Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý niệm tung hoành trong mê lộ của tâm

04 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10458)
Ý niệm tung hoành trong mê lộ của tâm

melocuatam-hoduyNgày nay, giới khoa học đã dần khám phá được bí mật thời gian vốn giả. Lúc giảng hai chữ “nhất thời” trong các kinh, HT.Tịnh Không có lấy ví dụ: Tổ thứ tư của Tịnh tôngPháp Chiếu đại sư trong định từng thông dự pháp hội hơn một vạn người trên núi Ngũ Ðài do Bồ-tát Văn Thù thuyết giảng. Nhiều vị sư khác thời cận đại còn thông dự pháp hội ba ngàn năm trước của Phật Thích Ca. Chứng tỏ thời gian có hay không phụ thuộc vào cảnh giới tịnh hay nhiễm. Tại sao một ngày ở cõi trời thấp nhất bằng 50 năm ở trần gian, phước đức của ai càng lớn càng được lên các tầng trời cao hơn. Ở thế giới Cực lạcvô lượng thọ, vĩnh viễn không có già chết, tức không có thời gian. Không gian cũng không nốt vì người ở nước ấy chỉ cần khởi ý niệm đã có mặt tại một nơi xa hàng trăm ngàn vạn ức cõi. Nhục nhãn thì phải nhờ đến kính hiển vi để xem vi khuẩn, pháp nhãn của Phật thì thấy rõ hạt vi trần nhỏ gấp mấy chục lần so với hạt bụi ở đầu lông trâu. Một ý niệm thiện chúng ta khởi lên lập tức trùm khắp vũ trụ pháp giới. Ý niệm ác thì ngược lại, sẽ góp phần tàn hại ghê gớm đến sự tồn vong của hành tinh xanh. Thế mới biết, nếu không có sự gia trì của Phật và Bồ-tát, nhân thế chẳng thể tồn tại nổi một canh giờ. Cũng vậy, nếu một nửa lượng người trên thế gian cùng đồng thanh tương ứng nhất niệm “A Di Đà Phật” chẳng những đẩy lùi thiên tai đại họa, còn giúp trái đất tăng vọt tuổi thọ mà chẳng mấy người đủ bản lĩnh dám tin.

Nghiệp thức (hình thành từ thân, khẩu, ý) mà chúng ta tạo tác hàng ngày sẽ làm nên cảnh giới trong tương lai. Kẻ gây nghiệp quá nặng, sống như một ông vua hả hê trên nỗi đau của con dân song đêm đêm triền miên ác mộng, ấy là dấu hiệu của địa ngục. Kẻ sát nhân sẽ bị ác mộng bủa vây, cùng cực khổ sở; mơ mà vẫn máu chảy đầu rơi, vẫn đầm đìa mồ hôi, kêu gào vùng vẫy. Lại với kẻ giết mổ súc vật, u mê mãi cuối đời. Hãy tưởng tượng, cái vảy con cá bị gỡ khỏi thân chẳng khác người ta nhổ móng tay mình. Nỗi thống khổ, niềm đau vô hạn của những con vật sẽ hiện lên trong “mê hồn” của chính họ và họ sẽ nhận lấy nơi địa ngục. Cảnh giới kinh hoàng này chính là “duy tâm sở hiện” chứ thần Phật nào đặt ra. Kinh miêu tả người tự tử với bất cứ lý do nào, sau khi chết cứ một tuần cảnh tượng vật vã kia lại tái diễn. Phật dạy: “Tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh” - đây là sự thật không thể lùi một tơ tóc nào. Nghiệp thức sinh ra ác mộng. Ác mộng nối nhau thành chuỗi trường đoạn thọ hình vô tận không một phút tỉnh thức, thì chính đó là thật. Ngược lại, chúng ta đang sống sờ sờ đây mà lại là mơ. Những người đoạn dứt kiến tư phiền não, tâm lặng phắc mọi ý niệm, thể nhập vào cảnh giới Phật sẽ thấm thía giấc mộng lớn hồng trần.

Kinh Kim cang, Phật dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Lão Tử thấu triệt điều này mới than: “Ta có một mối lo là có thân này”. Biết thân này vốn không phải là ta, thân này sẽ che mất ta mà đâu dễ thoát được. Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh, hóa nghiệp. Đời nay thật nhiều người trách Phật, rằng Ngài vô biên pháp lực, từ bi trải rộng muôn nơi sao thế thái nhân tình lâm ly quá đỗi! Vậy họ đã thực hành Ngũ giớiThập thiện chưa? Phật dạy bố thí, khởi tâm động niệm đều lợi người; Phật dạy đừng sát sanh, đừng tà dâm dối trá, đừng siểm nịnh xan tham, đừng tật đố, đừng cống cao ngã mạn, đừng ác khẩu lưỡng thiệt; Phật dạy hãy yêu thương tất cả mọi người và mọi loài, bởi hiếm ai đời này và hiếm con vật nào trong quá khứ lại không là anh em bà con thân hữu của mình. Chúng ta làm được bao phần trăm lời Phật? Khoa học vốn nặng tính duy vật và… bảo thủ, đến nay ngoài những công trình vĩ đại khiến Phật pháp thêm chói sáng thì chưa hề chứng minh được điều ngược lại. Một giây con người phát ra hàng tỷ ý niệm cực vi, thì còn gì trong tam thiên đại thiên này là ngoại vi của tâm. Mấy tỷ người phát xuất trùng trùng ý niệm bất thiện thì sao không tạo nên đại nạn cho được. Thời nay Phật gọi là ác trược (Thập ácNgũ trược), há chẳng phải lời tiên đoán vĩ đại? Dĩ nhiên, người tu luôn hiểu: kiếp này người ta tạo ác nghiệp song nhiều kiếp lâu xa về trước mình còn mê muội hắc ám hơn nhiều. Thật sự là như vậy. Không bị mắc kẹt trong chấp trước, hơn ai hết, chúng ta hãy nghĩ tốt về người xấu, “A Di Đà Phật” về người xấu để góp sức làm sạch thời không trầm trọng nhiễm ô hiện thời.

Theo “nhẩm tính” của Phật Di Lặc, một giây người phàm phát xuất ra 1.280 triệu ý niệm vi tế (trong lúc khoa học ước khoảng hơn một ngàn). Ấy chính là vọng tưởng điên đảo. Muốn định lại tâm, cách hữu hiệu nhất thường là niệm Phật. Chuyên tu mà nhất là lúc ngồi niệm Phật hoặc vừa lạy Phật vừa nhiếp niệm, câu “Nam-mô A Di Đà Phật” phải sắc bén như lưỡi gươm, phơ sạch tất thảy niệm ác lẫn thiện. Thế mới có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”. Nhiều người không hiểu lý này cứ vô tư “bình loạn” chẳng hay lãnh tội báng pháp nghiệp nặng khôn cùng. Không cứ lúc nào, hễ buồn vui tốt xấu ập đến, điều tiên quyếtniệm Phật, nhắc nhở tâm luôn tỉnh giác bình an. Niệm Phật theo vòng, mỗi vòng từ năm đến mười câu nối nhau tai nghe thấu tâm nhận rõ, ấy là “Thậm thâm thượng diệu Thiền”, vọng niệm sẽ dần bị đẩy lùi, bị vùi dập và... tận diệt. Lúc xuống núi, thõng tay vào chợ, lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị..., tâm không còn mống khởi nghĩa là sống trong cảnh giới thuần tịnh tột cùng pháp giới. Bậc Chánh đẳng Chánh giác chưa cần nói một lời tự thân và thần thái đã toát ra từ trường giáo hóa, đến sát nhân vừa gặp cũng buông dao. Nhiều vị lên núi tịnh tâm, vào nhầm hang hổ nhưng chúng đã nhường lại mà kiếm chỗ khác nương náu. Còn lượng từ bi nhỏ hẹp, tâm bấn loạn gặp thú dữ khắc thành miếng mồi ngon tươi sống. Ta chuyên ăn thịt gì, thân thể sẽ nhiễm mùi và khí huyết của loài đó. Người ghiền thịt cầy thì đến đâu chó cũng tranh nhau sủa tới bến. Nếu khoa học chứng minh được rằng loài vật không hề đau đớn, không hề có lòng oán hận nên không hề quý tiếc mạng sống thì việc người ăn vật hoàn toàn không tạo ra ác nghiệp. Người chết với tâm si mê, sân khuể, ích kỷ hẹp hòi dễ chuyển thành kiếp vật. Khoác thân vật, “linh hồn” ấy sẽ mang nỗi oán hận với người giết nó. Khi người hết phước, ốm yếu què quặt chính là lúc nghiệp báo hiện tiền. Kinh Lăng nghiêm: Người chết thành dê, dê chết thành người; đời đời xoay vần ăn nuốt lẫn nhau. Thế nên trong Hán ngữ, chữ nhục (thịt) mới có bộ khẩu với hai chữ nhân, ý chỉ người ăn người (HT.Tuyên Hóa, Khai thị về ăn chay, Vạn Phật Thành ngày 30-5-1982). Thật thâm thúy tận cùng trời đất.

Có người hỏi: “Nếu ai cũng không giết mổ thì lấy thịt đâu mà ăn, và như vậy thú rừng tràn cả vào thành phố, con người bị diệt vong sao?”. Câu hỏi chưa vào nội dung đã lầm to. “Nếu ai cũng…”. Thử hỏi nhân loại với hàng tỷ người, chỉ trong năm phút thôi liệu có suy nghĩ và hành động đúng như một bậc chân tu hay không. Năm phút với nửa nhân loại không đạt đến từ bi hỷ xả ngang bậc chân tu thì làm gì có “nếu ai cũng”. Đây là câu hỏi thông dụng đối với những người muốn phớt lờ Phật pháp, muốn bác bỏ lý thuyết của Phật và thâm hơn là hủy báng Tam bảo. Nhưng rõ ràng đó là mù quáng. Tào Tháo gây ác nghiệp, đến hơn ngàn năm sau một người dân mổ heo thấy trong gan heo khắc hai chữ “Tào Tháo”. Vậy ra nhân vật “nổi tiếng” này đã khoác thân súc sanh vô số lần. Khoa học đang có trong tay “phép” thôi miên. Chiếc máy vi diệu này không ngờ khiến một người nhớ lại được 84 kiếp quá khứ, như một cuốn phim sống động. Bậc đắc quả A-la-hán thấy được năm trăm kiếp trước, đến quả vị Bồ-tát thì lội ngược về hàng vạn đại kiếp. Để thấy không gì mất đi trong vũ trụ này.

“Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”. Tiên sinh, triết học gia Phương Đông Mỹ (một trong những bậc thầy của HT. Tịnh Không) đã thay Phật nói như vậy. Hành theo đúng lời Phật chẳng những xoay chuyển được vận mạng tại cõi trần mà còn có cơ hội tiếp nhập cõi Thánh. Phật tuyệt nhiên không nói lời hư dối. Trần gian là biển khổ mênh mông, người không chịu bám vào chiếc phao Phật pháp, tất nhiên, càng bơi càng kiệt sức.

Hồ Dụy
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1617)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1740)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 995)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1789)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1355)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1286)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2581)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1279)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1304)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1584)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2503)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1511)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1495)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1450)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1302)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1442)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1503)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1427)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1566)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1598)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1849)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1664)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1517)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1353)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1628)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1484)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1448)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1165)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1543)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1404)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant