Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tám điều giác ngộ - Ứng dụng kinh Bát Đại Nhân Giác trong cuộc sống

11 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 21330)
Tám điều giác ngộ - Ứng dụng kinh Bát Đại Nhân Giác trong cuộc sống

TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ

ỨNG DỤNG KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC TRONG CUỘC SỐNG
Thích Nhật Từ
Nhà xuất bản Hồng Đức


tamdieugiacngo-thichnhattu-bia

MỤC LỤC

Thay lời tựa
Phần 1: Cuộc đời vô thường
Thế gian vô thường
Đất nước mong manh
Đất, nước, gió, lửa là không thực thể
Con ngườivô ngã
Sinh diệt biến đổi
Tâm là nguồn ác
Thân dễ tạo tội
Phần 2: Tham nhiều khổ nhiều
Tham nhiều khổ nhiều
Dục từ lòng tham
Dục từ những ham muốn ở dạng trung tính
Dục trong sự hưởng thụ các khoái lạc giác quan
Dục và tái sanh
Chuyển hóa tính dục
Thân tự tại
Tâm tự tại
Hướng đến vô vi
Phần 3: Từ bỏ thói đời
Nên bỏ thói đời
Tâm tham cầu không đáy
Tham nhiều tội nhiều
Bồ-tát không còn tham
Hài lòng và biết đủ
Giữ tâm với đạo
Trí tuệsự nghiệp
Phần 4: Nỗ lực chuyển hóa
Nỗ lực là nhu cầu
Lười biếng đọa lạc
Tinh tấn hướng thiện
Vẫy chào phiền não
Dẹp sạch các ma
Vượt ngục ngũ uẩn

Phần 5: Học rộng hiểu nhiều
Văn tư tu
Tái sinh do vô minh
Chánh niệm của Bồ-tát
Học rộng hiểu nhiều
Trí tuệ lớn mạnh
Diễn thuyết vô ngại
Hóa độ chúng sanh
Đạt niềm vui lớn
Phần 6: Dâng tặng niềm vui
Nghèo khổ dễ oán
Gặp nhiều trở ngại
Bồ-tát giúp đời
Không phân biệt đối xử
Không ghìm lỗi cũ
Không ghét kẻ xấu
Phần 7: Sống đời thanh cao
Năm dục nguy hại
Trong đời, không nhiễm đời
Ba y một bát
Chí nguyện thong dong
Thanh tịnh giữ đạo
Giới đức sáng ngời
Từ bi hóa độ
Phần 8: Phát tâm đại thừa
Khổ đau trong sinh tử
Nuôi tâm Đại thừa
Cứu người và giúp đời
Chịu khổ thay người
Ban tặng hạnh phúc
Phụ lục: Kinh Bát Đại Nhân Giác (Hán Việt)
Phụ lục: Kinh Tám Điều Giác Ngộ (bản dịch thơ)

THAY LỜI TỰA

Kinh Bát Đại Nhân Giác được hiểu nôm na là “Tám điều giác ngộ của các bậc Bồ tát” hay “Tám điều giác ngộ của các bậc thượng nhân”. Khi phân tích ứng dụng bài kinh này, chúng tôi sẽ không chú trọng đến lịch sửnhân bản học của nó trong lịch sử Tam Tạng, mà chỉ nhấn mạnh đến góc độ ứng dụng từ việc khai thác nội dung súc tích của bản kinh. Nếu áp dụng kinh vào cuộc sống thì giá trị trải nghiệm của nó sẽ cao, do đó ta khỏi bận tâm nhiều đến việc so sánh đối chiếu giữa kinh này với những kinh khác.

Gọi “Tám điều giác ngộ”, nhưng thực ra mỗi điều lại chứa nhiều minh triết khác, do đó học một điều trong tám điều cũng có thể giúp chúng ta trở thành bậc giác ngộ nếu như sự trải nghiệm của chúng ta trọn vẹn, thấu đáo, có phương pháp và đến nơi đến chốn.

Trong kho tạng kinh điển bằng chữ Hán, kinh Bát Đại Nhân Giác thuộc bài 779 của Đại Chánh Tăng Tu Đại Tạng kinh, được thái tử An Thế Cao dịch vào năm 148 tây lịch. An Thế Cao là một vị cao tăng, sau khi giác ngộ nền minh triết của Phật giáo, ông từ bỏ ngôi vua, trở thành một nhà sư và là thái tử của nước An Tức, một phần thuộc về Ba Tư, một phần thuộc về lãnh thổ A Phú Hãn, tức Afghanistan ngày nay.

Vào thời điểm đó, đạo Phật phát triển rất thịnh hành ở vùng Trung Đông. Những công trình vĩ đại như hai tượng Phật ở Afghanistan bị phá hủy là bằng chứng cho thấy sự lớn mạnh của đạo Phật đại thừa. Cũng vào thời điểm đó, phần lớn lãnh thổ Trung Đông thuộc về Phật giáo. Khi dấu giày xâm lược của Hồi giáo lan truyền rộng rãi ở Trung Đông, Trung Á và toàn Châu Á thì các mảnh đất đại thừa dần dà nhường bước cho Hồi giáo ngự trị, vì chính sách cai trị của Hồi giáo lúc bấy giờ rất khắc nghiệt. Ai theo thì được tạo điều kiện thuận lợi về phương diện thăng tiến xã hội, còn ai không theo thì bị chém đầu, giết chết, thủ tiêu, ám sáttrừng phạt nặng nề, điều đó khiến các nhà tri thức Phật giáo phải tìm cách ẩn danh hoặc vượt biên sang nước khác, sau đó hòa nhập trở thành người bỏ đạo, bằng không sẽ không có cơ hội tồn tại.
Kinh Bát Đại Nhân Giác mặc dầu được đề cập trong văn học Đại thừa là kinh dành cho các bậc đại nhân, tức các vị Bồ tát, trên thực tế nội dung cuốn kinh một mặt khái quát một thế giới quan duyên khởivô ngã, mặt khác giới thiệu một nhân sinh quan trên nền tảng đạo đứcchuyển hóa. Nhận diện cuộc đờivô thường, sự sống con ngườivô ngã, mọi thứ biến dịch, việc từ bỏ thói đời và các tâm lý tiêu cực được xem là nền tảng an vui.

Nỗ lực chuyển hóa các phiền não nhờ vào sự học rộng hiểu nhiều Phật pháp, hành giả có khả năng dâng tặng niềm vui cho đời. Không tham đắm ngũ dục, thấy rõ các bất hạnh của nghèo khó, các hành giả thực tập hạnh chia sẻ không phân biệt thân sơ. Nuôi lớn tâm từ bi, phát triển trí tuệ, thực tập thiền định, chuyển hóa thân tâm, phát bồ đề tâm, hướng về đời thường nhằm mang lại hạnh phúc cho số đông.

Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân, bây giờ và tại đây. Giá trị đó thiết thực hiện tạisiêu việt thời gian.

TT. Thích Nhật Từ
Tổng biên tập
Tạp chí và Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay


XEM NỘI DUNG: TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ ỨNG DỤNG KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC TRONG CUỘC SỐNG - Thích Nhật Từ PDF

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1611)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1006)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1479)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1461)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1636)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1903)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1483)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1322)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1343)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1513)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1240)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1244)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1672)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1621)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2910)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1796)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1205)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1375)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1296)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1893)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1646)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1862)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1791)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2366)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1772)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2097)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2162)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2277)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1825)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1945)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1998)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1914)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2564)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1914)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1848)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1921)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1865)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2129)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2266)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1944)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2046)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1830)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1881)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2384)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2295)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3909)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2450)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3152)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2436)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2025)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1780)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3283)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2324)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2997)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2674)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2004)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant