngài; người thí chủ kính thỉnh Ngài đến nghỉ tại chùa, và xin phép mang một chiếc giường đến dâng Ngài,…

Vị Đại đức trụ trì đang ngồi trong nhà thí chủ, theo dõi nhìn thấy người thí chủ hết lòng thành kính đối với vị Đại đức Tăng khách như vậy, nên phát sinh tâm ganh tỵ, rồi nghĩ rằng: “Mới gặp vị Đại đức Tăng khách này, mà người thí chủ hết lòng tôn kínhân cần săn sóc đến như thế; còn ta đến đây độ ngọ mỗi ngày, mà ta đâu có được người thí chủ này đối xử như vậy”.

Người thí chủ kính thỉnh Ngài Đại đức Tăng khách đến nghỉ tại ngôi chùa, cung kính tiễn đưa Ngài Đại đức Tăng khách và Ngài Đại đức trụ trì trở về chùa, người thí chủ kính dâng một tấm y mới đến Ngài Đại đức Tăng khách; gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho Ngài; kính dâng đến Ngài một chiếc giường, kính thỉnh Ngài sử dụng chiếc giường ấy để cho thí chủ có được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Người thí chủ kính thỉnh Ngài Đại đức Tăng khách và Ngài Đại đức trụ trì sáng ngày hôm sau đến nhà ông độ ngọ. Người thí chủ cung kính đảnh lễ hai vị Đại đức, rồi xin phép trở về nhà.

Theo dõi thấy người thí chủ hết lòng tôn kínhân cần săn sóc chu đáo vị Đại đức Tăng khách, vị Đại đức trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ không sao chịu nổi được, nên vội vàng đến chỗ ở của Ngài, buông lời chửi mắng Ngài Đại đức Tăng khách, bậc Thánh Arahán 4 điều là:

─ Này ông Tăng khách!

Ông nên ăn phẩn hơn là độ vật thực của nhà thí chủ.

Ông nên ở truồng hơn là mặc tấm y của nhà thí chủ.

Ông nên nằm trên mặt đất hơn là nằm trên giường của nhà thí chủ.

Ông nên tự nhổ tóc hơn là để cho người thí chủ gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho ông.

Nghe lời chửi mắng như vậy, Ngài Đại đức Tăng khách nghĩ rằng: “Xin cho vị Đại đức trụ trì này đừng có bị tai hại vì ta”.

Ngài Đại đức Tăng khách nghỉ lại một đêm tại ngôi chùa ấy, khi thức dậy, không quan tâm đến lời thỉnh mời hôm trước của người thí chủ, từ sáng sớm Ngài đã lặng lẽ đi ra khỏi chùa du hành đến nơi khác.

Sáng hôm ấy, sau khi làm mọi công việc trong chùa xong, đến giờ đi khất thực, vị Đại đức trụ trì dùng ngón tay búng nhẹ vào cái chuông báo hiệu giờ đi khất thực, rồi một mình đi đến nhà người thí chủ.

Người thí chủ đảnh lễ Ngài Đại đức trụ trì xong, bèn bạch rằng:

─ Kính bạch Ngài, Ngài đến đây một mình, còn Ngài Đại đức Tăng khách sao chưa thấy đến. Bạch Ngài.

Vị Đại đức trụ trì bảo rằng:

─ Này ông thí chủ, xin ông đừng nhắc đến vị ấy nữa. Hôm qua, sau khi ông trở về, vị Tăng khách ấy vào phòng ngủ. Sáng nay sư thức dậy sớm làm mọi công việc quét dọn sạch sẽ bên trong, bên ngoài chùa, lấy nước uống, nước dùng… xong, đến giờ đi khất thực bần sư đã đánh chuông báo hiệu, mà vẫn chưa thấy vị ấy thức dậy, nên chỉ một mình bần sư đến đây.

Người thí chủ nghĩ rằng: “Ngài Đại đức Tăng khách là bậc biết thu thúc lục căn thanh tịnh, đáng tôn kính như vậy, thì chắc chắn không phải là bậc ham mê ngủ như vị Đại đức trụ trì đã nói. Có lẽ vị Đại đức trụ trì thấy ta hết lòng tôn kính, ân cần chăm sóc chu đáo đặc bịêt vị Đại đức Tăng khách, cho nên vị Đại đức trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ mà bịa chuyện nói xấu vị Đại đức Tăng khách ấy”.

Người thí chủ kính dâng vật thực đến vị Đại đức trụ trì độ xong, đem bát rửa sạch sẽ, rồi để vật thực ngon lành vào đầy bát, mang đến kính dâng vị Đại đức trụ trì và bạch rằng:

─ Kính bạch Ngài, kính xin Ngài hoan hỷ mang bát vật thực này về chùa dâng lại cho vị Đại đức Tăng khách. Bạch Ngài.

Vị Đại đức trụ trì nhận lấy bát đầy vật thực, trên đường về chùa Ngài nghĩ rằng: “Nếu vị ấy có được vật thực ngon như thế này, thì sẽ ở mãi ngôi chùa của ta, không dễ gì chịu đi nơi khác đâu!”. Nghĩ xong, vị Đại đức trụ trì đem cái bát đầy vật thực ấy đổ bỏ, rồi mang cái bát không trở về chùa.

Khi đến chùa, vị Đại đức trụ trì đi vào chỗ ở của Ngài Đại đức Tăng khách, nhưng không còn thấy Ngài nữa.

Từ đó về sau, vị Đại đức trụ trì phát sinh tâm hối hận, nóng nảy khổ tâm, cho nên thực hành pháp hành thiền định hoặc thực hành pháp hành thiền tuệ không thể phát triển được; bởi vì vị Đại đức trụ trì phạm điều giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đến Ngài Đại đức Tăng khách là một vị Thánh Arahán. Vị Đại đức trụ trì đã tạo khẩu ác nghiệp, lương tâm bị dày vò, duy trì sinh mạng đến 20.000 năm hết tuổi thọ. Sau khi chết, do khẩu ác nghiệp cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu biết bao nhiêu nỗi khổ do quả của ác nghiệp mà mình đã tạo, suốt thời gian lâu dài, từ thời kỳ Đức Phật Kassapa cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

Quả của ác nghiệp khẩu chửi rủa mắng nhiếc bậc Thánh Arahán còn dư sót

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của vị Đại đức trụ trì ấy, do nhờ thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào một gia đình khá giả ở trong kinh thành Rājagaha. Đứa trẻ sinh ra đời được đặt tên là Jambuka, khi bé Jambuka lớn lên biết đi, nó có những tính cá biệt như:

Nó chỉ thích ăn phân của nó mà thôi, không chịu ăn món vật thực nào khác. Cha mẹ nó tưởng rằng: “Trẻ con còn nhỏ dại không biết nên ăn bậy”.

Nó chỉ thích nằm dưới đất mà thôi, không chịu nằm trên giường.

Nó chỉ thích ở truồng mà thôi, không chịu mặc quần áo gì cả (mặc dù trời lạnh hay trời nóng).

Tuy đã lớn, nhưng cậu Jambuka vẫn thích ăn phân, không chịu ăn các món ăn khác; vẫn thích ở truồng, không chịu mặc quần áo; vẫn thích nằm trên mặt đất, không chịu nằm trên giường.

Cha mẹ của cậu bàn tính với nhau rằng:

─ Tuy Jambuka đã lớn rồi, nhưng không biết hổ thẹn, không biết mắc cở; nó thích ở truồng, không chịu mặc quần áo; chúng ta nên cho Jambuka xuất gia theo phái ngoại đạo lõa thể, thì sẽ thích hợp với nó hơn là sống tại gia với chúng ta.

Cha mẹ dẫn Jambuka đến nhóm ngoại đạo tu sĩ lõa thể, xin cho Jambuka được xuất gia theo nhóm tu sĩ này. Nhóm tu sĩ lõa thể chấp thuận cho Jambuka xuất gia theo họ, nhưng bắt buộc Jambuka phải nhổ tóc cho sạch, không được cạo tóc.

Jambuka tự nhổ sạch tóc mới được xuất gia trở thành tu sĩ lõa thể. Cha mẹ của tu sĩ Jambuka mời tất cả tu sĩ lõa thể đến nhà ông để dùng cơm vào ngày hôm sau.

Sáng hôm ấy, tất cả nhóm tu sĩ đều đến nhà cha mẹ của Jambuka, nhưng tu sĩ Jambuka xin phép ở lại tu viện một mình. Thấy tất cả nhóm tu sĩ vừa đi ra khỏi chùa, tu sĩ Jambuka đến hầm cầu dùng 2 bàn tay hốt phân ăn no đủ. Khi nhóm tu sĩ trở về, có mang một phần ăn về cho Jambuka, nhưng Jambuka không thọ nhận, bèn thưa rằng:

─ Con đã dùng vật thực no đủ rồi.

Và những ngày kế tiếp… Jambuka vẫn xin phép ở lại tu viện một mình ăn phân no đủ. Nhóm tu sĩ mang một phần ăn về cho Jambuka, nhưng lần nào Jambuka cũng không nhận phần ăn ấy, mà thưa rằng:

─ Con đã dùng vật thực no đủ rồi.

Nhóm tu sĩ sinh tâm hoài nghi rằng: “Tại sao Jambuka không dùng vật thực mà mình đem về? Vật thực mà Jambuka dùng mấy hôm vừa qua có từ đâu? Chúng ta nên cho người dò xét xem để biết sự thật”.

Cũng như mọi ngày, tất cả nhóm tu sĩ lõa thể ra khỏi tu viện đi khất thực, nhưng đặc biệt hôm ấy còn hai vị tu sĩ lõa thể ở lại ẩn vào một chỗ kín đáo làm phận sự theo dõi tu sĩ Jambuka có được vật thực từ đâu?

Thấy tất cả tu sĩ đã ra khỏi tu viện, tu sĩ Jambuka đi đến hầm cầu dùng 2 tay hốt phân ăn no đủ rồi đi ra, không hề hay biết có người đang theo dõi mình.

Khi nhóm tu sĩ đi khất thực trở về, hai vị tu sĩ làm phận sự theo dõi tu sĩ Jambuka trình bày sự thật, mà họ đã tận mắt thấy cho mọi người cùng nghe.

Nghe xong, nhóm tu sĩ lõa thể bàn tính với nhau rằng:

─ “Nếu chúng ta để Jambuka ở lại nơi đây, không sớm thì muộn đệ tử của Samôn Gotama hay biết, chắc chắn chúng ta sẽ mất uy tín, tiếng xấu sẽ lan tỏa đi khắp mọi nơi. Vậy chúng ta nên đuổi Jambuka ra khỏi tu viện”.

Tu sĩ Jambuka bị đuổi ra khỏi tu viện, đi đến trú ở một nơi gần tảng đá, chỗ để cho mọi người đi đại tiện. Buổi tối, tu sĩ lõa thể Jambuka lén đến nơi đó lấy phân ăn, còn ban ngày y đứng một chân, một chân kia chống vào đầu gối; và một tay vịn vào tảng đá há miệng ngửa mặt nhìn trời.

Một số đông người qua lại gặp tu sĩ lõa thể Jambuka hành hạnh lạ thường, đảnh lễ xong, bạch rằng:

─ Kính bạch Ngài, tại sao Ngài đứng há miệng như vậy?

Tu sĩ Jambuka đáp rằng:

─ Này quý vị, ta là người dùng vật thực bằng gió, chỉ có gió là vật thực của ta mà thôi, ngoài vật thực gió ra ta không dùng một thứ vật thực nào khác.

─ Kính bạch Ngài, tại sao Ngài đứng một chân, còn một chân kia chống vào đầu gối như vậy?

─ Thưa quý vị, ta là người hành hạnh cao thượng, hạnh này có nhiều thần lực. Nếu ta đứng cả 2 chân trên mặt đất, thì sẽ làm cho mặt đất này rung chuyển. Vì vậy, ta chỉ đứng một chân mà thôi, còn chân kia chống vào đầu gối, suốt ngày đêm không ngồi, không nằm.

Một số đông người kém trí tuệ, mê tín tin theo lời của tu sĩ Jambuka, họ tán dương ca tụng, cho đó là hạnh phi thường chưa từng thấy bao giờ!

Một số đông dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha đem nhiều phẩm vật đến cúng dường, nhưng tu sĩ Jambuka không nhận một thứ nào cả.

Tu sĩ Jambuka ở truồng, ăn phân, nằm trên mặt đất, nhổ tóc trải qua suốt 55 năm ròng rã.

Đức Phật ngự đến tế độ tu sĩ Jambuka

Vào canh chót đêm ấy, Đức Thế Tôn quán xét với tâm đại bi xem chúng sinh nào có duyên lành nên tế độ. Ngài thấy tu sĩ Jambuka hiện rõ trong màng lưới trí tuệ của Ngài. Đức Phật quán xét thấy tu sĩ Jambuka có duyên lành chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với tứ tuệ phân tích, và đồng thời có 84.000 chúng sinh cũng được chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn cùng với tu sĩ lõa thể Jambuka.

Sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng ngự vào kinh thành Rājagaha để khất thực, khi trở về Đức Phật gọi Ngài Đại đức Ānanda dạy rằng:

─ Này Ānanda, Như Lai sẽ ngự đi một mình đến tế độ tu sĩ Jambuka.

Chư thiên biết Đức Phật sẽ ngự đến chỗ ở dơ bẩn của tu sĩ Jambuka, cho nên, chư thiên làm một trận mưa lớn để rửa sạch nơi ấy, làm cho các loại cây đều trổ hoa tạo nên một phong cảnh sạch mát, xinh đẹp.

Buổi chiều hôm ấy, Đức Thế Tôn ngự đến gặp tu sĩ Jambuka xin nghỉ trọ một đêm. Tu sĩ Jambuka một mực khước từ, y nói rằng:

─ Thưa Samôn, nơi đây không có chỗ cho Samôn nghỉ trọ một đêm đâu, xin Samôn hãy đi đến nơi khác.

Đức Thế Tôn bèn hỏi Jambuka rằng:

─ Này Jambuka, ngươi có phải là tu sĩ lõa thể không?

Tu sĩ Jambuka khẳng định trả lời rằng:

─ Này Samôn, ta là tu sĩ đạo lõa thể.

─ Này Jambuka, những đồ vật dụng của tu sĩ đạo lõa thể của ngươi để đâu mà ta không thấy?

Nghe Đức Thế Tôn hỏi như vậy, tu sĩ Jambuka nổi giận, nói như xua đuổi rằng:

─ Này Samôn, nơi đây không có chỗ để Samôn nghỉ trọ đâu.

─ Này Jambuka, xin đừng nổi giận, xin ngươi chỉ cho Như Lai một chỗ ở.

─ Này Samôn, tùy Samôn tự tìm lấy chỗ ở.

Đức Thế Tôn ngự đến một nơi không xa chỗ ở của tu sĩ Jambuka, Ngài trải tọa cụ ngồi nhập thiền.

Canh đầu đêm, Đức Tứ Đại Thiên Vương từ 4 hướng cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, ánh hào quang của các Ngài hiện rõ tỏa ra khắp một vùng trời. Tu sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng: “Ánh sáng hào quang gì vậy, 4 vị ấy là ai mà đến hầu đảnh lễ Samôn ấy? Vị Samôn ấy phải là Bậc cao thượng”.

Canh giữa đêm, Đức vua trời Sakka cõi Tam Thập Tam Thiên ngự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, ánh hào quang hiện rõ tỏa ra khắp vùng rộng lớn hơn canh đầu đêm.Tu sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng: “Ánh hào quang này lớn hơn lần trước, vị đến hầu đảnh lễ Samôn cũng có oai lực hơn 4 vị trước.Vị Samôn ấy phải là Bậc cao thượng”.

Vào canh chót đêm, một vị Đại Phạm Thiên đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, ánh sáng hào quang lần này gấp bội hơn hai lần trước làm sáng tỏa cả khu rừng rộng lớn. Tu sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng: “Ánh hào quang lần này gấp bội hơn hai lần trước, vị đến hầu đảnh lễ Samôn cũng có nhiều oai lực hơn các vị trước. Chắc chắn vị Samôn ấy phải là Bậc cao thượng”.

Sáng hôm sau, tu sĩ Jambuka đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bèn bạch rằng:

─ Kính thưa Đại Samôn, canh đầu đêm hôm qua, 4 vị nào từ 4 hướng đến hầu đảnh lễ Ngài, 4 vị ấy có ánh hào quang hiện rõ tỏa ra một vùng như vậy? Bạch Ngài.

Đức Phật dạy rằng:

─ Này Jambuka, 4 vị ấy là Tứ Đại Thiên Vương từ 4 hướng của cõi trời Tứ Đại Thiên Vương.

─ Kính thưa Đại Samôn, như vậy Ngài cao thượng hơn cả Tứ Đại Thiên Vương.

─ Này Jambuka, Như Lai là Bậc cao thượng hơn Tứ Đại Thiên Vương, cho nên, Tứ Đại Thiên Vương đến hầu hạ Như Lai.

─ Kính thưa Đại Samôn, canh giữa đêm hôm qua, vị nào đến hầu đảnh lễ Ngài, vị ấy có ánh hào quang hiện rõ tỏa ra một vùng rộng lớn như vậy? Bạch Ngài.

─ Này Jambuka, vị ấy là Đức vua Sakka trị vì cõi trời Tam Thập Tam Thiên.

─ Kính thưa Đại Samôn, như vậy Ngài cao thượng hơn Đức vua trời Sakka.

─ Này Jambuka, Như Lai là Bậc cao thượng hơn Đức vua trời Sakka, cho nên, Đức vua trời Sakka như người nuôi bệnh của Như Lai, hay như một Sadi nhỏ hầu hạ Như Lai.

─ Kính thưa Đại Samôn, canh chót đêm hôm qua, vị nào đến hầu đảnh lễ Ngài, vị ấy có ánh hào quang hiện rõ tỏa khắp một vùng rộng lớn như vậy? Bạch Ngài.

─ Này Jambuka, vị ấy là vị Đại Phạm Thiên.

─ Kính thưa Đại Samôn, như vậy Ngài cao thượng hơn cả Đại Phạm Thiên.

─ Này Jambuka, Như Lai là bậc cao thượng hơn cả vị Đại Phạm Thiên.

─ Kính thưa Đại Samôn, Ngài là Bậc cao thượng nhất, tôi hành hạnh cao thượng, chỉ đứng một chân, còn chân bên kia chống vào đầu gối; không ngồi, không nằm, ngửa mặt lên trời dùng gió làm vật thực trải qua 55 năm rồi, mà không có một chư thiên nào đến hầu hạ tôi cả.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy tu sĩ Jambuka rằng:

─ “Này Jambuka, ngươi lừa dối được những người mê tín; ngươi không thể lừa dối được Như Lai đâu!

Có phải trải qua suốt 55 năm, hằng ngày ngươi phải ăn phân, nằm trên mặt đất, ở trần truồng, tự nhổ sạch tóc. Thế mà ngươi đã lừa dối những người mê tín rằng: “Ngươi ăn vật thực bằng gió, đứng một chân, không ngồi, không nằm”.

Như vậy, ngươi còn muốn lừa dối cả Như Lai nữa hay sao!

Trong tiền kiếp, ngươi đã tạo khẩu ác nghiệp, kiếp hiện tại này ngươi phải chịu quả khổ của khẩu ác nghiệp còn dư sót, cho nên, ngươi phải ăn phân, nằm trên mặt đất, ở trần truồng, tự nhổ sạch tóc.

─ Bây giờ ngươi còn chấp thủ do tà kiến thấp hèn như vậy nữa hay sao?”

Tu sĩ Jambuka kính thỉnh Đức Thế Tôn rằng:

─ Kính bạch Đại Samôn, khẩu ác nghiệp nào mà con đã tạo trong tiền kiếp quá khứ? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn thuyết giảng cho biết về tiền kiếp của tu sĩ Jambuka. Tu sĩ đã từng là vị Tỳ khưu trụ trì đã tạo nghiệp khẩu nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đối với một vị Thánh Arahán trong thời kỳ Đức Phật Kassapa. Lắng nghe về khẩu ác nghiệp của mình như vậy, tu sĩ Jambuka phát sinh động tâm và vô cùng hổ thẹn với tội lỗi của mình, liền ngồi chồm hổm xuống. Đức Thế Tôn trao cho một tấm vải choàng tắm đến tu sĩ Jambuka, tu sĩ cung kính nhận tấm vải rồi mặc vào, đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Jambuka. Sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp xong, tu sĩ Jambuka liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ tuệ phân tích. Đặc biệt đồng thời ngay khi ấy, khẩu ác nghiệp đã tạo đối với vị Thánh Arahán từ thời kỳ Đức Phật Kassapa cũng đã mãn quả ác nghiệp ấy, hết hiệu lực cho quả xấu. Tu sĩ Jambuka kính xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia Sadi, Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.

Đức Thế Tôn quán xét thấy tu sĩ Jambuka có đủ phước thiện đã tạo trong những tiền kiếp, nhất là kiếp Tỳ khưu trong thời kỳ Đức Phật Kassapa suốt 20.000 năm, quả báu của thiện nghiệp được tích lũy từ vô lượng kiếp trong quá khứ. Do đó, 8 thứ vật dụng của Samôn có thể phát sinh như thần thông nhờ phước thiện ấy cho quả, nên Đức Thế Tôn dạy rằng:

- “Ehi bhikkhu, cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya”.

(Này Jambuka, hãy đến đây, con được trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện!

Con nên thực hành phạm hạnh cao thượng dẫn đến tận cùng của khổ sinh).

Khi Đức Thế Tôn truyền dạy như vậy vừa dứt, tướng mạo của tu sĩ Jambuka liền biến mất. Và ngay khi ấy, Jambuka trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn, và có tăng tướng như một vị Đại đức có 60 hạ.

Như mọi hôm, dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha đem những lễ vật đến cúng dường tu sĩ Jambuka. Hôm ấy họ gặp Đức Phật tại nơi ấy, cho nên họ suy nghĩ rằng: “Không biết Samôn Gotama cao thượng hơn tu sĩ Jambuka vị thầy của họ, hay vị thầy của họ cao thượng hơn Samôn Gotama?”.

Để phá tan sự hoài nghi của dân xứ Aṅga và xứ Magadha tại nơi ấy, Ngài Đại đức Jambuka xin Đức Thế Tôn cho phép Ngài nhập đệ tứ thiền, biến hóa thần thông bay lên hư không cao khoảng một cây thốt nốt, rồi bạch rằng:

- “Satthā me Bhante Bhagavā. Sāvako’ hamasmi”.

(Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài là vị Tôn sư của con, và con là Thanh Văn đệ tử của Ngài).

Khi bạch xong, Đại đức Jambuka đáp xuống đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức Thế Tôn.

Một lần nữa, Đại đức Jambuka bay lên cao khoảng 2 cây thốt nốt, 3 cây thốt nốt,…, 7 cây thốt nốt,… rồi bạch như lần trước xong đáp xuống đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức Thế Tôn.

Tại nơi ấy, mọi người đã thấy và nghe rõ lời của Đại đức Jambuka, cho nên không còn hoài nghi nữa, họ đồng tán dương ca tụng Ân đức Phật thật phi thường!

Khi ấy, Đức Phật thuyết một bài kệ, vừa chấm dứt bài kệ, có 84.000 chúng sinh đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn tùy theo ba-la-mật của mỗi vị.

Nghệ sĩ chuyên nghiệp sẽ có hậu quả như thế nào?

Những nghệ sĩ chuyên nghiệp ca hát, nhảy múa, đánh đàn…; những tài tử là diễn viên trên sân khấu, những nghệ sĩ biểu diễn xiếc, v.v.. Những người này nuôi mạng sống bằng nghệ thuật ấy.

Có phải là chánh ngữ hay không?

Có phải là chánh nghiệp hay không?

Có phải là chánh mạng hay không?

Hậu quả của họ như thế nào?

Nghiệp và quả của nghiệp của người nghệ sĩ

Để hiểu rõ những vấn đề này, nên tìm hiểu bài kinh Tālaputtasutta([7]) Đức Phật dạy ông Tālaputta, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh thành Rājagaha. Khi ấy, một nghệ sĩ nhảy múa ca hát tên Tālaputta đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xong ngồi một nơi hợp lẽ bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã từng nghe lời dạy của nghệ sĩ tài hoa, giỏi về nghệ thuật nhảy múa ca hát, những người ấy là bậc thầy, và bậc thầy của bậc thầy tiền bối nói rằng:

“Những nghệ sĩ nào có tài nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe vui cười, hài lòng hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu cốt để làm cho khán thính giả vui. Những nghệ sĩ ấy, sau khi chết, do nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh làm bạn của chư thiên Pahāsa”.

Kính bạch Đức Thế Tôn, về điều này, Đức Thế Tôn dạy như thế nào? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

─ “Này Gāmaṇī, con không nên hỏi Như Lai về điều ấy”.

Lần thứ nhì…, lần thứ ba cũng như trên rằng:

“Những nghệ sĩ nào có tài trình diễn, nhảy múa, ca hát,... làm cho người xem, người nghe vui cười, hài lòng hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật, hoặc chuyện không có thật trên sân khấu, cốt để làm cho khán thính giả vui. Những nghệ sĩ ấy, sau khi chết, do nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh làm bạn của chư thiên Pahāsa”.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

─ Này Gāmaṇī, Như Lai đã dạy bảo con rằng: “Con không nên hỏi Như Lai về điều ấy”, nhưng con muốn biết. Vậy Như Lai sẽ trả lời cho con biết rõ rằng:

Này Gāmaṇī, những người chưa diệt được tâm tham dục, bị phiền não tham dục chế ngự; khi xem, nghe người nghệ sĩ có tài trình diễn, nhảy múa, ca hát,… là đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, người nghe phát sinh tâm tham dục say mê trong đối tượng.

Những người chưa diệt được tâm sân hận, bị phiền não sân hận chế ngự; khi xem, nghe người nghệ sĩ có tài trình diễn,… là đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, người nghe phát sinh tâm sân không hài lòng trong đối tượng.

Những người chưa diệt được tâm si mê, bị phiền não si mê chế ngự; khi xem, nghe người nghệ sĩ có tài trình diễn,… là đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, người nghe phát sinh tâm si lầm lạc trong đối tượng.

Chính người nghệ sĩ ấy say mê, dể duôi, đặt mình trong sự dể duôi trong mọi thiện pháp. Cho nên, sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục gọi là cõi địa ngục Pahāsa.

Này Gāmaṇī, nếu người nào hiểu rằng:

“Những nghệ sĩ nào có tài trình diễn, nhảy múa, ca hát,… làm cho người xem, người nghe vui cười, hài lòng hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu, cốt để làm cho khán thính giả vui. Những nghệ sĩ ấy, sau khi chết, do nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh làm bạn của chư thiên Pahāsa”.

Sự hiểu của người ấy là sự hiểu sai lầm.

Này Gāmaṇī, Như Lai dạy rằng:

“Đối với người hiểu sai lầm ấy, có hai cõi tái sinh: Tái sinh trong cõi địa ngục hoặc tái sinh làm loài súc sinh”.

Khi nghe Đức Thế Tôn dạy như vậy, nhà nghệ sĩ có tài nhảy múa ca hát tên gọi Tālaputta nước mắt trào ra, khóc tức tưởi.

Ông Gāmaṇī cung kính bạch rằng:

─ Kính bạch Đức Thế Tôn, con không phải khóc do điều mà Đức Thế Tôn đã dạy con, nhưng con đã khóc tức tưởi, bởi vì những nghệ sĩ có tài nhảy múa, ca hát,… là bậc thầy, và bậc thầy của bậc thầy tiền bối đã lừa con từ lâu rằng:

“Những nghệ sĩ nào có tài nhảy múa, ca hát,…, làm cho người xem, người nghe vui cười, hài lòng hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu, cốt để làm cho khán thính giả vui. Những nghệ sĩ ấy, sau khi chết, do nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh làm bạn của chư thiên Pahāsa”.

Kính bạch Đức Thế Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật rõ ràng lắm.

Kính bạch Đức Thế Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật rõ ràng lắm, Đức Thế Tôn thuyết pháp bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy; hoặc mở ra vật bị đóng chặt; hoặc chỉ đường cho người đang đi lạc đường; hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối, để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ mọi vật hiện hữu.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y nương nhờ nơi Đức Thế Tôn, nơi Đức Pháp và chư Tỳ khưu Tăng.

Kính bạch Đức Thế Tôn, con kính xin Đức Thế Tôn cho phép con được xuất gia Sadi và Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.

Khi đã được xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Thế Tôn xong, Ngài Đại đức Tālaputta ở nơi thanh vắng một mình, không dể duôi, tinh tấn không ngừng thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não, mọi tham ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Arahán.



[1] Dīghanikāya, Sīlakkhandhavagga. Kinh Sāmaññaphalasutta.

[1] Aṅg. Dassakanipāta, kinh Kathāvatthusutta...

[2] M. Mū. Kinh Pāsarāsisutta.

[2] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Tambadāṭhikacoraghātakavatthu.

[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kukkuṭamittanesādavatthu.

[3] Bộ Saṃyuttanikāya, phần Nidānavagga, kinh Sūcilomasutta.

[4] Vị Thánh Arahán nhìn thấy ngạ quỷ kỳ quái bằng nhãn thông, không phải bằng mắt thường. Ngài mỉm cười bởi vì Ngài tự quán xét biết rõ chắc chắn mình đã thoát khỏi kiếp ngạ quỷ như vậy, và Ngài niệm đến Đức Phật là Bậc Toàn Giác thấy rõ biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của tất cả chúng sinh. Đức Phật dạy: “Này chư Tỳ khưu nghiệp và quả của nghiệp là bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ…

[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, phần Maggavagga, tích Sūkarapetavatthu.

[5] 1 gāvuta = 5120,64 mét.

[6] Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Jambukattheravatthu.

[7] Saṃyuttanikāya, phần Sālāyatanavagga, kinh Tālaputtasutta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 686)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 543)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1749)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1520)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant