Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Giới Uposathasīla

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6996)
III. Giới Uposathasīla

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA


Giới Uposathasīla

Phàm mọi người tại gia cư sĩ đều phải giữ gìn ngũ giớithường giới (niccasīla) và giữ gìn giới ājīvaṭṭhamakasīla cho được trong sạchtrọn vẹn, để giữ gìn nhân phẩm của mình. Ngoài ra, đối với những người cận sự nam, cận sự nữ đã quy y Tam Bảo, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng cần cố gắng tinh tấn giữ gìn bát giới uposathasīla, hoặc cửu giới uposathasīla, hoặc thập giới của người tại gia; tùy theo khả năng của mỗi người, để cho mọi thiện pháp phát sinh và phát triển.

III- Bát Giới Uposathasīla

Bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới từ điều giới tránh xa sự sát sinh cho đến điều giới tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp. Bát giới uposathasīla này thuộc về kālapariyantasīla: Bát giới bị chấm dứt theo thời gian hạn định do phát nguyện thọ trì, đến khi qua thời gian ấy là chấm dứt, không còn hiệu lực nữa, rồi trở lại giới cơ bản cũ của mình đó là ngũ giới, bát giới ājīvaṭṭhamakasīla.

Bát giới uposathasīla theo thời gian hạn định

Theo Tam Tạng và các Chú giải, bát giới uposathasīla theo thời gian hạn định có nhiều loại như sau:

Bát giới uposathasīla mỗi tháng có 4 ngày:

Trong mỗi tháng có 4 ngày giới được thọ trì bát giới uposathasīla là những ngày mồng 8, ngày rằm (15), ngày 23 và ngày 30 tháng đủ (nếu tháng thiếu thì nhằm ngày 29).

Bát giới uposathasīla mỗi tháng có 6 ngày:

Trong mỗi tháng có 6 ngày giới được thọ trì bát giới uposathasīla là những ngày mồng 8, ngày 14, ngày rằm (15), ngày 23, ngày 29 và ngày 30 tháng đủ (nếu tháng thiếu thì nhằm ngày 28 và ngày 29).

Bát giới uposathasīla mỗi tháng có 8 ngày:

Trong mỗi tháng có 8 ngày giới được thọ trì bát giới uposathasīla là những ngày mồng 5, mồng 8, ngày 14, ngày rằm (15), ngày 20, ngày 23, ngày 29 và ngày 30 tháng đủ (nếu tháng thiếu thì nhằm ngày 28 và ngày 29).

Bát giới uposathasīla mỗi tháng có 20 ngày hoặc 19 ngày (kể thêm ngày đón rước trước 1 ngày và ngày tiễn đưa sau 1 ngày).

Trong mỗi tháng có 8 ngày bát giới uposathasīla căn bản, là những ngày 5, 8, 14, 15, 20, 23, 29, 30. Để cho những ngày giới chính thức trọng thể, người hành giới chuẩn bị đón rước trước một ngày giới và tiễn đưa sau một ngày giới. Cho nên, trong một tháng những ngày bát giới uposathasīla là ngày (4) + 5 + (6), (7) + 8 + (9), (13) + 14 + 15 + (16), (19) + 20 + (21), (22) + 23 + (24), (28) + 29 + 30 + (1) tháng đủ (nếu tháng thiếu thì nhằm vào ngày (27) + 28 + 29 + (1).

Bát giới uposathasīla suốt 3 tháng an cư nhập hạ:

Mỗi năm, từ ngày 16 tháng 6 cho đến ngày 16 tháng 9, suốt 3 tháng (chư Tỳ khưu an cư nhập hạ), một số cận sự nam, cận sự nữ cũng xin nguyện thọ trì bát giới uposathasīla rồi giữ gìn suốt 3 tháng an cư nhập hạ ấy.

Khi chư Tỳ khưu Tăng mãn hạ, đồng thời bát giới upo-sathasīla của những cận sự nam, cận sự nữ cũng hết hạn.

Bát giới uposathasīla suốt đời:

Đối với tu nữ đã xuất gia sống trong chùa, những người làm công quả sống trong chùa, những người trú trong chùa,... những người này thường xin nguyện thọ trì bát giới uposatha-sīla suốt đời ở trong chùa.

Bát giới uposathasīla là thuộc về kālapariyantasīla: Bát giới bị chấm dứt theo thời gian hạn định do phát nguyện thọ trì.

Thông thường, hành giả phát nguyện thọ trì giới upo-sathasīla, rồi giữ gìn trong ngày giới suốt 1 ngày 1 đêm kể từ buổi sáng sớm, lúc bình minh cho đến lúc bình minh của ngày hôm sau.

Nhưng có những trường hợp đặc biệt như sau:

─ Hành giả không có cơ hội thọ trì bát giới uposathasīla từ sáng sớm lúc bình minh, thì đến giờ ngọ (12 giờ trưa), hành giả mới xin thọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn từ thời gian đó cho đến bình minh của ngày hôm sau.

─ Hành giả không có cơ hội thọ trì bát giới uposathasīla trong ngày, thì đến lúc ban đêm, hành giả xin thọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn suốt đêm cho đến lúc bình minh của ngày hôm sau.

─ Trường hợp hành giả đến chùa nghe pháp trong ngày giới, vị Pháp sư hướng dẫn quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn giới suốt thời gian lắng nghe pháp. Khi lắng nghe pháp xong, đồng thời bát giới uposathasīla của hành giả ấy cũng hết hạn.

Do đó, bát giới uposathasīla thuộc về kālapariyantasīla: Bát giới bị chấm dứt theo thời gian hạn định do phát nguyện thọ trì.

Bát giới uposathasīla có nhiều loại do căn cứ vào nhiều đối tượng khác nhau. Phước thiện thọ trì bát giới uposathasīla và giữ gìn 8 điều giới trong sạchtrọn vẹn, sẽ có được quả báu vô cùng phong phú và lớn lao trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai, đặc biệt còn tạo nên duyên lành làm nền tảng cho pháp hành thiền địnhpháp hành thiền tuệ phát triển.

Để hiểu rõ về bát giới uposathasīla, nên tìm hiểu bài kinh Uposathasīla.

Bài Kinh Uposathasīla

Đức Phật thuyết dạy giới uposathasīla có 3 loại trong bài kinh Uposathasīla([1]), được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Pubbārāma, trong lâu đài của bà Visākhā Migāramātā(2), gần kinh thành Sāvatthi. Sáng hôm ấy, nhằm ngày giới uposathasīla, bà Visākhā đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn bèn hỏi rằng:

─ Này Visākhā, hôm nay sao con đến đây từ sáng sớm vậy?

─ Kính bạc Đức Thế Tôn, hôm nay là ngày giới uposathasīla. Bạch Ngài.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bèn dạy rằng:

─ Này Visākhā, giới uposathasīla có 3 loại:

1- Gopāla uposatha: Giữ gìn giới uposathasīla như người chăn bò.

2- Nigaṇṭha uposatha: Giữ gìn giới uposathasīla như nhóm tu sĩ ngoại đạo Nigaṇṭha.

3- Ariya uposatha: Giữ gìn giới uposathasīla y như bậc Thánh Nhân.

Gopāla uposatha

1- Giữ gìn giới uposathasīla như người chăn bò như thế nào?

Buổi chiều người chăn bò dẫn đàn bò trở về nộp vào chuồng cho người chủ bò xong (họ nhận tiền công) trở về nhà rồi tưởng nhớ rằng:Hôm nay, ta đã dẫn đàn bò ăn cỏ nơi bãi đó, cho đàn bò uống nước nơi bến nước đó...; ngày mai, ta sẽ dẫn đàn bò đi ăn cỏ nơi bãi đó, sẽ cho đàn bò uống nước nơi bến nước đó...như thế nào? Có một số người giữ gìn bát giới uposathasīla cũng như thế ấy, họ nghĩ tưởng rằng: “Hôm nay, ta ăn những món đồ ăn mềm này, nhai những món đồ ăn cứng kia; và ngày mai, ta sẽ ăn những món đồ ăn mềm này, sẽ nhai những món đồ ăn cứng kia”.

Những hành giả ấy giữ gìn bát giới uposathasīla suốt ngày đêm trôi qua với tâm tham muốn ăn những món đồ ăn kia.

─ Này Visākhā, như vậy gọi là gopāla uposatha: Giữ gìn bát giới như người chăn bò (để mong nhận tiền công). Giữ gìn bát giới uposatha như vậy không có kết quả nhiều, không có quả báu nhiều, không làm cho giới được hiện rõ, không làm cho giới được lan rộng khắp mọi nơi.

Nigaṇṭha uposatha

2- Giữ gìn giới uposathasīla như nhóm tu sĩ ngoại đạo Nigaṇṭha như thế nào?

─ Này Visākhā, một nhóm tu sĩ ngoại đạo Nigaṇṭha dạy nhóm đệ tử của họ rằng:

Này quý vị hãy lại đây! Trong hướng Đông, những chúng sinh nào ở ngoài phạm vi 100 do tuần, quý vị có thể hành hạ đánh đập,... những chúng sinh ấy được.

Trong hướng Tây, những chúng sinh nào ở ngoài phạm vi 100 do tuần, quý vị có thể hành hạ đánh đập,... những chúng sinh ấy được.

Trong hướng Nam, những chúng sinh nào ở ngoài phạm vi 100 do tuần, quý vị có thể hành hạ đánh đập,... những chúng sinh ấy được.

Trong hướng Bắc, những chúng sinh nào ở ngoài phạm vi 100 do tuần, quý vị có thể hành hạ đánh đập,... những chúng sinh ấy được.

Như vậy, nhóm tu sĩ ngoại đạo ấy dạy nhóm đệ tử của họ có lòng thương đến một số chúng sinh này, và không có lòng thương đến một số chúng sinh kia.

Trong ngày giới uposathasīla, nhóm tu sĩ ngoại đạo ấy dạy nhóm đệ tử của họ rằng:

Này quý vị hãy lại đây! Quý vị hãy nên cởi bỏ tất cả quần áo rồi tuyên bố rằng: “Ta không còn liên quan đến ai cả, nơi nào cả; và ta cũng không bận tâm dính mắc những gì trong thân, hay ngoài thân cả”.

Nhưng cha mẹ của người ấy biết rõ rằng: “Người ấy là con của ta”. Và chính người ấy cũng biết rõ rằng: “Hai người ấy là cha mẹ của ta”.

Vợ và con của người ấy biết rõ rằng: “Người ấy là chồng, là cha của ta”. Và chính người ấy cũng biết rõ rằng: “Người ấy là vợ, là con của ta”.

Những người tôi tớ, người làm công của người ấy biết rõ rằng: “Người ấy là người chủ của chúng ta”. Và chính người ấy cũng biết rõ rằng: “Những người kia là người tôi tớ, là người làm công của ta”.

Nhóm tu sĩ ngoại đạo ấy dạy nhóm đệ tử của họ nói lời chân thật, nhưng thật ra họ dạy nhóm đệ tử nói dối. Do đó, Như Lai nói: “Lời dạy của nhóm tu sĩ ngoại đạo ấy là lời nói dối”.

Khi đêm đã qua, đến rạng đông sáng tỏ, nhóm tu sĩ ngoại đạo ấy dùng vật thực mà người chủ không cho. Do đó, Như Lai nói: “Sự dùng vật thực của nhóm tu sĩ ngoại đạo ấy là sự trộm cắp”.

Này Visākhā, như vậy gọi là Nigaṇṭha uposatha: Giữ gìn giới uposathasīla như nhóm tu sĩ ngoại đạo Nigaṇṭha như vậy không có kết quả nhiều, không có quả báu nhiều, không làm cho giới được hiện rõ nhiều, không làm cho giới được lan rộng khắp mọi nơi.

Ariya uposatha

3- Giữ gìn giới uposathasīla y như bậc Thánh Nhân như thế nào?

3. 1 Brahma uposathasīla: Giữ gìn bát giới uposathasīla có đối tượng 9 Ân đức Phật

Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 9 Ân đức Phật rằng:

“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasāratthi, Satthādevamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā”([2]).

1- Arahaṃ: Đức Arahán là Bậc cao thượng có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạchthanh tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm thiênnhân loại.

2- Sammāsambuddho: Đức Chánh Đẳng Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót; đặc biệt diệt được mọi tiền khiên tật, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị.

3- Vijjācaraṇasampanno: Đức Minh Hạnh Túc là Bậc có đầy đủ Tam Minh, Bát Minh và 15 Đức Hạnh cao thượng.

4- Sugato: Đức Thiện Ngôn là Bậc thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích thật sự cho chúng sinh.

5- Lokavidū: Đức Thông Suốt Tam Giới là Bậc thấy rõ, biết rõ chúng sinh thế giới, cõi thế giới, pháp hành thế giới.

6- Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô Thượng giáo hóa chúng sinh là Bậc giáo huấn chúng sinh cải tà quy chánh, cái ác làm thiện, từ hạng phàm nhân lên bậc Thánh Nhân.

7- Satthādevamanussānaṃ: Đức Thiên Nhân Sư là Bậc Thầy của chư thiên, chư phạm thiênnhân loại...

8- Buddho: Đức Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng sinh, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác độc nhất vô nhị, rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài (cũng chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn tùy theo năng lực ba-la-mật và hạnh nguyện của mỗi chúng sinh).

9- Bhagavā: Đức Thế Tôn là Bậc có 6 Ân đức đặc biệt do 30 pháp hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Ngài.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 9 Ân đức Phật, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, ví như trên đầu bị dơ bẩn, làm cho cái đầu sạch sẽ do nhờ sự tinh tấn.

Trên đầu bị dơ bẩn, làm cho cái đầu sạch sẽ do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Người ta dùng nước trái cây và nước sạch với sự tinh tấn của người ấy gội sạch cái đầu.

Này Visākhā, trên đầu bị dơ bẩn, làm cho cái đầu được sạch sẽ nhờ sự tinh tấn gội sạch cái đầu. Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Này Visākhā, trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 9 Ân đức Phật rằng:

“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasāratthi, Satthādevamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā”.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 9 Ân đức Phật, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử giữ gìn bát giới uposathasīla như vậy, gọi là Brahma uposathasīla có đối tượng 9 Ân đức Phật, như được sống gần gũi với Đức Phật, tâm thiện của bậc ấy hướng đến Đức Phật, nên tâm thiện trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn như vậy.

<3. 2 Dhamma uposathasīla: Giữ gìn bát giới uposathasīla có đối tượng 6 Ân đức Pháp

─ Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 6 Ân đức Pháp rằng:

“Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi”([3]).

1- Svākkhāto dhammo: Pháp gồm có 10 chánh phápĐức Phật đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, có ý nghĩa đầy đủ, văn chương trong sáng, rõ ràngthanh tịnh.

10 chánh pháp đó là:

Pháp học chánh pháp.

9 pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả + 1 Niết Bàn).

2- Sandiṭṭhiko dhammo: Chánh pháp gồm 9 pháp Siêu tam giới mà chư Thánh Nhân đã chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn nào, rồi tự thấy, tự biết bằng trí tuệ của mình.

3- Akāliko dhammo: Chánh pháp đó là 4 Thánh Đạo cho quả tương ứng 4 Thánh Quả không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh Đạo nào liền cho Thánh Quả ấy sau một sát-na tâm diệt rồi sinh.

4- Ehipassiko dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới thuộc Chân nghĩa pháp rất trong sạchthanh tịnh, nên dám mời đến để chứng kiến, để thực chứng, thực đắc.

5- Opaneyyiko dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới là pháp nên hướng tâm chứng đắc trước tiên, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

6- Paccattaṃ veditabbo viññūhi dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới mà chư bậc thiện trí Thánh Nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh Quả hưởng sự an lạc Niết Bàn tịch tịnh.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 6 Ân đức Pháp, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, ví như thân thể bị dơ bẩn, làm cho thân thể được sạch sẽ do nhờ sự tinh tấn.

Thân thể bị dơ bẩn, làm cho thân thể được sạch sẽ do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Người ta dùng bột đá, bột và nước trong với sự tinh tấn của người ấy tắm rửa thân hình sạch sẽ.

Này Visākhā, thân thể bị dơ bẩn, làm cho thân thể được sạch sẽ do nhờ sự tinh tấn tắm rửa thân thể. Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Này Visākhā, trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 6 Ân đức Pháp rằng:

“Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi”.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 6 Ân đức Pháp, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử giữ gìn bát giới uposathasīla như vậy, gọi là Dhamma uposathasīla có đối tượng 6 Ân đức Pháp, như được sống gần gũi với Đức Pháp, tâm thiện của bậc ấy hướng đến Đức Pháp, nên tâm thiện trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn như vậy.

<3. 3 Saṃgha uposathasīla: Giữ gìn bát giới uposathasīla có đối tượng 9 Ân đức Tăng

─ Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 9 Ân đức Tăng rằng:

“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho,

Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa”([4])

1- Suppaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những Bậc đã hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật.

2- Ujuppaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những Bậc đã hành trung thực đúng theo pháp hành Trung đạo, không quanh co lầm lạc.

3- Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những Bậc đã hành theo pháp hành Bát chánh đạo, chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

4- Sāmicippaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những Bậc đã hành giới-định-tuệ đúng đắn xứng đáng để chúng sinh tôn kính lễ bái cúng dường.

Cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm Siêu tam giới).

Chư Thánh Thanh Văn có 4 đôi:

Nhập Lưu Thánh Đạo ® Nhập Lưu Thánh Quả

Nhất Lai Thánh Đạo ® Nhất Lai Thánh Quả

Bất Lai Thánh Đạo ® Bất Lai Thánh Quả

Arahán Thánh Đạo  ® Arahán Thánh Quả

Chư Thánh Thanh Văn có 8 bậc Thánh:

4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả

Nhập Lưu Thánh Đạo

Nhất Lai Thánh Đạo

Bất Lai Thánh Đạo

Arahán Thánh Đạo

Nhập Lưu Thánh Quả

Nhất Lai Thánh Quả

Bất Lai Thánh Quả

Arahán Thánh Quả

5- Āhuneyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những Bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụngthí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.

6- Pāhuneyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những Bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụngthí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.

7- Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những Bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụngthí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để mong được quả báu tốt lành cho mình và những người thân quyến.

8- Añjalikaraṇīyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những Bậc xứng đáng cho chúng sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng dường.

9- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tônphước điền cao thượng của chúng sinh không đâu sánh được.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 9 Ân đức Tăng, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, ví như tấm vải bị dơ bẩn, làm cho tấm vải được sạch sẽ do nhờ sự tinh tấn.

Tấm vải bị dơ bẩn, làm cho tấm vải được sạch sẽ do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Người ta dùng đất mặn, tro và nước trong với sự tinh tấn của người ấy giặt giũ tấm vải cho sạch sẽ.

Này Visākhā, tấm vải bị dơ bẩn, làm cho tấm vải được sạch sẽ do nhờ sự tinh tấn giặt giũ tấm vải. Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Này Visākhā, trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 9 Ân đức Tăng rằng:

“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho,

Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa”.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 9 Ân đức Tăng, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

─ Này Visākhā, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử giữ gìn bát giới uposathasīla như vậy, gọi là Saṃgha uposathasīla có đối tượng 9 Ân đức Tăng, như được sống gần gũi với Đức Tăng, tâm thiện của bậc ấy hướng đến Đức Tăng, nên tâm thiện trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn như vậy.

<3. 4 Sīla uposathasīla: Giữ gìn bát giới uposathasīla có đối tượng giới của mình trong sạchtrọn vẹn

─ Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến giới của mình trong sạchtrọn vẹn, giới không bị đứt (akhaṇḍa)([5]), giới không bị thủng (lủng) (acchidda)([6]), giới không bị đốm (asabala)([7]), giới không bị đứt lan (akam-māsa)([8]), giới tự chủ (không bị nô lệ bởi phiền não), được bậc thiện trí tán dương, giới làm nền tảng cho định và tuệ.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến giới của mình trong sạchtrọn vẹn, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, ví như tấm kính bị lu mờ, làm cho tấm kính được trong suốt do nhờ sự tinh tấn.

Tấm kính bị lu mờ, làm cho tấm kính được trong suốt do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Người ta dùng dầu lau kính, tro và nước sạch với sự tinh tấn của người ấy lau chùi làm cho tấm kính trở nên trong suốt.

Này Visākhā, tấm kính bị lu mờ làm cho tấm kính được trong suốt do nhờ sự tinh tấn lau chùi tấm kính. Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Này Visākhā, trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến giới của mình trong sạchtrọn vẹn, giới không bị đứt, giới không bị thủng, giới không bị đốm, giới không bị đứt lan,...

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến giới của mình trong sạchtrọn vẹn, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc, cho nên những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử giữ gìn bát giới uposathasīla như vậy, gọi là Sīla uposathasīla có đối tượng giới của mình trong sạchtrọn vẹn, như được sống gần gũi với giới, tâm thiện của bậc ấy hướng đến giới của mình, nên tâm thiện trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn như vậy.

3. 5 Devata uposathasīla: Giữ gìn bát giới uposathasīla có đối tượng 5 pháp chư thiên hiện hữu trong mình

─ Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Này Visākhā, trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 5 pháp của các hàng chư thiên rằng:

“Những hàng chư thiên cõi Tứ Đại Thiên Vương Thiên, chư thiên cõi Tam Thập Tam Thiên, chư thiên cõi Dạ Ma Thiên, chư thiên cõi Đấu Xuất Đà Thiên, chư thiên cõi Hóa Lạc Thiên, chư thiên cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, chư phạm thiên cõi trời cao tiền kiếp vốn có đầy đủ các pháp là đức tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ nào, sau khi chết, do nhờ thiện pháp ấy cho quả tái sinh lên cõi trời ấy như thế nào, chính trong ta cũng có đầy đủ các pháp là đức tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ cũng như thế ấy”.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 5 pháp là đức tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ của mình với của các hàng chư thiên, thì tâm thiện của bậc ấy trong sạch phát sinh hỷ lạc. Những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, ví như vàng chưa tinh khiết, làm cho vàng được tinh khiết do nhờ sự tinh tấn.

Vàng chưa tinh khiết, làm cho vàng được tinh khiết do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Người ta đem vàng bỏ vào cái vá, đem đốt trên lò với sự tinh tấn của người ấy làm cho vàng trở nên tinh khiết.

Này Visākhā, vàng chưa tinh khiết làm cho vàng được tinh khiết do nhờ sự tinh tấn làm cho vàng trở nên tinh khiết. Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn.

Tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạchđược, do nhờ sự tinh tấn như thế nào?

Này Visākhā, trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến 5 pháp của các hàng chư thiên rằng:

“Những hàng chư thiên cõi Tứ Đại Thiên Vương Thiên, chư thiên cõi Tam Thập Tam Thiên, chư thiên cõi Dạ Ma Thiên, chư thiên cõi Đấu Xuất Đà Thiên, chư thiên cõi Hóa Lạc Thiên, chư thiên cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, chư phạm thiên cõi trời cao tiền kiếp vốn có đầy đủ các pháp là đức tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ nào, sau khi chết, do nhờ thiện pháp ấy cho quả tái sinh lên cõi trời ấy như thế nào, chính trong ta cũng có đầy đủ các pháp là đức tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ cũng như thế ấy”.

Khi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử niệm tưởng đến các pháp là đức tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ của mình với của các hàng chư thiên, thì tâm thiện của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc, cho nên những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử giữ gìn bát giới uposathasīla như vậy, gọi là: Devata uposathasīla có đối tượng các pháp của chư thiên, như được sống gần gũi với chư thiên, tâm thiện của bậc ấy hướng đến chư thiên, nên tâm thiện trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Những phiền não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền não ấy bị diệt.

Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh tấn như vậy.

3. 6 Bát giới uposathasīla

─ Này Visākhā, bậc Thánh Thanh Văn đệ tửtrí tuệ sáng suốt suy xét rằng:

1- Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự sát sinh, tuyệt đối tránh xa sự sát sinh, đã bỏ gậy gộc, đã bỏ khí giới, có tâm hổ thẹn mọi tội lỗi, có tâm bi thương xót cứu khổ tất cả mọi chúng sinh. Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự sát sinh, tránh xa sự sát sinh, bỏ gậy gộc, bỏ khí giới, có tâm hổ thẹn mọi tội lỗi, có tâm bi thương xót cứu khổ tất cả mọi chúng sinh suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự sát sinh, được trong sạch.

2- Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự trộm cắp, tuyệt đối tránh xa sự trộm cắp, chỉ thọ nhận vật dụng mà người ta cúng dường, không bao giờ trộm cắp, là bậc sống hoàn toàn trong sạch thanh cao. Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự trộm cắp, tránh xa sự trộm cắp, chỉ thọ nhận vật dụng mà người ta cho, không trộm cắp, là người sống hoàn toàn trong sạch thanh cao suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự trộm cắp, được trong sạch.

3- Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự hành pháp không cao thượng (hành dâm), chỉ hành phạm hạnh cao thượng, tránh xa việc hành dâm thấp hèn, tuyệt đối tránh xa sự hành dâm, pháp của người tại gia. Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự hành pháp không cao thượng (hành dâm), chỉ hành phạm hạnh cao thượng, tránh xa việc hành dâm thấp hèn, tránh xa sự hành dâm, pháp của người tại gia suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự hành dâm, được trong sạch.

4- Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự nói dối, tuyệt đối tránh xa sự nói dối, chỉ nói lời chân thật, lúc nào cũng nói lời chân thật, lời nói có chứng cứ rõ ràng, lời nói đáng tin, không lừa dối. Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự nói dối, tránh xa sự nói dối, chỉ nói lời chân thật, lúc nào cũng nói lời chân thật, lời nói có chứng cứ rõ ràng, lời nói đáng tin, không lừa dối suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự nói dối được trong sạch.

5- Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp; đã tuyệt đối tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp. Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp; tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi, được trong sạch.

6- Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời chỉ độ (dùng) vật thực một bữa (trong ngày), không dùng vật thực ban đêm, tránh xa sự độ vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa). Hôm nay, ta cũng chỉ dùng vật thực một bữa (trong ngày), không dùng vật thực ban đêm, tránh xa sự dùng vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa) suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự dùng vật thực phi thời, được trong sạch.

7- Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự nhảy múa ca hát, thổi kèn, tuyệt đối tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái. Hôm nay ta cũng từ bỏ sự nhảy múa ca hát, thổi kèn, tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới từ bỏ sự nhảy múa ca hát thổi kèn, tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái, được trong sạch.

8- Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, tuyệt đối tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ, hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô. Hôm nay, ta cũng từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ, hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ, hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô, được trong sạch.

Quả báu của bát giới Ariya uposathasīla

─ Này Visākhā, như vậy gọi là Ariya uposathasīla: Giữ gìn bát giới uposathasīla như bậc Thánh Nhân.

Này Visākhā, thọ trì bát giới uposathasīla như bậc Thánh Nhân có kết quả nhiều, có quả báu nhiều, quả báu được hiện rõ nhiều, quả báu được lan rộng khắp mọi nơi.

Giữ gìn bát giới uposathasīla như bậc Thánh Nhân có được kết quả nhiều bao nhiêu? Có được quả báu nhiều bao nhiêu? Quả báu được hiện rõ nhiều thế nào? Quả báu được lan rộng khắp mọi nơi thế nào?

Này Visākhā, ví như người nào được suy tôn lên làm Vua trị vì 16 vùng rộng lớn như vùng Aṅga, vùng Magadha, vùng Kāsī, vùng Kosala, vùng Vajjī, vùng Malla, vùng Sūrasena, vùng Assaka, vùng Avantī, vùng Gandhāra, vùng Kamboja,... có đầy đủ 7 báu vật quý giá ấy cũng chưa bằng 1 phần 16 của người thọ trì bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới.

Điều ấy tại sao vậy?

Bởi vì sự nghiệp ngôi báu trong cõi người so sánh với sự an lạc trong cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.

Này Visākhā, cứ 50 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi Tứ Đại Thiên Vương Thiên, 30 ngày đêm thành 1 tháng, 12 tháng thành 1 năm. Tuổi thọ của chư thiên trong cõi Tứ Đại Thiên Vương có khoảng 500 năm cõi trời (nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 500 X 12 X 30 X 50 = 9.000.000 (chín triệu năm)) ở cõi người.

Này Visākhā, trong đời này, có một số người là đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới. Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp giữ giới ấy cho quả tái sinh lên cõi Tứ Đại Thiên Vương Thiên, làm bạn với chư thiên trong cõi ấy.

Này Visākhā, Như Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Sự nghiệp ngôi báu trong cõi người so sánh với sự an lạc trong cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.

Này Visākhā, cứ 100 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi Tam Thập Tam Thiên, 30 ngày đêm thành 1 tháng, 12 tháng thành 1 năm. Tuổi thọ của chư thiên trong cõi Tam Thập Tam Thiên có khoảng 1.000 năm cõi trời. (nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 1.000 X 12 X 30 X 100 = 36.000.000 (ba mươi sáu triệu năm ở cõi người).

Này Visākhā, trong đời này, có một số người là đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới. Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp giữ giới ấy cho quả tái sinh lên cõi Tam Thập Tam Thiên, làm bạn với chư thiên trong cõi ấy.

Này Visākhā, Như Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Sự nghiệp ngôi báu trong cõi người so sánh với sự an lạc trong cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.

Này Visākhā, cứ 200 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi Dạ Ma Thiên, 30 ngày đêm thành 1 tháng, 12 tháng thành 1 năm. Tuổi thọ của chư thiên trong cõi Dạ Ma Thiên có khoảng 2.000 năm cõi trời (nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 2.000 X 12 X 30 X 200 = 144.000.000 (một trăm bốn mươi bốn triệu năm ở cõi người).

Này Visākhā, trong đời này, có một số người là đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới. Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp giữ giới ấy cho quả tái sinh lên cõi Dạ Ma Thiên, làm bạn với chư thiên trong cõi ấy.

Này Visākhā, Như Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Sự nghiệp ngôi báu trong cõi người so sánh với sự an lạc trong cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.

Này Visākhā, cứ 400 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi Đấu Xuất Đà Thiên, 30 ngày đêm thành 1 tháng, 12 tháng thành 1 năm. Tuổi thọ của chư thiên trong cõi Đấu Xuất Đà Thiên có khoảng 4.000 năm cõi trời. (nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 4.000 X 12 X 30 X 400 = 576.000.000 (năm trăm bảy mươi sáu triệu năm ở cõi người).

Này Visākhā, trong đời này, có một số người là đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới. Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp giữ giới ấy cho quả tái sinh lên cõi Đấu Xuất Đà Thiên, làm bạn với chư thiên trong cõi ấy.

Này Visākhā, Như Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Sự nghiệp ngôi báu trong cõi người so sánh với sự an lạc trong cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.

Này Visākhā, cứ 800 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi Hoá Lạc Thiên, 30 ngày đêm thành 1 tháng, 12 tháng thành 1 năm. Tuổi thọ của chư thiên trong cõi Hoá Lạc Thiên có khoảng 8.000 năm cõi trời. (nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 8.000 X 12 X 30 X 800 = 2.304.000.000 (hai tỷ ba trăm lẻ bốn triệu năm ở cõi người).

Này Visākhā, trong đời này, có một số người là đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới. Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp giữ giới ấy cho quả tái sinh lên cõi Hoá Lạc Thiên, làm bạn với chư thiên trong cõi ấy.

Này Visākhā, Như Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Sự nghiệp ngôi báu trong cõi người so sánh với sự an lạc trong cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.

Này Visākhā, cứ 1.600 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên, 30 ngày đêm thành 1 tháng, 12 tháng thành 1 năm. Tuổi thọ của chư thiên trong cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên có khoảng 16.000 năm cõi trời. (nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 16.000 X 12 X 30 X 1.600 = 9.216.000.000 (chín tỷ hai trăm mười sáu triệu năm ở cõi người).

Này Visākhā, trong đời này, có một số người là đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới. Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp giữ giới ấy cho quả tái sinh lên cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên, làm bạn với chư thiên trong cõi ấy.

Này Visākhā, Như Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Sự nghiệp ngôi báu trong cõi người so sánh với sự an lạc trong cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.

Đức Phật thuyết câu kệ có ý nghĩa:

Người thọ trì bát giới, giữ gìn đủ tám giới là

Không sát sinh, không trộm cắp, không hành dâm,

Không nói dối, không uống rượu và chất say,

Không dùng vật thực phi thời quá giờ ngọ,

Không múa hát, thổi kèn, đàn, xem múa hát,

Không đeo tràng hoa, thoa vật thơm, xức nước hoa,

Không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Đức Phật là Bậc Thông Suốt tam giới([9])

Truyền dạy uposathasīla đầy đủ tám giới

quả báu cao quý lớn lao của bát giới.

Mặt trăng, mặt trời cả hai đều có oai lực,

Phát ra ánh sáng có diện tích rộng bao nhiêu,

Ánh sáng này tiêu diệt bóng tối trong hư không,

Làm sáng tỏ lan rộng khắp mọi phương hướng.

Khi ánh sáng chiếu sáng đến một nơi nào,

Tại nơi ấy tràn đầy những báu vật vô giá,

Như các thứ ngọc maṇi, ngọc muttā...,

Đủ các loại vàng tinh khiết quý giá,

Dù gồm tất cả các thứ báu vật vô giá ấy.

Cũng chưa bằng một phần mười sáu so với

Quả báu của bát giới uposathasīla,

Ví như ánh sáng của các ngôi sao trên hư không,

Không bằng một phần mười sáu ánh sáng của mặt trăng.

Vì vậy người cận sự nam, cận sự nữ,

Nên thọ trì bát giới uposathasīla,

Giữ gìn tám giới cho được trong sạchtrọn vẹn.

Tạo được nhiều phước thiện cao thượng đặc biệt.

Là người không bị chê trách mà được tán dương,

Có được quả báu cao thượng đặc biệt,

Trong kiếp hiện tại được nhiều sự an lạc.

Sau khi chết, do nhờ phước thiện giữ giới,

Cho quả tái sinh lên cõi trời như ý,

Hưởng mọi sự an lạc cao thượng nhất.

(Xong bài kinh Uposathasīla)

Chuẩn Bị Thọ Trì Bát Giới Uposathasīla

Phàm người cận sự nam, cận sự nữ có lắm công nhiều việc, ít có dịp thư thả, cho nên đến ngày bát giới uposathasīla là ngày quan trọng. Người cận sự nam, cận sự nữ cần phải chuẩn bị trước khi thọ trì bát giới uposathasīla, đang khi thọ trì và sau khi thọ trì bát giới uposathasīla theo tuần tự như sau:

1- Biết rằng: Ngày hôm sau là ngày bát giới uposathasīla, cho nên ngày hôm ấy, người cận sự nam, cận sự nữ cần phải sắp đặt mọi công việc cho xong.

2- Chuẩn bị đồ ăn uống giản dị cho ngày hôm sau.

3- Biết thu xếp công việc. Nếu biết công việc nào không cần thiết, thì người cận sự nam, cận sự nữ không nên làm công việc ấy trong ngày bát giới uposathasīla.

4- Ngày hôm sau lúc bình minh tỏ rạng, người cận sự nam, cận sự nữ thức dậy sớm xong, làm cho thân hình sạch sẽ, quần áo được sạch sẽ, có thiện tâm trong sạch.

5- Hằng ngày thường trang điểm phấn son, đồ trang sức (đối với người cận sự nữ), sáng ngày bát giới uposathasīla người cận sự nam, cận sự nữ không trang điểm những đồ trang sức ấy.

6- Nếu nhà ở gần chùa, thì người cận sự nam, cận sự nữ nên đến chùa xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla theo nghi thức với vị Đại đức hướng dẫn, rồi ở lại chùa suốt ngày đêm cho đến sáng ngày hôm sau.

Nếu không có cơ hội đến chùa thì người cận sự nam, cận sự nữ đến trước bàn thờ Tam Bảo, đem hoa, trầm lễ bái cúng dường Tam Bảo xong, đọc 3 bài sám hối Tam Bảo, rồi tự mình nguyện xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn bát giới uposathasīla cho được trong sạchtrọn vẹn suốt ngày và đêm cho đến rạng sáng ngày hôm sau.

7- Sau khi thọ trì bát giới uposathasīla xong, người cận sự nam,cận sự nữmột mình chỗ thanh vắng để thực hành thiền định đề mục niệm 9 Ân đức Phật, hoặc đề mục niệm 6 Ân đức Pháp, hoặc đề mục niệm 9 Ân đức Tăng,...; hoặc ngồi nghe pháp, hoặc đàm đạo pháp, hoặc xem kinh đọc sách đạo (không đọc sách báo trong đời); thực hành thiền tuệ trong 4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm trong ngày đêm đó cho đến rạng sáng ngày hôm sau.

8- Đến giờ dùng vật thực chỉ dùng đồ giản dị, khi dùng nên suy xét rằng: “Dùng vật thực để duy trì mạng sống, để thực hành giới-định-tuệ”. Như vậy, vật thực dù ngon, dù dở cũng đều dùng được tự nhiên. Quá giờ ngọ (12 giờ trưa) không được dùng một thứ vật thực nào cả, cho đến lúc bình minh của sáng ngày hôm sau.

Nếu người cận sự nam, cận sự nữ cảm thấy bụng đói, khó chịu, thì được phép dùng các thứ nước trái cây ép bỏ xác lấy nước để dùng, dùng mật ong, thuốc bổ, thuốc trị bệnh.

9- Ban đêm người cận sự nam, cận sự nữ nên ngủ ít (ngủ khoảng từ 22 giờ đến 2 giờ khuya) dành nhiều thời giờ để thực hành thiền định hoặc thực hành thiền tuệ.

Khi thức dậy sớm, người cận sự nam, cận sự nữ nên quán xét lại bát giới uposathasīla của mình rằng: “Chư Bậc Thánh Arahán tuyệt đối tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự hành dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say, tránh xa sự ăn phi thời, tránh xa sự xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái, tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp suốt trọn đời. Về phần ta, noi gương theo chư Thánh Arahán, ta cũng đã thọ trì bát giới uposathasīla tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự hành dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say, tránh xa sự ăn phi thời, tránh xa sự xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái, tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp suốt 1 ngày và 1 đêm nay”.

10- Lúc bình minh của ngày hôm sau, hoàn mãn ngày bát giới uposathasīla, người cận sự nam, cận sự nữ lễ bái Tam Bảo, hồi hướng phước thiện giữ giới đến tất cả chúng sinh, chư thiên, nhất là ông bà, cha mẹ, thầy tổ, cùng những bậc ân nhân từ hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ. Cầu xin tất cả đều hoan hỷ phần phước thiện thanh cao này, để thoát mọi cảnh khổ và được an lạc lâu dài.

Người cận sự nam, cận sự nữ không cần xả bát giới uposathasīla. Thật ra, hành giả đã phát nguyện thọ trì bát giới uposathasīla 1 ngày 1 đêm, khi trải qua 1 ngày 1 đêm, ngay khi ấy bát giới uposathasīla hoàn mãn, không còn hiệu lực nữa, trở lại ngũ giới là thường giới, bát giới ājīvaṭṭhamakasīla của người tại gia.

Nghi Thức Lễ Thọ Phép Quy Y Tam BảoThọ Trì Bát Giới Uposathasīla

Người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có ý nguyện muốn làm lễ thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới gọi uposathasīla.

Nghi thức theo tuần tự như sau:

Người cận sự nam, cận sự nữ (hoặc hành giả) đảnh lễ Ngài Đại đức xong, tiếp theo hành nghi lễ tuần tự như sau:

Lễ bái Tam Bảo

Lễ sám hối Tam Bảo

Lễ sám hối Đức Phật Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.

Buddhe yo khalito doso,

Buddho khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức Phật.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật Bảo,

Cúi xin Phật Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Lễ sám hối Đức Pháp Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Dhammañca duvidhaṃ varaṃ.

Dhamme yo khalito doso,

Dhammo khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Pháp Bảo: Pháp học và pháp hành.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp Bảo,

Cúi xin Pháp Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Lễ sám hối Đức Tăng Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Saṃghañca duvidhuttamaṃ.

Saṃghe yo khalito doso,

Saṃgho khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Tăng Bảo: Thánh Tăngphàm Tăng.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng Bảo,

Cúi xin Tăng Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ cầu nguyện

Iminā puññakammena,

Sabbe bhayā vinassantu.

Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,

Sabbadukkhā pamuccāmi.

Do nhờ năng lực thiện tâm sám hối này,

Cầu xin mọi tai họa hãy đều tiêu diệt.

Mong chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả Niết Bàn,

Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái sinh.

Lễ xin thọ phép quy y Tam Bảo

thọ trì bát giới uposathasīla

Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

Dutiyampi mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

Tatiyampi mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla cho chúng con.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla cho chúng con, lần thứ nhì.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla cho chúng con, lần thứ ba.

Ngài Đại đức truyền dạy rằng:

NĐĐ: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha.

(Sư hướng dẫn từng chữ, từng câu như thế nào, các con hãy nên lập lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy).

Tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh thưa rằng:

CSN: Āma, Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

Kính lễ Đức Phật

Ngài Đại đức hướng dẫn đảnh lễ Đức Thế Tôn rằng:

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy. (3 lần)

 Thọ phép quy y Tam Bảo

Sau khi kính lễ Đức Phật xong, Ngài Đại đức hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảo như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.

Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.

Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.

Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.

Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

NĐĐ: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

(Phép quy y Tam Bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)

CSN: Āma! Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

Thọ trì bát giới uposathasīla

Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong, tiếp theo thọ trì bát giới uposathasīla như sau:

1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sinh.

2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

3- Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự hành dâm.

4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

5- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

6- Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự dùng vật thực phi thời.

7- Nacca gīta vādita visūkadassana mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.

8- Uccāsayana mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Ngài Đại đức khuyên dạy rằng:

NĐĐ: Tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā, appamādena sampādetha.

(Thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, các con hãy nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh).

Những người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh bạch rằng:

CSN: Āma! Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

NĐĐ: Sīlena sugatiṃ yanti.

Sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti.

Tasmā sīlaṃ visodhaye.

Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới.

Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!

CSN: Sādhu! Sādhu!

(Lành thay! Lành thay)!

Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, tiếp theo đọc bài kệ khẳng định khôngquy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nương nhờ nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm tăng đức tin vững chắc, như sau:

Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Buddho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Phật Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Pháp Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Tăng Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla.

Phần Giải Thích

Trong bát giới uposathasīla có tất cả 8 điều giới; có 4 điều giới là: “Tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say... đã được giải thích trong phần ngũ giới. Trong phần sau sẽ giải thích 4 điều giới còn lại là: Tránh xa sự hành dâm; tránh xa sự dùng vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa); tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái; tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Điều Giới Thứ 3

Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Abrahmacariyā = A + brahmacariyā

A = na: Không.

Brahmacariyā: Hành phạm hạnh.

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Abrahmacariyā: Không hành phạm hạnh, nghĩa là hành dâm.

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự hành dâm.

Chi Pháp Phạm Điều Giới Hành Dâm

Người phạm điều giới hành dâm cần phải hợp đủ 2 chi pháp:

1- Tâm muốn hành dâm.

2- Sự tiếp xúc giữa 2 bộ phận sinh dục của 2 bên.

Nếu hội đủ 2 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới hành dâm. Nếu thiếu 1 trong 2 chi, thì không thể gọi là phạm điều giới hành dâm.

Người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, sau khi thọ trì bát giới uposathasīla, giữ gìn 8 điều giới trong sạchtrọn vẹn, thì tạo được phước thiện cao quý đặc biệt, có quả báu cao quý đặc biệt, được sự an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Trường hợp người cận sự nam, cận sự nữ, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, nếu người ấy quan hệ tình dục với vợ hoặc chồng của mình, thì người ấy phạm điều giới hành dâm, không tạo được phước thiện cao quý đặc biệt, nhưng không phải phạm điều giới tà dâm, nên không tạo ác nghiệp tà dâm.

Trường hợp người cận sự nam, cận sự nữ, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, nếu người ấy quan hệ tình dục với vợ hoặc chồng, hoặc con của người khác (không phải vợ hoặc chồng của mình), thì người ấy không những phạm điều giới hành dâm mà còn phạm điều giới tà dâm nữa, tạo ác nghiệp tà dâm, phải chịu quả khổ của ác nghiệp ấy trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Điều Giới Thứ 6

Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Vikālabhojanā = Vikāla + bhojanā

Vikāla: Phi thời, nghĩa là thời gian quá ngọ (quá 12 giờ trưa) cho đến trước lúc bình minh của sáng ngày hôm sau.

Bhojanā: Dùng vật thực gồm có cơm, các món đồ ăn, các loại bánh, các thứ trái cây, các thứ bột ngũ cốc, sữa tươi, sữa chua, bơ đặc, v.v... đều gọi chung là vật thực.

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Vikālabhojanā: Không dùng vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa) gồm có cơm, các món đồ ăn, các loại bánh, các thứ trái cây, các thứ bột ngũ cốc, sữa tươi, sữa chua, bơ đặc, v.v...

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự dùng vật thực lúc phi thời.

Chi Pháp Phạm Điều Giới Dùng Vật Thực Phi Thời

Người phạm điều giới dùng vật thực phi thời cần phải hợp đủ 3 chi pháp:

1- Lúc phi thời là khoảng thời gian từ quá ngọ (quá 12 giờ trưa) qua đêm cho đến trước lúc bình minh của buổi sáng ngày hôm sau.

2- Các thứ vật dụng như cơm, các món đồ ăn, các loại bánh, các thứ trái cây, các thứ bột ngũ cốc, sữa tươi, sữa chua, bơ đặc, v.v...

3- Vật thực nuốt qua khỏi cổ.

Nếu hội đủ 3 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới dùng vật thực phi thời. Nếu thiếu 1 trong 3 chi, thì không thể gọi là phạm điều giới dùng vật thực phi thời.

Người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, người ấy chỉ được phép dùng vật thực từ lúc rạng đông cho đến giờ ngọ, 12 giờ trưa mà thôi. Khi quá 12 giờ trưa qua đêm cho đến trước lúc bình minh của sáng ngày hôm sau, thì hành giả không nên dùng các loại vật thực. Nếu người bị bệnh hành hạ, thì có thể dùng nước trái cây xay nhuyễn, lọc kỹ, bỏ xác lấy nước uống, hoặc có thể dùng 5 thứ thuốc nước bơ trong, nước bơ lỏng, dầu mè, mật ongnước đường, hoặc các loại thuốc dùng để trị bệnh được.

Nếu người ấy giữ gìn 8 điều giới trong sạchtrọn vẹn, thì tạo được phước thiện cao quý đặc biệt, có quả báu cao quý đặc biệt, được sự an lạc đặc biệt trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Trường hợp người cận sự nam, cận sự nữ, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, nếu người ấy dùng vật thực phi thời, thì người ấy phạm điều giới dùng vật thực phi thời, không tạo được phước thiện cao quý đặc biệt, nhưng không tạo tội lỗi gì, bởi vì dùng vật thực của mình, không làm khổ mình cũng không làm khổ người khác.

Điều Giới Thứ 7

Nacca gīta vādita visūkadassana mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

Nacca: Nhảy múa nghĩa là tự mình nhảy múa, hoặc sai bảo người khác nhảy múa để cho mình xem là phạm điều giới, thậm chí sai khiến con công múa cũng phạm điều giới.

Gīta: Ca hát nghĩa là tự mình ca hát, ngâm thơ,...; hoặc sai bảo người khác ca hát, ngâm thơ,... để cho mình nghe là phạm điều giới.

Vādita: Thổi kèn, đánh đàn nghĩa là tự mình thổi kèn, đánh đàn, sử dụng các loại nhạc cụ khác; hoặc sai khiến người khác thổi kèn, đánh đàn, sử dụng các loại nhạc cụ khác để cho mình nghe là phạm điều giới.

Visūkadassana: Xem nhảy múa, nghe ca hát, thổi kèn, đánh đàn đều là đối tượng của tham ái nhân sinh khồ, là pháp nghịch với giới-định-tuệ là phạm điều giới.

Mālādharaṇa: Đeo tràng hoa nghĩa là trang điểm cho mình bằng các thứ hoa, là phạm điều giới.

Gandhamaṇḍana: Làm đẹp bằng các thứ phấn son là phạm điều giới.

Vilepanavibhūsana: Xức nước hoa trong người có mùi thơm là phạm điều giới.

Ṭhāna: Nhân sinh tâm tham ái

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.

Chi Pháp Phạm Điều Giới Nhảy Múa, Ca Hát, Thổi Kèn…

Người phạm điều giới nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái cần phải hợp đủ 6 chi pháp:

1- Nhảy múa ca hát, thổi kèn, đánh đàn...

2- Tâm thỏa thích.

3- Xem nhảy múa, nghe ca hát...

4- Trang điểm bằng những thứ như tràng hoa...

5- Tâm thích trang điểm.

6- Đã thỏa mãn hành động bằng thân và khẩu.

Nếu hội đủ 6 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa nhân sinh tham ái. Nếu thiếu 1 trong 6 chi, thì không không thể gọi là phạm điều giới nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.

Người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, nếu người ấy giữ gìn 8 điều giới trong sạchtrọn vẹn, thì tạo được phước thiện cao quý đặc biệt, có quả báu cao quý đặc biệt, được sự an lạc đặc biệt trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Trường hợp người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, nếu người ấy tự mình nhảy múa ca hát, thổi kèn, đánh đàn,...; hoặc sai khiến người khác nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn,...; hoặc đi xem người khác nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn... làm nhân phát sinh tâm tham ái trong đối tượng ấy, làm trở ngại cho việc thực hành thiền định, thực hành thiền tuệ, không dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn giải thoát khổ.

Thật ra, người phạm điều giới này chỉ là nhân làm trở ngại các thiện pháp như sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp và Siêu tam giới thiện pháp không thể phát sinh mà thôi, nhưng không trở ngại cho sự tái sinh làm người, hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục giới.

Điều Giới Thứ 8

Uccāsayana mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Uccāsayana: Chỗ nằm ngồi quá cao nghĩa là chân giường, chân ghế cao quá 1 hắt tay với 1 gang tay (quá 60 cm).

─ Mahāsayanā: Chỗ xinh đẹp nghĩa là chiếc giường, chiếc ghế được chạm trỗ; chân giường, chân ghế được chạm trỗ...; chỗ nằm ngồi bằng tấm nệm bông gòn, bằng lớp cao su dày, dùng tấm vải có thêu hình đẹp trải giường, trải ghế, v.v... Như vậy gọi là chỗ nằm ngồi xinh đẹp.

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Chi Pháp Phạm Điều Giới Nằm Ngồi Nơi Quá Cao

Xinh Đẹp

Người phạm điều giới nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp cần phải hợp đủ 3 chi pháp:

1- Chỗ nằm, chỗ ngồi quá cao và xinh đẹp.

2- Tâm muốn nằm, ngồi nơi ấy.

3- Đã nằm, đã ngồi nơi ấy với tâm thỏa thích.

Nếu hội đủ 3 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp. Nếu thiếu 1 trong 3 chi, thì không thể gọi là phạm điều giới nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, nếu người ấy giữ gìn 8 điều giới trong sạchtrọn vẹn, thì tạo được phước thiện cao quý đặc biệt, có quả báu cao quý đặc biệt, được sự an lạc đặc biệt trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Trường hợp người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla xong rồi, nếu người ấy nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp, thì phạm điều giới nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp, dễ phát sinh tâm tham ái say mê trong đối tượng, cho nên không tạo được phước thiện cao quý đặc biệt.

Giới CấmGiới Hành

Trong bát giới uposathasīla có 2 phần giới:

1- Phần giới cấm (vārittasīla) là giới không được phạm.

2- Phần giới hành (cārittasīla) là giới nên thực hành.

1- Phần giới cấm trong bát giới uposathasīla có 4 điều giới là:

Tránh xa sự sát sinh.

Tránh xa sự trộm cắp.

Tránh xa sự nói dối.

Tránh xa sự uống rượu và các chất say.

Đó là 4 điều giới cấm mà người nào giữ gìn 4 điều giới này được trong sạchtrọn vẹn, thì người ấy có được nhiều phước thiện, có quả báu an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai. Ngược lại, nếu người nào phạm điều giới nào, thì người ấy đã tạo ác nghiệp, rồi phải chịu quả khổ của ác nghiệp ấy trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

4 điều giới cấm này có trong ngũ giới là thường giới của tất cả mọi người, không ngoại lệ một ai cả. Tất cả mọi người ai ai cũng cần phải giữ gìn ngũ giới cho được trong sạchtrọn vẹn, để đem lại sự an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

2- Phần giới hành trong bát giới uposathasīla có 4 điều giới là:

Tránh xa sự hành dâm.

Tránh xa sự dùng vật thực phi thời.

Tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn,...

Tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Đó là 4 điều giới hành mà người cận sự nam, cận sự nữ nào đã thọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn 4 điều giới này được trong sạchtrọn vẹn, thì người ấy đã tạo được phước thiện cao quý đặc biệt, có quả báu cao quý đặc biệt, có được sự an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai. Nhưng nếu người cận sự nam, cận sự nữ nào sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla rồi, mà phạm điều giới hành nào, thì người ấy không tạo được phước thiện cao quý đặc biệt của điều giới hành ấy, nhưng không có tội lỗi do thân và khẩu.

Tóm lại:

Người nào giữ gìn 4 điều giới cấm được trong sạchtrọn vẹn, thì người ấy đã tạo được phước thiện. Nếu người nào không giữ gìn, phạm trong 4 điều giới cấm, thì người ấy đã tạo ác nghiệp.

Còn người cận sự nam, cận sự nữ nào, sau khi đã thọ trì bát giới uposathasīla rồi, giữ gìn 4 điều giới hành được trong sạchtrọn vẹn, thì người ấy đã tạo được phước thiện cao quý đặc biệt. Nếu người cận sự nam, cận sự nữ nào không giữ gìn, mà phạm 4 điều giới hành, thì người ấy không tạo được phước thiện cao quý đặc biệt, nhưng không có tội lỗi do thân và khẩu.

Thật vậy, trong các hàng cận sự nam, cận sự nữ tại gia, có một số người là bậc Thánh Nhập Lưu, có một số người là bậc Thánh Nhất Lai. Những bậc Thánh Nhân này chắc chắnngũ giới hoàn toàn trong sạchtrọn vẹn, họ có vợ hoặc có chồng và có con. Cho nên việc hành dâm là điều không thể tránh khỏi, nhưng chắc chắn họ không bao giờ phạm điều giới tà dâm.

Ví như trường hợpVisākhā, khi bà còn là một cô bé mới lên 7 tuổi, cô bé Visākhā đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, lúc trưởng thành, cô làm lễ thành hôn với công tử Puññavaḍḍhana, con trai của ông phú hộ Migāra. Bà Visākhā sinh được 20 người con (10 người con trai và 10 người con gái). Bà Visākhā thường trang điểm cho bà bằng tấm áo choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý giá, v.v...

Như vậy, những bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai sống tại gia, họ thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, thì họ mới giữ gìn 4 điều giới hành được trong sạchtrọn vẹn. Ngoài ngày giới ra, 2 bậc Thánh Nhân này có ngũ giới là thường giới hoàn toàn trong sạchtrọn vẹn.

Riêng bậc Thánh Bất Lai, đã diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong cõi dục giới, dù tại gia bậc Thánh Bất Lai cũng không bao giờ ham thích hành dâm. Cho nên quý Ngài không có vợ hoặc có chồng.

Trước khi chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, nếu vị ấy đã có vợ hoặc có chồng, thì sau khi đã chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, vị Thánh ấy tuyệt nhiên không bao giờ sống chung với người vợ cũ hoặc người chồng cũ của mình như trước nữa.

* Trong thời kỳ Đức Phật hiện còn trên thế gian, có 2 ông trưởng giả cùng tên Ugga: Trưởng giả Ugga người xứ Vesālitrưởng giả Ugga người làng Hatthigāma trong vùng Vajji. Cả 2 trưởng giả này sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, rồi thực hành thiền tuệ đều chứng đắc đến bậc Thánh Bất Lai, đã diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong cõi dục giới. Cho nên bậc Thánh Bất Lai tuyệt nhiên không bao giờ hành dâm nữa.

Ông trưởng giả Ugga có 4 người vợ, sau khi chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai trở về, ông gọi 4 người vợ cũ đến rồi ban của cải cho mỗi bà và ông bảo rằng:

“Từ nay về sau, quý bà được tự do, ai muốn có chồng khác, thì được quyền chọn lựa theo ý của mình”.



[1] Aṅguttaranikayā, phần Tikanipatā, kinh Uposathasīla.

[2] Migāramātā: Mẹ của ông phú hộ Migāra. Thật ra, bà Visākhā là con dâu của ông phú hộ Migāra nhưng ông suy tôn bà lên địa vị người mẹ của ông.

[2] Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Dhajaggasutta.

[3] Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Dhajaggasutta.

[4] Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Dhajaggasutta.

* Chú thích bát giới được trong sạch có 4 trạng thái:

[5]Giới không bị đứt (akhaṇḍa) nghĩa là điều giới đầu và điều giới cuối (điều giới thứ nhất và điều giới thứ 8) được giữ gìn trong sạch, thì gọi là giới không bị đứt. Nhưng nếu phạm điều giới đầu và điều giới cuối, thì gọi là giới bị đứt (khaṇḍa).

[6] Giới không bị thủng (acchidda) nghĩa là ngoại trừ điều giới đầu và điều giới cuối ra, còn lại 6 điều giới ở giữa được giữ gìn trong sạch nguyên vẹn, thì gọi là giới không bị thủng (lủng). Nhưng nếu phạm 1trong 6 điều giới ở giữa, thì gọi là giới bị thủng (lủng) (chidda).

[7] Giới không bị đốm (asabala) nghĩa là trong 8 điều giới ấy, điều giới thứ 2, điều giới thứ 4, điều giới thứ 6 được giữ gìn trong sạch trọn vẹn, thì gọi là giới không bị đốm. Nhưng nếu phạm điều giới thứ 2, điều giới thứ 4, điều giới thứ 6, thì gọi là giới bị đốm (sabala).

[8] Giới không bị đứt lan (akammāsa) nghĩa là trong 8 điều giới ấy, điều giới thứ 2 và điều giới thứ 3, hoặc điều giới thứ 3 và điều giới thứ 4; điều giới thứ 4 và điều giới thứ 5, điều giới thứ 6 và điều giới thứ 7 đều được giữ gìn trong sạch nguyên vẹn, thì gọi là giới không bị đứt lan. Nhưng nếu phạm điều giới thứ 2 và điều giới thứ 3; hoặc điều giới thứ 3 và điều giới thứ 4; hoặc điều giới thứ 4, điều giới thứ 5, điều giới thứ 6 và điều giới thứ 7 đều bị đứt liền với nhau, thì gọi là giới bị đứt lan (kammāsa).

[9] Tam giới: Chúng sinh thế giới, cảnh thế giới, pháp hành thế giới.

Những Tích Chuyện Người Thọ Trì Bát Giới Uposathasīla

Quả báu thọ trì bát giới uposathasīla chỉ trong một đêm

Trích từ tích Sāmavativatthu([1]) trong Chú giải Pháp cú có một đoạn chư thiên ngự ở cội cây thuật lại tiền kiếp của mình đã thọ trì bát giới uposathasīla, thời gian ngắn một đêm, được tóm lược như sau:

Một chư thiên ngự ở cội cây da lớn, có nhóm Đạo sĩ ở dưới cây da lớn ấy. Vị Đạo sĩ trưởng nghĩ rằng: “Cây da lớn như thế này chắc chắnchư thiên ngự trên cây, và chư thiên này chắc chắn có nhiều oai lực. Quý hoá biết dường nào! Nếu vị chư thiên ấy bố thí cho chúng tôi nước uống!” thì ngay tức thì, chư thiên ấy dâng nước uống đến cho nhóm Đạo sĩ.

Vị Đạo sĩ trưởng mong muốn rằng: “Xin chư thiên bố thí nước tắm thì ngay tức thì, chư thiên ấy dâng nước tắm đầy đủ đến cho nhóm Đạo sĩ.

Vị Đạo sĩ trưởng mong muốn rằng: “Xin chư thiên bố thí vật thực thì ngay tức thì, chư thiên ấy dâng vật thực đầy đủ đến cho nhóm Đạo sĩ.

Vị Đạo sĩ trưởng mong muốn rằng: “Chư thiên này có nhiều phước báu, có nhiều oai lực, ta mong muốn những thứ nào, chư thiên ấy đều dâng cúng những thứ ấy. Quý hoá biết dường nào! Nếu ta được diện kiến vị chư thiên ấy!” thì ngay tức thì, vị chư thiên ấy xuất hiện trước sự hiện diện nhóm Đạo sĩ.

Nhóm Đạo sĩ bèn hỏi chư thiên rằng:

Này vị thiên nam, Ngài có nhiều phước báu, có nhiều oai lực. Tiền kiếp Ngài đã tạo phước thiện nào, mà nay Ngài có nhiều oai lực như vậy?

Vị thiên nam có vẻ e thẹn, mắc cở vì phước thiện ít ỏi nhỏ bé của mình, nên không muốn trình bày cho nhóm Đạo sĩ biết. Nhưng nhóm Đạo sĩ vẫn khẩn khoản, năn nỉ, vị thiên nam không còn cách nào có thể từ chối được, nên đành phải thuật lại phước thiện mà mình đã tạo trong tiền kiếp như sau:

Người nghèo khổ làm công, thọ trì bát giới uposathasīla

Vị thiên nam thuật lại tiền kiếp rằng:

Kiếp trước tôi là người nghèo khổ đi làm thuê, làm mướn để nuôi mạng sống qua ngày, một hôm tôi đến nhà ông phú hộ Anāthapiṇḍika xin việc làm kiếm sống”.

Khi đến ngày giới, ông phú hộ từ chùa Jetavana trở về hỏi người nhà rằng:

─  Hôm nay là ngày giới uposathasīla, có ai nói cho người làm công mới đến biết hay không?.

Người trong nhà thưa rằng:

─  Thưa ông, không có nói cho người làm công mới ấy biết.

Ông phú hộ dạy bảo rằng:

─  Chiều nay, chỉ nấu cơm cho một mình người làm công mới ấy mà thôi, còn lại tất cả mọi người ở trong nhà đều thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla cả thảy.

Tôi là người làm công mới ấy, sáng hôm ấy, dùng vật thực xong đi vào rừng làm việc đến chiều mới trở về nhà ông phú hộ. Khi tôi trở về đến nhà, nhìn thấy trong nhà vắng vẻ, yên tịnh, không giống như mấy ngày hôm trước, mọi người xôn xao ăn uống; người này đòi cơm, người khác đòi canh, v.v..., chuyện trò ồn ào, hôm nay vắng lặng yên tịnh, chỉ có một người lo việc nấu ăn mang đến cho tôi một phần cơm bảo tôi ăn, tôi chưa vội ăn, bèn hỏi người đem cơm rằng:

─  Hôm nay, mọi người ăn xong rồi đi nghỉ hết, chỉ còn lại một mình tôi chưa ăn phải không?

Người đem cơm trả lời cho tôi biết rằng:

─  Hôm nay là ngày thọ trì bát giới uposathasīla, mọi người trong gia đình từ ông phú hộ, phu nhân, các con, các cháu kể cả các cháu nhỏ đang còn bú sữa, cho đến mọi người làm công trong nhà, tất cả đều thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla. Mọi người đều tìm nơi thanh vắng yên tịnh để giữ gìn bát giớithực hành thiền định, thực hành thiền tuệ cả thảy. Chúng tôi quên nói cho anh biết hôm nay là ngày giới uposathasīla, nên chỉ có một mình anh đi làm, đây là phần cơm nấu cho anh, anh hãy ăn cơm một mình vậy!

Tôi nghĩ rằng: “Mọi người trong nhà ai cũng thọ trì bát giới uposathasīla, chẳng lẽ một mình ta không thọ trì được bát giới uposathasīla hay sao? Ta cũng nên thọ trì bát giới uposathasīla như mọi người trong nhà này”.

Nghĩ vậy, không chịu ăn phần cơm, tôi đi đến tìm ông phú hộ Anāthapiṇḍika, trình bày ý nguyện xin thọ trì bát giới uposathasīla của tôi. Khi nghe xong, ông phú hộ hoan hỷ nói lên lời “Sādhu!: Lành thay!

Ông phú hộ Anāthapiṇḍika giảng giải cho tôi hiểu ngày giới uposathasīla bắt đầu từ rạng đông của ngày này đến rạng đông của ngày hôm sau gồm có 1 ngày 1 đêm. Nếu tôi thọ trì bát giới uposathasīla ngay khi ấy, thì được 1 đêm là một nửa uposathasīla. Tôi vô cùng hoan hỷ xin thọ trì bát giới uposathasīla từ nơi ông phú hộ Anāthapiṇḍika  xong, trở về chỗ ở rồi giữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 giới cho được trong sạchtrọn vẹn.

Bởi vì, tôi đi làm vất vả suốt ngày mà chiều về không ăn, cho nên tối đến bụng đói. Ban đêm tôi bị lâm bệnh phong (gió), căn bệnh hành hạ đau khổ khiến tôi không chịu nổi. Khi biết tôi bị lâm bệnh phong nặng, ông phú hộ đem thuốc đến cho tôi uống.

Tôi thưa với ông phú hộ rằng:

─  Thưa ông, những người khác đều dùng thuốc rồi phải không?

Ông phú hộ dạy rằng:

─  Những người khác không có bệnh, không được dùng, chỉ có một mình con có bệnh nên con được phép dùng thuốc.

Tôi thưa với ông phú hộ rằng:

─  Thưa ông, con xin giữ gìn bát giới uposathasīla cho được trong sạchtrọn vẹn. Dầu chỉ thọ trì bát giới một nửa (một đêm), con cũng không thể để cho phạm điều giới hoặc để bị đứt giới nào.

Ông phú hộ một mực khuyên tôi dùng thuốc để mau khỏi bệnh; nhưng tôi quyết tâm giữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới cho được trong sạchtrọn vẹn. Tuy thân thể của tôi có khổ, nhưng tâm của tôi vô cùng hoan hỷ cho đến khi yếu dần rồi chết. Sau khi tôi chết, chính thiện nghiệp giữ gìn bát giới một đêm của tôi cho quả tái sinh làm vị thiên nam ở tại cội cây da này, được hưởng những quả báu như quý Ngài đã thấy.

Quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla một nửa (một đêm)

Trích trong bộ Jātaka chuyện tiền thân của Đức Phật, phần đầu của tích chuyện Gaṅgāmālajātaka([2]). Đức Phật thuyết lại chuyện tiền kiếp của Ngài, khi Ngài còn là một Đức Bồ Tát nghèo đi làm công ở nhà phú hộ, thọ trìgiữ gìn bát giới upaḍḍhuposathakamma (một nửa uposathakamma) chỉ có 1 đêm(2), được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại chùa Jetavana (Kỳ Viên) của phú hộ Anāthapiṇḍika gần thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết dạy những người cận sự nam, cận sự nữ nên bố thí, nên thọ trì bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới, rồi giữ gìn bát giới cho được trong sạchtrọn vẹn hoàn toàn. Đức Phật thuyết lại rằng:

─ “Một tiền kiếp Đức Bồ Tát thọ trì bát giới uposathasīla, gồm có 8 điều giới, rồi giữ gìn bát giới trong sạchtrọn vẹn chỉ có một đêm, mà hưởng được quả báu vô cùng lớn lao”.

Những người cận sự nam, cận sự nữ nghe Đức Phật thuyết như vậy, muốn biết câu chuyện tiền kiếp của Ngài, nên thỉnh cầu Đức Phật thuyết thuật lại tiền kiếp Đức Bồ Tát thuở ấy.

Đức Phật dạy rằng:

“Một thuở nọ, Đức vua Brahmadatta trị vì xứ Bārāṇasī. Trong xứ ấy, một phú hộ tên là Siripavara có đức tin trong sạch thường bố thí, giữ ngũ giới. Đặc biệt vào 6 ngày giới uposathasīla trong mỗi tháng là ngày 8 - 14 - 15 - 23 - 29 và ngày 30 cuối tháng. Ông phú hộ cùng vợ con, tôi tớ, những người làm công cho đến người chăn bò,… hết thảy đều phải thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla đầy đủ 8 điều giới.

Thời ấy, Đức Bồ Tát hạ sinh vào một gia đình nghèo khổ. Hằng ngày, người cha phải đi làm công để nuôi gia đình. Khi Đức Bồ Tát trưởng thành cũng phải tự đi làm công để nuôi sống.

Một hôm, Đức Bồ Tát đến nhà ông phú hộ để xin việc làm, ông phú hộ nhận Đức Bồ Tát vào làm công. Thông thường, ông phú hộ nhận người vào làm công có kèm theo điều kiện là đến ngày giới mỗi tháng phải thọ trì bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới rồi giữ gìn bát giới uposathasīla ấy. Nhưng trường hợp Đức Bồ Tát, thì ông quên không đề cập đến điều kiện ấy.

Mấy ngày đầu, Đức Bồ Tát thức dậy sớm, dùng cơm sáng xong đi ra đồng làm việc đến chiều mới trở về. Đức Bồ Tát làm công việc rất siêng năng và cần mẫn, nên ông phú hộ rất hài lòng.

Hôm ấy, nhằm vào ngày giới, Đức Bồ Tát là người mới vào làm công nên không biết gì về chuyện thọ trì bát giới uposathasīla trong ngày giới, cho nên, sau khi ăn cơm sáng, Đức Bồ Tát vẫn đi ra đồng sớm, làm việc như mọi ngày.

Sáng hôm ấy, ông phú hộ gọi mọi người đến và dạy rằng:

─  Hôm nay là ngày giới, những người làm công dùng sáng xong, không phải đi làm việc, chỉ thọ trì bát giới uposathasīla rồi giữ gìn bát giới uposathasīla mà thôi.

Như vậy, toàn thể gia đình ông phú hộ, vợ, con, cháu, người tôi tớ, người làm công đều thọ trì bát giới uposathasīla, rồi sau khi dùng cơm sáng xong, mỗi người đều tự tìm cho mình nơi thanh vắng, để giữ gìn bát giới uposathasīla và thực hành thiền định cả thảy.

Đức Bồ Tát đi làm suốt cả ngày, đến chiều trở về nhà ông phú hộ, nhìn thấy trong nhà vắng vẻ, yên tịnh, khác với những ngày qua, mọi người xôn xao, ăn uống, nói cười, chuyện trò vui vẻ. Đức Bồ Tát tìm người hỏi để biết xem chuyện gì đã xảy ra.

Đức Bồ Tát gặp một người và họ cho biết rằng:

─  Hôm nay là ngày giới, mọi người đều đã thọ trì bát giới uposathasīla, mỗi người đều tìm nơi thanh vắng yên tịnh để giữ gìn bát giới uposathasīla và thực hành pháp hành thiền định, chỉ có một mình anh mới đến làm công, nên không biết nội quy ở đây.

Đức Bồ Tát nghe nói như vậy, nghĩ rằng: “Bát giới uposathasīla là thế nào? Mọi người ở đây đều có giới, chỉ có một mình ta không có giới hay sao? Ngay bây giờ, ta thọ trì bát giới uposathasīla có được hay không?” Nghĩ xong, Đức Bồ Tát liền tìm đến ông phú hộ, nhờ giảng giải những điều thắc mắc của mình.

Khi Đức Bồ Tát thưa rằng:

─  Thưa ông phú hộ, bát giới uposathasīla là như thế nào, xin ông hãy giảng giải cho tôi nghe.

Ông phú hộ giảng giải kỹ càng cho Đức Bồ Tát hiểu rõ ràng, Đức Bồ Tát thưa rằng:

─  Thưa ông phú hộ, ngay bây giờ, tôi có thể thọ trì bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới được không?

Ông phú hộ bảo:

─  Này con, bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới như vậy, người thọ trì bát giới 1 ngày 1 đêm cũng tốt, hoặc nửa ngày cũng tốt, hoặc ngay bây giờ cho đến rạng đông của ngày mai, được một đêm cũng tốt.

Đức Bồ Tát thưa rằng:

─  Như vậy, tôi xin thọ trì bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới ngay bây giờ cho đến rạng đông ngày mai.

Ông phú hộ: “Sādhu!: Lành thay!” Đức Bồ Tát xin thọ trì bát giới uposathasīla từ ông phú hộ xong, trở về chỗ ở riêng của mình, giữ gìn bát giới cho được trong sạchtrọn vẹn đầy đủ và thực hành thiền định.

Do Đức Bồ Tát làm việc vất vả suốt ngày, đến chiều không dùng vật thực, trong bụng đói, đến canh chót đêm phát sinh bệnh phong (gió) đau đớn như dao cắt ruột, vô cùng đau khổ. Ông phú hộ cho thuốc uống, Đức Bồ Tát nghĩ rằng: “Ta đã có đức tin quyết tâm giữ gìn bát giới uposathasīla cho được trong sạchtrọn vẹn, thà ta chịu chết chứ không để phạm giới, hoặc đứt giới”. Đức Bồ Tát chịu đựng sự đau đớn cho đến sáng ngày hôm sau, sức khoẻ yếu dần, mọi người biết không thể sống được, nên đem Đức Bồ Tát ra nằm ở ngoài hiên nhà.

Sáng hôm ấy, Đức vua Bānāṇasī ngự trên xe ngựa cùng các quan đi ngoài đường ngang qua nhà ông phú hộ, Đức Bồ Tát nằm nhìn thấy Đức vua, phát sinh tâm tham muốn trở thành Đức vua. Do phước thiện giữ gìn bát giới uposatha-sīla trong sạchtrọn vẹn trong thời gian 1 đêm ngắn ngủi ấy, sau khi chết, liền tái sinh đầu thai vào lòng bà chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Bānāṇasī. Bà Hoàng hậu thọ thai, đúng 10 tháng hạ sinh được Thái tử khôi ngô tuấn tú. Hoàng tử được đặt tên là Udayakumāra. Hoàng tử trưởng thành và theo học các bộ môn theo truyền thống Vua Chúa đều xuất sắc, văn võ song toàn... Đức Bồ Tát nhớ rõ lại tiền kiếp của mình, nên thường tự truyền dạy rằng: “Ngày nay ta được hưởng mọi sự an lạc như thế này, là do quả báu giữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn, trong thời gian ngắn, chỉ một đêm ở kiếp trước của ta”.

Khi Đức phụ vương đến tuổi già băng hà, các quan làm lễ đăng quang suy tôn Hoàng tử lên ngôi Vua để trị vì xứ Bārāṇasī. Đức vua Udaya trị vì xứ Bārāṇasī dân giàu nước mạnh, thái bình thịnh vượng. Đức vua thọ hưởng mọi sự an lạc, thần dân được an cư lạc nghiệp. Đó là quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla trong sạch và trọn vẹn trong một thời gian ngắn ngủi (một đêm) của Đức Bồ Tát từ trong kiếp trước”.

Quả báu giữ gìn bát giới uposathasīla một lần

Trích trong bộ Apadāna, Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Ekuposathākattherī([3]) kể lại chuyện tiền kiếp của Ngài, được tóm lược như sau:

Trong kinh thành Bandhumati, vào ngày rằm Đức vua Bandhumā thọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn bát giới uposathasīla trong sạch .

Ở thời ấy, tôi là người đầy tớ gái tên là Kumbhadāsī trong kinh thành Bandhumati ấy, tôi được biết Đức vua cùng các quan thọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn bát giới uposathasīla, nên tôi nghĩ rằng: “Đức vua còn bỏ ngai vàng, việc nước để thọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn bát giới uposathasīla. Chắc chắn bát giới uposathasīla ấy có quả báu tốt lành!”.

Tôi đã suy xét cuộc đời khốn khổ, nghèo nàn làm tôi tớ của mình, bằng trí tuệ đúng đắn, nên tôi phát sinh tâm hoan hỷ thọ trì bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới, rồi đã giữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn, chỉ có một lần trong giáo pháp của Đức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian. Do năng lực phước thiện thọ trì bát giới như vậy, sau khi tôi chết, thiện nghiệp giữ gìn bát giới uposathasīla cho quả tái sinh làm thiên nữ xinh đẹp nhất trong cõi Tam Thập Tam Thiên, có lâu đài nguy nga tráng lệ cao 1 do tuần, trang hoàng hết sức lộng lẫy, lúc nào cũng có 100.000 (một trăm ngàn) thiên nữ hầu hạ.

Tôi đã từng là chánh cung Hoàng hậu của Vua trời Sakka suốt 64 đời Vua trời truyền ngôi kế tiếp. Khi tôi sinh làm người, tôi cũng đã từng là chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Chuyển Luân Thánh Vương, trải qua 63 đời Vua trong cõi người.

Tôi là người rất xinh đẹp, có màu da như màu vàng, bất cứ sinh ra ở kiếp nào, tôi cũng là người cao quý trong cảnh giới ấy. Đó là quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn một lần của tôi.

Tôi có đủ các loại xe, xe ngựa, voi,... được trang hoàng lộng lẫy. Đó là quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn một lần của tôi.

Tôi có đủ các thứ vải, vải lụa, lông thú,... toàn là những thứ vải tốt. Đó là quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn một lần của tôi.

Tôi có nhiều thứ vàng, ngọc quý báu, có giá trị. Đó là quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn một lần của tôi.

Tôi có đầy đủ các thứ nước hoa thơm, đồ trang điểm quý báu. Đó là quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn một lần của tôi.

Tôi có đủ các kiểu lâu đài nguy nga và tráng lệ. Đó là quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn một lần của tôi.

Kể từ khi tôi đã thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla cho đến kiếp chót này, trải qua suốt 91 đại kiếp trái đất. Trong vòng tử sinh luân hồi suốt khoảng thời gian ấy, tôi không hề sa đọa vào 4 đường ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh). Đó là quả báu thọ trìgiữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn một lần của tôi.

Khi tôi sinh làm người, mới lên 7 tuổi, tôi xin cha mẹ đi xuất gia; sau khi tôi xuất gia được nửa tháng, tôi đã chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả Niết Bàn, đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi phiền não, đã nhổ tận gốc rễ vô minhtham ái, nên không còn dắt dẫn tái sinh kiếp lớn, kiếp nhỏ nào nữa.

Tôi đã đến xuất gia nơi Đức Phật cao thượng, thật là điều vô cùng diễm phúc cho tôi. Tôi đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, cùng với Tam minh, Tứ tuệ phân tích, 8 Pháp giải thoátLục thông.

Tôi đã hoàn thành phận sự của người nữ xuất gia, tôi đã thực hành đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật Gotama.

Nhận Xét Về Bát Giới Uposathasīla

Đối với người tại gia cư sĩ có những giới như ngũ giới, bát giới ājivaṭṭhamakasīla. 2 loại giới này có tính chất chung cho tất cả mọi người tại gia cư sĩ, không phân biệt tôn giáo, dân tộc nào, người thọ trì hoặc người không thọ trì 2 loại giới này. Hễ người nào giữ gìn 2 loại giới này được trong sạchtrọn vẹn suốt ngày và đêm cho đến trọn đời trọn kiếp thì người ấy đã tạo được thiện nghiệp; thiện nghiệp này cho quả an lạc, quả tốt lành ngay trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai, nếu thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

Người nào không giữ gìn 2 loại giới này, hoặc phạm 1 điều giới nào trong 2 loại giới này, người ấy đã tạo ác nghiệp; ác nghiệp này cho quả khổ, quả xấu ngay trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai, nếu ác nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

bát giới uposathasīla này có tính chất riêng cho những người cận sự nam, cận sự nữ nào có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, thọ trì bát giới upo-sathasīla, rồi giữ gìn bát giới uposathasīla ấy trong sạchtrọn vẹn trong khoảng thời gian hạn định từ lúc bình minh của ngày này cho đến lúc bình minh của ngày hôm sau (trọn 1 ngày 1 đêm) trong những ngày giới của mỗi tháng.

Hành giả giữ gìn bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹnthời gian ít, dù thời gian nhiều vẫn có nhiều quả báu đặc biệt hơn cả ngũ giớibát giới ājivaṭṭhamakasīla. Bởi vì, trong bát giới uposathasīla có 4 điều giới không những thuộc về giới của người tại gia cư sĩ, mà còn thuộc về giới của bậc xuất gia tu sĩ (Sadi, Tỳ khưu). 4 điều giới ấy là:

1-  Giới tránh xa sự hành dâm.

2-  Giới tránh xa sự dùng vật thức phi thời.

3-  Giới tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe cá hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.

4-  Giới tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Đó là 4 điều giới trong phần giới của vị Sadi, vị Tỳ khưu, mà quý vị cần phải giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn suốt ngày đêm, trọn cuộc đời xuất gia của mình. Nếu người cận sự nam, cận sự nữ nào thọ trì bát giới uposathasīla, trong đó có 4 điều giới hành này trong sạchtrọn vẹn, thì chắc chắn người cận sự nam, cận sự nữ ấy có được những quả báu đặc biệt của bát giới uposathasīla, tùy theo năng lực của thiện nghiệp bát giới uposathasīla ấy cho quả của chúng.



[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, phần Appamādavagga, câu chuyện Sāmavativatthu.

[2] Khuddakanikāya, quyển Jātaka, phần Aṭṭhakanipāta, tích Gaṅgāmālajātaka.

[2] Ngày giới uposathasīla được giới hạn thời gian kể từ lúc bình minh (rạng đông) của ngày này cho đến lúc bình minh của ngày hôm sau, thời gian trọn một ngày và một đêm. Nếu hành giả thọ trì bát giới chỉ có thời gian một đêm hoặc thời gian một ngày thì gọi là hành 1 nửa uposatha (upaḍḍhuposathakamma) .

[3] Khuddakanikāya, quyển Therī apadāna chuyện Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Ekuposathākattherī.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3711)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4037)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4931)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6516)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3897)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4001)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5226)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3690)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3450)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3829)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5291)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3749)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3831)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3777)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4701)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4435)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4160)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3739)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4493)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4083)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5966)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4504)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4857)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4083)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4734)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5575)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3541)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3952)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4507)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5183)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3063)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4659)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4448)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4201)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4658)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4400)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4502)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7096)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5109)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4908)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4493)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5520)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4064)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5886)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4596)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4786)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5371)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5481)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5692)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4265)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4576)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4616)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5767)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3240)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5169)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant