Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

V. Thập Giới (Dasasīla)

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 11656)
V. Thập Giới (Dasasīla)

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA

V- Thập Giới (Dasasīla)

Thập giới là thường giới của bậc xuất gia Sadi. Bậc Sadi có thập giới là thường giới và có nhiều loại giới khác, 14 pháp hành,... cần phải giữ gìn suốt ngày đêm cho được trong sạchtrọn vẹn trong phẩm hạnh Sadi.

Đối với người tại gia, cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo một cách sâu sắc, nhưng người ấy chưa có đủ duyên được xuất gia, họ tư duy rằng: “Ta chưa có đủ duyên từ bỏ nhà đi xuất gia như các bậc xuất gia (Sadi, Tỳ khưu), vì ta còn bị ràng buộc bởi gia đình, xã hội. Nay được nghỉ ngơi một thời gian ngắn, ta nên vào chùa xin thọ trì thập giới, trong suốt thời gian ở trong chùa, để có cơ hội tốt thực hành giới-định-tuệ. Bởi vì đời sống của người tại gia có nhiều ràng buộc, khó thực hành phạm hạnh được trong sạch hoàn toàn”.

Sau khi suy xét chân chính như vậy, người cận sự nam, cận sự nữ ấy đến chùa; nếu có mang theo tiền, vàng bạc, của cải quý giá, người ấy phải gửi cho người hộ Tăng trong chùa, nhờ cất giữ. Sau khi xả giới trở về nhà, người ấy đến xin nhận lại số tiền, vàng bạc, những của cải quý giá đã gửi nơi người hộ Tăng ấy.

Người cận sự nam, cận sự nữ đến đảnh lễ vị Đại đức trong chùa, bạch cho Ngài biết rõ nguyện vọng xin ở trong chùa, thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới trong suốt thời gian ở trong chùa. Kính xin Ngài từ bi tế độ.

Nghi Thức Thọ Phép Quy Y Tam BảoThọ Trì Thập Giới Của Người Tại Gia

Người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo một cách sâu sắc mới có khả năng thọ phép quy y Tam Bảothập giới của người tại gia theo tuần tự như sau:

Lễ bái Tam Bảo

Lễ sám hối Tam Bảo

Lễ sám hối Đức Phật Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ

Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.

Buddhe yo khalito doso,

Buddho khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức Phật.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật Bảo,

Cúi xin Phật Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Lễ sám hối Đức Pháp Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Dhammañca duvidhaṃ varaṃ.

Dhamme yo khalito doso,

Dhammo khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Pháp Bảo: Pháp học và pháp hành.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp Bảo,

Cúi xin Pháp Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Lễ sám hối Đức Tăng Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Saṃghañca duvidhuttamaṃ.

Saṃghe yo khalito doso,

Saṃgho khamatu taṃ mamaṃ.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Tăng Bảo: Thánh Tăngphàm Tăng.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng Bảo,

Cúi xin Tăng Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ cầu nguyện

Iminā puññakammena,

Sabbe bhayā vinassantu.

Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,

Sabbadukkhā pamuccāmi.

Do nhờ năng lực thiện tâm sám hối này,

Cầu xin mọi tai họa hãy đều tiêu diệt.

Mong chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả Niết Bàn,

Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái sinh.

Lễ xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia

Ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha dasagahaṭṭhasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.

Dutiyampi ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha dasagahaṭṭhasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.

Tatiyampi ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha dasagahaṭṭhasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.

Kính bạch Ngài Đại đức, con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảothập giới của người tại gia cho con.

Kính bạch Ngài Đại đức, con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảothập giới của người tại gia cho con, lần thứ nhì.

Kính bạch Ngài Đại đức, con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảothập giới của người tại gia cho con, lần thứ ba.

Ngài Đại đức truyền dạy rằng:

NĐĐ: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi.

(Sư hướng dẫn từng chữ, từng câu như thế nào, con hãy nên lập lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy).

Người cận sự nam, hoặc cận sự nữ thưa rằng:

CSN: Āma, Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

Kính lễ Đức Phật

Ngài Đại đức hướng dẫn đảnh lễ Đức Thế Tôn rằng:

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy. (3 lần)

Thọ phép quy y Tam Bảo

Sau khi kính lễ Đức Phật xong, Ngài Đại đức hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảo như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.

Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.

Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.

Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.

Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

NĐĐ: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

(Phép quy y Tam Bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)

CSN: Āma! Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

Thọ trì thập giới của người tại gia

Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong, tiếp theo thọ trì thập giới của người tại gia:

1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sinh.

2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

3- Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự hành dâm.

4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

5- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

6- Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự dùng vật thực phi thời.

7- Nacca gīta vādita visūkadassanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát là pháp nghịch với giới-định-tuệ.

8- Mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.

9- Uccāsayana mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

10- Jātarūpa rajata paṭiggahanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự thọ nhận vàng bạc, châu báu.

Ngài Đại đức khuyên dạy rằng:

NĐĐ: Tisaraṇena saha dasagahaṭṭhasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā, appamādena sampādetha.

(Thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia xong rồi, con hãy nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh).

Người cận sự nam, hoặc người cận sự nữ bạch rằng:

CSN: Āma! Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

NĐĐ: Sīlena sugatiṃ yanti.

Sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti.

Tasmā sīlaṃ visodhaye.

Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới,

Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch.

CSN: Sādhu! Sādhu!

(Lành thay! Lành thay)!

Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia xong rồi, tiếp theo đọc bài kệ khẳng định khôngquy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nương nhờ nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm tăng đức tin cho vững chắc, như sau:

Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Buddho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Phật Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Pháp Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Tăng Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảothập giới của người tại gia.

Phần Giải Thích

Thập giới gồm có 10 điều giới, từ điều giới thứ nhất đến điều giới thứ 6 và điều giới 9 đã được giải thích trong phần ngũ giớibát giới uposathasīla.

Trong phần sau sẽ giải thích điều giới thứ 7: Tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát là pháp nghịch với giới-định-tuệ; điều giới thứ 8: Tránh xa sự đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái; điều giới thứ 10: Tránh xa sự thọ nhận vàng bạc, châu báu.

Điều Giới Thứ 7

Nacca gīta vādita visūkadassanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Tự mình nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn; hoặc sai bảo người khác nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn do bởi tâm tham áinhân sinh khổ, nghịch với pháp hành giới-định-tuệ không dẫn đến giải thoát khổ trong Phật giáo. Đó là điều nên tránh xa, tự mình không nên hành động, cũng không nên sai bảo người khác hành động như vậy. Do đó, trở thành một điều giới riêng biệt mà hành giả phải tránh xa để khỏi phạm điều giới.

Điều Giới Thứ 8

Mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Đeo tràng hoa, thoa phấn son, xức nước hoa, tự mình làm đẹp nhân sinh tâm tham ái. Đó là điều nên tránh xa. Do đó trở thành một điều giới riêng biệt mà hành giả phải nên tránh xa để khỏi phạm điều giới.

Điều giới thứ 7: “Nacca gīta vādita...” và điều giới thứ 8: “Mālāgandha vilepana...” gom chung thành 1 điều giới trong bát giới uposathasīlacửu giới uposathasīla, bởi vì trong 2 điều giới này, mỗi sự việc tuy có tính chất khác nhau, nhưng cả 2 điều giới đều có chung sắc trần thanh trần đáng hài lòng thuộc về kāmaguṇa: Đối tượng dục giới ràng buộc, dễ phát sinh tâm tham ái.

Trong thập giới, điều giới thứ 7: “Nacca gīta vādita...” tự mình nhảy múa, ca hát,... và sai bảo người khác nhảy múa, ca hát,... để xem, để nghe thuộc về thân hành ác và khẩu hành ác. Do đó, trở thành một điều giới nên tránh xa riêng biệt.

Điều giới thứ 8: “Mālāgandha vilepana...” đeo tràng hoa, thoa phấn son, xức nước hoa,... tự mình làm đẹp là nhân sinh tâm tham ái. Do đó, trở thành một điều giới nên tránh xa riêng biệt.

Điều Giới Thứ 10

Jātarūpa rajata paṭiggahanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Jātarūpa: Vàng ròng, gồm tất cả những đồ trang sức làm bằng vàng như dây vòng vàng, nhẫn vàng,...

─ Rajata: Bạc, gồm tất cả những đồ làm bằng bạc, tiền bạc bằng đồng, bằng bạc, bằng giấy, bằng ngân phiếu,...

─ Paṭiggahanā: Nhận lấy, đụng chạm đến vàng bạc, tiền bạc,... bằng 5 cách:

Uggaha: Tự mình thọ nhận, đụng chạm đến vàng, tiền bạc, ngân phiếu,...

Uggahāpana: Sai bảo người khác thọ nhận vàng, tiền bạc, ngân phiếu,... cất giữ cho mình.

Upanikkhittasādayana: Thí chủ đem vàng, tiền bạc, ngân phiếu,... dâng cúng dường đến vị Tỳ khưu để mua sắm y mặc, mua dép mang, mua vé xe, vé tàu, vé máy bay,... Vị Tỳ khưu ấy không thọ nhận bằng thân hoặc bằng khẩu thọ nhận bằng tâm hoan hỷ số vàng, tiền bạc, ngân phiếu,... ấy dành cho mình.

Dubbicāraṇa: Người thí chủ hiểu biết giới luật của Tỳ khưu, cho nên không trực tiếp dâng vàng, tiền bạc, ngân phiếu,... đến vị Tỳ khưu ấy, mà đem gửi cho người hộ Tăng, nhờ người hộ Tăng ấy mua những thứ vật dụng cần thiết dâng đến vị Tỳ khưu ấy (đúng theo giới luật của Tỳ khưu mà Sadi cũng nên hành theo).

Người thí chủ tìm đến vị Tỳ khưu ấy bạch rằng:

─ Kính bạch Ngài Đại đức, con có gởi một số tài chánh cho người hộ Tăng, nhờ người ấy mua sắm những thứ vật dụng mà Ngài cần dùng. Khi Ngài cần thứ vật dụng nào, kính xin mời Ngài đến gặp người hộ Tăng, nhờ người ấy đi tìm kiếm thứ vật dụng ấy, để dâng đến Ngài (đúng theo giới luật của Tỳ khưu mà Sadi cũng nên hành theo).

Vị Tỳ khưu tìm đến người hộ Tăng hỏi để biết số tiền mà thí chủ dâng cho Ngài bao nhiêu, hoặc sai bảo người hộ Tăng bỏ vào hộp cất giữ, hoặc sai bảo người hộ Tăng lấy tiền từ trong hộp ra mua sắm những thứ vật dụng này, thứ vật dụng kia (như vậy, không đúng theo giới luật của Tỳ khưu).

Āmasana: Vị Tỳ khưu không được phép hoan hỷ đụng chạm đến vàng, tiền bạc, ngân phiếu,... của người khác.

Đó là 5 cách mà hành giả thọ trì điều giới thứ 10 cần phải tránh xa để giữ gìn điều giới ấy được trong sạchtrọn vẹn.

Người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo một cách sâu sắc mới thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia.

Để giữ gìn điều giới thứ 10: “Tránh xa thọ nhận vàng bạc, tiền bạc, ngân phiếu...” trong suốt khoảng thời gian phát nguyện thọ trì thập giới. Nếu người cận sự nam hoặc người cận sự nữmang theo vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... thì trước khi xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia, người ấy nên đem số vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... gưỉ người hộ Tăng đáng tin cậy trong chùa, rồi mới xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia.

Sau khi người cận sự nam, cận sự nữ đã thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia xong rồi, từ đó không thọ nhận vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... từ một người nào khác, kể cả người trong gia đình, để giữ gìn điều giới thứ 10 cho được trong sạchtrọn vẹn.

Thập giới của người tại gia với thập giới của bậc xuất gia Sadi khác nhau như thế nào?

* Đối với người tại gia, trước khi đi vào chùa để thọ trì thập giới của người tại gia, người cận sự nam, cận sự nữ không phải từ bỏ gia đình, không phải xả bỏ tất cả của cải, vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... trong nhà, trong ngân hàng,... Khi đi vào chùa, nếu người cận sự nam, cận sự nữmang theo vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... thì cần phải gửi người hộ Tăng tin cậy trong chùa xong, mới xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì thập giới của người tại gia. Sau khi đã thọ thập giới của người tại gia xong, từ đó người ấy không thọ nhận vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... từ người khác, dù người ấy là người thân trong gia đình (cha mẹ, anh, chị, em, con cái,...) cũng không nên thọ nhận, để giữ gìn thập giới cho được trong sạchtrọn vẹn, làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ.

* Đối với bậc xuất gia, trước khi đi vào chùa để làm lễ xuất gia trở thành Sadi trong Phật giáo, người cận sự nam từ bỏ tất cả của cải, vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... của mình. Khi đi vào chùa, người cận sự nam giới tử xin cạo tóc, làm lễ xuất gia trở thành Sadi trong Phật giáo. Sadi có nhiều loại giới, trong đó có thập giới của bậc xuất gia Sadi là thường giới, vị Sadi ấy phải giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn suốt cuộc đời phạm hạnh xuất gia Sadi của mình.

Thập giới của người tại gia với thập giới của bậc xuất gia Sadi khác nhau như vậy.

Sau một thời gian phát nguyện thọ trì thập giới của người tại gia, người cận sự nam hoặc người cận sự nữ xin xả thập giới trở lại ngũ giới là thường giới và 8 giới 8 ājīvaṭṭhamakasīla của người tại gia, trở lại cuộc sống sinh hoạt bình thường của người tại gia.

Nhận xét về thập giới của người tại gia

Thập giới vốn là thường giới của bậc xuất gia Sadi, trong thập giới có điều giới thứ 10: “Tránh xa thọ nhận vàng bạc, châu báu, tiền bạc,...” bởi vì bậc xuất gia không liên quan đến vàng bạc, châu báu, tiền bạc,...; còn đối với người tại gia, vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... là một nhu cầu cần thiết trong cuộc sống mà không thể thiếu được. Do đó, người tại gia còn bị ràng buộc bởi của cải, vàng bạc, châu báu, tiền bạc,... mà khó có thể từ bỏ, khó xả bỏ hết thảy.

Người cận sự nam hoặc người cận sự nữ nào có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo một cách sâu sắc mới có khả năng thọ trì thập giới của người tại gia. Về hình thức bên ngoài tuy người ấy chưa phải là bậc xuất gia Sadi, nhưng nội tâm bên trong, người ấy hành giới y như bậc xuất gia Sadi trong suốt thời gian phát nguyện thọ trì thập giới của người tại gia. Như vậy, quả báu thập giới của người ấy chắc chắn cao quý hơn bát giới uposathasīla và hơn cửu giới uposathasīla.

Giới Bị Chấm DứtGiới Không Bị Chấm Dứt (Pariyantasīla Và Apariyantasīla)

Trong bộ Paṭisambhidāmagga trình bày giới có 2 loại:

1- Giới bị chấm dứt (pariyantasīla).

2- Giới không bị chấm dứt (apariyantasīla).

1- Giới bị chấm dứt (pariyantasīla)

─ Giới bị chấm dứttham muốn lợi lộc (của cải) (lābhapariyantasīla).

Giới bị chấm dứtbảo vệ bộ hạ (danh vọng) (yasapariyantasīla).

Giới bị chấm dứtbảo vệ thân quyến (ñātipariyantasīla).

Giới bị chấm dứtbảo vệ các bộ phận trong thân (aṅgapariyantasīla).

Giới bị chấm dứtbảo vệ sinh mạng (jīvitapariyantasīla).

Thế nào gọi là giới bị chấm dứttham muốn lợi lộc (của cải)?

Trong đời này, một số người phạm giớitham muốn lợi lộc (của cải) là nhân, là duyên, là nguồn gốc.

Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị đứt) vì tham muốn lợi lộc.

Thế nào gọi là giới bị chấm dứtbảo vệ bộ hạ (danh vọng)?

Trong đời này, một số người phạm giới vì muốn bảo vệ bộ hạ của mình (danh vọng của mình) là nhân, là duyên, là nguồn gốc.

Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị đứt) vì bảo vệ bộ hạ của mình.

Thế nào gọi là giới bị chấm dứtbảo vệ thân quyến?

Trong đời này, một số người phạm giới vì muốn bảo vệ thân quyến của mình là nhân là duyên, là nguồn gốc.

Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị đứt) vì bảo vệ thân quyến của mình.

Thế nào gọi là giới bị chấm dứtbảo vệ các bộ phận trong thân?

Trong đời này, một số người phạm giới vì muốn bảo vệ các bộ phận trong thân của mình là nhân, là duyên, là nguồn gốc.

Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị đứt) vì bảo vệ các bộ phận trong thân của mình.

Thế nào gọi là giới bị chấm dứtbảo vệ sinh mạng?

Trong đời này, một số người phạm giới vì muốn bảo vệ sinh mạng của mình là nhân, là duyên, là nguồn gốc.

Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị đứt) vì bảo vệ sinh mạng của mình.

Vì vậy, cho nên giới bị đứt, giới bị thủng, giới bị đốm, giới bị đứt lan, không tự chủ - làm tôi tớ của tham ái, không được bậc thiện trí tán dương ca tụng, bị tà kiếntham ái khống chế, không thể làm nền tảng để phát sinh tâm định (cận định, an định), làm cho thân tâm nóng nảy khó chịu, không làm cho tâm thoải mái, không làm cho tâm hoan hỷ, không làm cho thân tâm an tịnh, không làm cho thân tâm an lạc, không có tâm định, không có trí tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp, chắc chắn không phát sinh trí tuệ thiền tuệ nhàm chán tử sinh luân hồi, không ly dục trong tử sinh luân hồi, không diệt được phiền não, không làm vắng lặng được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn.

Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị đứt).

2- Giới không bị chấm dứt (apariyantasīla)

─ Giới không bị chấm dứtlợi lộc (của cải).

─ Giới không bị chấm dứt vì bộ hạ (danh vọng).

─ Giới không bị chấm dứtthân quyến.

─ Giới không bị chấm dứt vì các bộ phận trong thân.

─ Giới không bị chấm dứt vì sinh mạng.

Thế nào gọi là giới không bị chấm dứtlợi lộc (của cải)?

Trong đời này, một số người không để phạm giớilợi lộc (của cải) là nhân, là duyên, là nguồn gốc; số người ấy cũng sẽ không phạm giớilợi lộc.

Đó gọi là giới không bị chấm dứtlợi lộc.

Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt vì bộ hạ (danh vọng)?

Trong đời này, một số người không để phạm giới vì bộ hạ của mình (danh vọng của mình) là nhân, là duyên, là nguồn gốc; số người ấy cũng sẽ không phạm giới vì bộ hạ của mình.

Đó gọi là giới không bị chấm dứt vì bộ hạ của mình.

Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt vì thân quyến?

Trong đời này, một số người không để phạm giớithân quyến của mình là nhân, là duyên, là nguồn gốc; số người ấy cũng sẽ không phạm giớithân quyến của mình.

Đó gọi là giới không bị chấm dứtthân quyến của mình.

Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt vì các bộ phận trong thân?

Trong đời này, một số người không để phạm giới vì các bộ phận trong thân của mình là nhân, là duyên, là nguồn gốc; số người ấy cũng sẽ không phạm giới vì các bộ phận trong thân của mình.

Đó gọi là giới không bị chấm dứt vì các bộ phận trong thân của mình.

Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt vì sinh mạng?

Trong đời này, một số người không để phạm giới vì sinh mạng của mình là nhân, là duyên, là nguồn gốc; số người ấy cũng sẽ không phạm giới vì sinh mạng của mình.

Đó gọi là giới không bị chấm dứt vì sinh mạng của mình.

Vì vậy, cho nên giới không bị đứt, giới không bị thủng, giới không bị đốm, giới không bị đứt lan, tự chủ - không làm tôi tớ của tham ái, được bậc thiện trí tán dương ca tụng, tà kiếntham ái không thể khống chế được, có thể làm nền tảng để phát sinh tâm định (cận định, an định), làm cho thân tâm mát mẻ dễ chịu, làm cho tâm thoải mái, phát sinh tâm hoan hỷ, làm cho thân tâm an tịnh, làm cho thân tâm được an lạc, có tâm định trong sáng, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp, chắc chắn phát sinh trí tuệ thiền tuệ nhàm chán tử sinh luân hồi, tâm ly dục trong tử sinh luân hồi, để dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, để làm vắng lặng mọi phiền não.

Đó gọi là giới không bị chấm dứt.

(Tóm lược trong bộ Paṭisambhidāmagga)

Giải thích

1- Giới bị chấm dứt

2- Giới không bị chấm dứt

1- Giới bị chấm dứt nghĩa là phạm giới, giới bị đứt, giới bị thủng, giới bị đốm, giới bị đứt lan do nguyên nhânlợi lộc, vì nhóm bộ hạ, vì người thân quyến, vì bộ phận trong thân thể, vì sinh mạng của mình; do nguyên nhân nào đó mà người ấy bị phạm giới, không giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn như trước nữa.

2- Giới không bị chấm dứt nghĩa là không phạm giới, giới không bị đứt, giới không bị thủng, giới không bị đốm, giới không bị đứt lan dù bất cứ nguyền nhân nào như lợi lộc, nhóm bộ hạ, người thân quyến, bộ phận trong thân thể, sinh mạng của mình; mà vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn.

Ví dụ:

 

1- Nguyên nhânlợi lộc

a) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, nếu khi thấy món lợi lộc nhỏ thì người ấy không phát sinh tâm tham, không quan tâm đến món lợi lộc nhỏ ấy, người ấy vẫn giữ giới của mình được trong sạchtrọn vẹn. Nhưng nếu khi thấy món lợi lộc lớn, mà không ai thấy, không ai hay biết, cũng không ai nghi ngờ, thì người ấy mới phát sinh tâm tham, quan tâm đến món lợi lộc lớn ấy, rồi dẫn đến phạm giới, để chiếm đoạt món lợi lộc lớn ấy về cho mình.

 Như vậy gọi là giới bị chấm dứt, giới của người ấy bị phạm do nguyên nhânlợi lộc.

b) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn dù thấy món lợi lộc lớn mà không ai thấy, không ai hay biết, cũng không ai nghi ngờ; người ấy cũng không phát sinh tâm tham, không quan tâm đến món lợi lộc lớn ấy. Người ấy vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, không bị phạm điều giới nào.

Như vậy gọi là giới không bị chấm dứt, giới của người ấy không bị phạm do nguyên nhânlợi lộc.

2- Nguyên nhân vì nhóm bộ hạ

a) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, nếu thấy một người không thân, không phải là bộ hạ của mình có hành vi phạm pháp, thì người ấy vẫn giữ thái độ thản nhiên. Nhưng nếu thấy một người thân là bộ hạ của mình có hành vi phạm pháp, thì người ấy phát sinh tâm thiên vị vì thương, nên đứng ra là chứng gian (phạm điều giới nói dối) để giúp cho người thân, bộ hạ của mình tránh khỏi bị tù tội.

Như vậy gọi là giới bị chấm dứt, giới của người ấy bị phạm do nguyên nhânbảo vệ nhóm bộ hạ của mình.

b) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, dù thấy người thân, bộ hạ của mình có hành vi phạm pháp, người ấy không bao che cho bộ hạ của mình để tránh khỏi bị tù tội, mà vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn.

Như vậy gọi là giới không bị chấm dứt, giới của người ấy không bị phạm do nguyên nhânbảo vệ nhóm bộ hạ của mình.

3- Nguyên nhân vì người thân quyến

a) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, nếu thấy một người không quen có hành vi phạm pháp, thì người ấy vẫn giữ thái độ thản nhiên. Nhưng nếu thấy một người thân quyến của mình có hành vi phạm pháp, thì người ấy phát sinh tâm thiên vị vì thương, nên đứng ra là chứng gian (phạm điều giới nói dối) để giúp cho người thân quyến của mình tránh khỏi bị tù tội.

Như vậy gọi là giới bị chấm dứt, giới của người ấy bị phạm do nguyên nhânbảo vệ người thân quyến.

 

b) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, dù thấy người thân quyến của mình có hành vi phạm pháp, người ấy không bao che cho người thân quyến của mình để tránh khỏi bị tù tội, mà vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn.

Như vậy gọi là giới không bị chấm dứt, giới của người ấy không bị phạm do nguyên nhânbảo vệ người thân quyến.

4- Nguyên nhân vì bộ phận trong thân thể

a) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, nếu người ấy bị thương nhẹ, thì dùng thuốc có sẵn để chữa trị vết thương. Nhưng nếu khi người ấy bị thương nặng gãy cánh tay (hoặc bị gãy chân) mà vị thầy thuốc hướng dẫn cần phải giết một con gà quạ (đen) trộn chung với các vị thuốc đắp vào chỗ gãy xương ấy mới có thể lành, khỏi bị thương tật. Vì chấp nhận làm theo lời hướng dẫn của vị thầy thuốc, nên bệnh nhân phải giết con gà quạ (phạm điều giới sát sinh) để chữa trị chỗ xương bị gãy cho lành lại.

Như vậy gọi là giới bị chấm dứt, giới của người ấy bị phạm do nguyên nhânbảo vệ bộ phận trong thân thể.

b) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, dù người ấy bị thương nặng gãy cánh tay (hoặc bị gãy chân) và đã được vị thầy thuốc hướng dẫn cần phải giết một con gà quạ (đen) trộn chung với các vị thuốc đắp vào chỗ gãy xương ấy mới có thể lành, khỏi bị thương tật. Nhưng người bệnh nhân không chấp nhận làm theo lời hướng dẫn của thầy thuốc, không chịu giết con gà quạ để làm thuốc. Người bệnh nhân thà chịu hy sinh chặt cánh tay (hoặc chân), chứ không chịu phạm điều giới sát sinh, giết chết con gà quạ để làm thuốc.

Như vậy gọi là giới không bị chấm dứt, giới của người ấy không bị phạm do nguyên nhânbảo vệ bộ phận trong thân thể.

5- Nguyên nhân vì sinh mạng

a) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, nếu khi bị con vật gì cắn, thì người ấy dùng thuốc để chữa trị . Nhưng nếu khi bị con trăn quấn siết chặt vào thân mình làm cho đau đớn, thì người ấy dùng khí giới giết con trăn ấy (phạm điều giới sát sinh) để cứu sinh mạng của mình.

Như vậy, gọi là giới bị chấm dứt, giới của người ấy bị phạm do nguyên nhânbảo vệ sinh mạng của mình.

b) Một người giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, dù bị con trăn quấn siết chặt vào thân mình làm cho đau đớn kinh khủng, người ấy có khả năng giết chết con trăn ấy, nhưng vì có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, hiểu biếttai hại của sự phạm điều giới sát sinh và hiểu rõ quả báu của giới tránh xa sự sát sinh, nên người ấy có sự nhận thức đúng đắn rằng: Quyết tâm giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn, thà chịu hy sinh sinh mạng, để bảo vệ giới của mình được hoàn toàn trong sạchtrọn vẹn.

Như vậy gọi là giới không bị chấm dứt, giới của người ấy không bị phạm do nguyên nhânbảo vệ sinh mạng của mình.

Phân Tích 4 Tính Chất Của Giới

Trong ngũ giới, bát giới uposathasīla, cửu giới uposathasīla, thập giới, v.v.. có 4 tính chất:

1- Giới bị đứt và giới không bị đứt.

2- Giới bị thủng và giới không bị thủng.

3- Giới bị đốm và giới không bị đốm.

4- Giới bị đứt lan và giới không bị đứt lan.

1- Thế nào gọi là giới bị đứt (khaṇdha) và giới không bị đứt (akhaṇdha)?

Trong ngũ giớibát giới,... nếu hành giả phạm điều giới đầu và điều giới cuối, 2 điều giới này bị đứt rời ra, thì gọi là giới bị đứt; ví như tấm vải có phần đầu và phần cuối bị rách rời ra.

* Ví dụ: Ngũ giới gồm có 5 điều giới.

1 - 2 - 3 - 4 - 5

Nếu phạm điều giới thứ nhất và điều giới thứ 5 (2 điều giới này bị đứt rời ra) thì gọi là ngũ giới bị đứt.

* Ví dụ: Bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới.

1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

Nếu phạm điều giới thứ nhất và điều giới thứ 8 (2 điều giới này bị đứt rời ra) thì gọi là bát giới bị đứt.

hành giả thọ trì ngũ giới, bát giới,... rồi giữ gìn điều giới đầu và điều giới cuối được trong sạchtrọn vẹn, thì gọi là giới không bị đứt.

2- Thế nào gọi là giới bị thủng (chidda) và giới không bị thủng (acchidda)?

Trong ngũ giớibát giới,..., ngoại trừ điều giới đầu và điều giới cuối ra, nếu hành giả phạm một trong những điều giới còn lại ở khoảng giữa, thì gọi là giới bị thủng; ví như tấm vải bị thủng ở giữa.

* Ví dụ: Ngũ giới

1 - 2 - 3 - 4 - 5

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5

Nếu phạm một trong những điều giới thứ 2, điều giới thứ 3, điều giới thứ 4, thì gọi là ngũ giới bị thủng.

* Ví dụ: Bát giới uposathasīla gồm có 8 điều giới.

1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

v.v…

Nếu phạm một trong những điều giới thứ 2, điều giới thứ 3, điều giới thứ 4, điều giới thứ 5, điều giới thứ 6, điều giới thứ 7, thì gọi là bát giới bị thủng.

hành giả thọ trì ngũ giới, bát giới,... rồi giữ gìn những điều giới ở khoảng giữa của điều giới đầu và điều giới cuối được trong sạchtrọn vẹn, thì gọi là giới không bị thủng.

3- Thế nào gọi là giới bị đốm (sabala) và giới không bị đốm (asabala)?

Trong ngũ giới, bát giới,..., ngoại trừ điều giới đầu và điều giới cuối. Nếu hành giả phạm các điều giới còn lại cách khoảng nhau, thì gọi là giới bị đốm; ví như con bò bị đốm từng chấm, từng chấm cách khoảng nhau.

* Ví dụ: Ngũ giới.

1 - 2 - 3 - 4 - 5

Những điều giới thứ nhất, điều giới thứ 3, điều giới thứ 5 được giữ gìn trong sạch; nếu phạm điều giới thứ 2 và điều giới thứ 4 cách khoảng nhau, thì gọi là ngũ giới bị đốm.

* Ví dụ: Bát giới.

1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

Những điều giới thứ nhất, điều giới thứ 3, điều giới thứ 5, điều giới thứ 7 và điều giới thứ 8 được giữ gìn trong sạch; nếu phạm điều giới thứ 2, điều giới thứ 4 và điều giới thứ 6 cách khoảng nhau, thì gọi là bát giới bị đốm.

hành giả thọ trì ngũ giới, bát giới,... rồi giữ gìn những điều giới ở phần giữa của điều giới đầu và điều giới cuối được trong sạchtrọn vẹn, không để bị phạm điều giới cách khoảng nhau, thì gọi là giới không bị đốm.

4- Thế nào gọi là giới bị đứt lan (kammāsa) và giới không bị đứt lan (akammāsa)?

Trong ngũ giới, bát giới,..., nếu hành giả phạm những điều giới liền theo với nhau, thì gọi là giới bị đứt lan; ví như con bò có từng vệt vá.

* Ví dụ: Ngũ giới.

 1 - 2 - 3 - 4 - 5

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5

Nếu phạm điều giới thứ 2 và điều giới thứ 3 liền theo với nhau, hoặc phạm điều giới thứ 3 và điều giới thứ 4 liền theo với nhau, thì gọi là ngũ giới bị đứt lan.

* Ví dụ: Bát giới.

 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

 

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

Hoặc: 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8

v.v…

Nếu phạm điều giới thứ 2 và điều giới thứ 3, hoặc điều giới thứ 3 và điều giới thứ 4, hoặc điều giới thứ 4 và điều giới thứ 5, hoặc điều giới thứ 6 và điều giới thứ 7 liền theo với nhau, thì gọi là bát giới bị đứt lan. Hoặc nếu phạm điều giới thứ 2, điều giới thứ 3, điều giới thứ 4; hoặc điều giới thứ 5, điều giới thứ 6, điều giới thứ 7 liền theo với nhau, thì gọi là bát giới bị đứt lan. Hoặc nếu phạm điều giới thứ 2, điều giới thứ 3, điều giới thứ 4, điều giới thứ 5 liền theo với nhau, thì gọi là bát giới bị đứt lan. Hoặc nếu phạm điều giới thứ 4, điều giới thứ 5, điều giới thứ 6, điều giới thứ 7; liền theo với nhau, thì gọi là bát giới bị đứt lan. Hoặc nếu phạm điều giới thứ 2, điều giới thứ 3, điều giới thứ 4, điều giới thứ 5, điều giới thứ 6 liền theo với nhau, thì gọi là bát giới bị đứt lan. Hoặc nếu phạm điều giới thứ 3, điều giới thứ 4, điều giới thứ 5, điều giới thứ 6, điều giới thứ 7 liền theo với nhau, thì gọi là bát giới bị đứt lan. V.v…

hành giả thọ trì ngũ giới, bát giới,... rồi giữ gìn những điều giới ở phần giữa của điều giới đầu và điều giới cuối được trong sạchtrọn vẹn, không phạm các điều giới liền theo với nhau, thì gọi là giới không bị đứt lan.

Giải Thích 4 Tính Chất Phạm Ngũ Giới

* Ví dụ 1: Giới bị đứt (phạm điều giới đầu và điều giới cuối).

Một người sau khi đã thọ trì ngũ giới, vì tính dể duôi, không biết hổ thẹnghê sợ tội lỗi, nên giết con gà để ăn nhậu (phạm điều giới đầu “sát sinh”. Khi ăn thịt gà, người ấy còn uống rượu (phạm điều giới cuối “uống rượu”).

Như vậy, người ấy có ngũ giới bị đứt, bởi vì phạm điều giới thứ nhất “sát sinh” và điều giới thứ 5 “uống rượu”.

* Ví dụ 2: Giới bị thủng (phạm điều giới ở giữa).

Một người sau khi đã thọ trì ngũ giới, vì tính dể duôi, không biết hổ thẹnghê sợ tội lỗi, nên nói dối (phạm điều giới thứ 4 “nói dối” ở giữa ngũ giới).

Như vậy, người ấy có ngũ giới bị thủng, bởi vì phạm điều giới thứ 4 “nói dối” ở giữa.

* Ví dụ 3: Giới bị đốm (phạm những điều giới cách khoảng).

Một người sau khi đã thọ trì ngũ giới, vì tính dể duôi, không biết hổ thẹnghê sợ tội lỗi, nên trộm cắp tiền bạc của người khác (phạm điều giới thứ 2 “trộm cắp”). Khi bị bắt, bị điều tra xét hỏi, người ấy nói dối rằng: “Tôi không trộm cắp tiền bạc của người khác” (phạm điều giới thứ 4 “nói dối”).

Như vậy, người ấy có ngũ giới bị đốm, bởi vì phạm điều giới thứ 2 “trộm cắp” và điều giới thứ 4 “nói dối”.

 

* Ví dụ 4: Giới bị đứt lan (phạm những điều giới liền theo với nhau).

Một người sau khi đã thọ trì ngũ giới, vì tính dể duôi, không biết hổ thẹnghê sợ tội lỗi, nên hành dâm với vợ (hoặc chồng) của người khác (phạm điều giới thứ 3 “tà dâm”). Khi bị bắt, bị điều tra xét hỏi, người ấy nói dối rằng: “Tôi không hành dâm với vợ (hoặc chồng) của người khác” (phạm điều giới thứ 4 “nói dối”).

Như vậy, người ấy có ngũ giới bị đứt lan, bởi vì phạm điều giới thứ 3 “tà dâm” và điều giới thứ 4 “nói dối”.

Giới Với Sinh Mạng

Bậc thiện trí dám hy sinh của cải tiền bạc, để bảo vệ các bộ phận trong thân thể; dám hy sinh cả của cải tiền bạc lẫn bộ phận trong thân thể, để bảo vệ sinh mạng; và dám hy sinh của cải tiền bạc, các bộ phận trong thân thể và sinh mạng, để bảo vệ giới.

Xét thấy rằng: Tuy của cải tiền bạc trong đời rất cần thiết đối với sự sống của con người, của cải tiền bạc thuộc về của cải bên ngoài thân mình. Nếu đem của cải tiền bạc so với các bộ phận trong thân thể, thì các bộ phận trong thân thể quý hơn của cải tiền bạc. Cho nên, khi có bộ phận nào trong thân thể bị thương, bậc thiện trí dám hy sinh đem của cải tiền bạc để chữa trị cho đến khi khỏi hẳn, dù phải tốn kém bao nhiêu cũng không tiếc.

Khi người bị lâm bệnh nặng, nếu bác sĩ khuyên rằng: “Phải nên cưa tay, cưa chân, hoặc mổ cắt một phần bộ phận nào trong thân,..., của bệnh nhân, thì mới có thể cứu sống bệnh nhân được”.

bảo vệ sinh mạng, người bệnh nhân phải hy sinh bộ phận nào trong thân thể, dù bộ phận ấy cũng quan trọng trong thân thể.

Trong cuộc sống bậc thiện trí gặp phải vấn đề nan giải, nếu bảo vệ sinh mạng thì phải phạm giới. Nếu giữ gìn giới cho được trong sạchtrọn vẹn thì phải hy sinh sinh mạng.

Trong trường hợp này, bậc thiện trí quyết định hy sinh sinh mạng, để bảo vệ giữ gìn giới cho được trong sạchtrọn vẹn. Bởi vì, bậc thiện trí suy xét đúng đắn rằng:

“Nếu hôm nay ta chịu phá giới để bảo vệ duy trì sinh mạng, thì sinh mạng này cũng không thể duy trì lâu theo ý muốn của ta được, chắc chắn một ngày nào đó ta cũng phải chết, từ bỏ sinh mạng này, mà khi ấy giới của ta không được trong sạch, thì chắc chắn khó tránh khỏi tai hoạ tái sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh). Nếu hôm nay, ta chịu hy sinh sinh mạng, để bảo vệ giữ gìn giới của ta cho được trong sạchtrọn vẹn, thì sau khi chết, do nhờ giới trong sạchtrọn vẹnthiện nghiệp cao quý cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới. Nếu tái sinh làm người, thì sẽ làm người cao quý, có trí tuệ sáng suốt, hưởng được nhiều sự an lạc trong cõi người. Nếu tái sinh làm vị thiên nam (hoặc vị thiên nữ) trong cõi trời dục giới nào, thì sẽ là vị thiên nam (hoặc thiên nữ) cao quý trong cõi trời dục giới ấy”.

Cho nên, hy sinh sinh mạng để bảo vệ, giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn, đó là điều cao quý, bởi vì, thiện nghiệp giữ gìn giới trong sạchtrọn vẹn cho quả báu an lạc trong nhiều kiếp vị lai.

Tích những bậc Thánh dám hy sinh sinh mạng để giữ gìn giới trong sạch

Ngài Đại đức hành đạo tại khu rừng([1])

Thời quá khứ, một Ngài Đại đức đang hành đạo trong khu rừng lớn tên Mahāvattani (xứ Srilankā). Một bọn cướp gặp Ngài, chúng bắt Ngài, cột trói Ngài bằng một sợi dây trong rừng, rồi để Ngài nằm nơi ấy. Ngài Đại đức không dám vùng vẫy sợ làm đứt sợi dây còn tươi, sẽ bị phạm điều giới pācittiya mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến tất cả chư Tỳ khưu. Ngài quyết định hy sinh sinh mạng để bảo vệ giới, nên nhẫn nại chịu đựng, đồng thời thực hành thiền tuệ đến ngày thứ 7, Ngài chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ bậc Thánh Nhập Lưu cho đến bậc Thánh Bất Lai rồi Ngài chết tại nơi đó. Sau khi chết, do nhờ bậc thiền hữu sắc - sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới theo bậc thiền sở đắc của Ngài.

Ngài Đại đức xứ Srilankā(1)

Ngài Đại đức xứ Srilankā đang hành đạo trong rừng; một bọn cướp gặp Ngài, chúng bắt Ngài, cột trói Ngài bằng một sợi dây trong rừng, rồi để Ngài nằm nơi ấy. Trận hỏa hoạn cháy rừng cháy lan đến chỗ Ngài nằm, Ngài không dám vùng dậy chạy thoát thân, sợ làm đứt sợi dây còn tươi, sẽ bị phạm điều giới pācittiya mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến tất cả chư Tỳ khưu. Ngài quyết định hy sinh sinh mạng để bảo vệ giới, nên nhẫn nại chịu đựng, đồng thời thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, trở thành bậc Thánh Arahán, đồng thời khi ấy ngọn lửa lan đến thiêu cháy Ngài. Ngài tịch diệt Niết Bàn gọi là “Jīvitasamasīsī: Chứng đắc Arahán đồng thời tịch diệt Niết Bàn”.

Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta lâm bệnh

Một thuở nọ, Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta và Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna cùng nhau ở trong một khu rừng. Một hôm Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta lâm bệnh phong đau đớn khổ thân. Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna đến hộ độ phục vụ Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta.

Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna bèn hỏi rằng:

─ Thưa pháp huynh, ngày xưa pháp huynh bị căn bệnh như thế này, pháp huynh đã chữa trị khỏi bệnh bằng phương thuốc nào?

 

Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta trả lời rằng:

─ Này pháp đệ, ngày xưa lúc còn tại gia, mẹ tôi làm món bơ trộn với mật ong, đường nấu với sữa tươi nguyên chất không lẫn với nước thành món sữa pāyāsa, tôi đã dùng món ấy, nên trị khỏi được bệnh này.

Nghe như vậy, Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna thưa rằng:

─ Do nhờ phước thiện của pháp huynh hoặc pháp đệ, ngày mai chúng ta sẽ có được món sữa pāyāsa thì tốt biết dường nào!

Hai Ngài Đại Trưởng Lão nói chuyện với nhau, chư thiên cội cây nghe rõ câu chuyện của hai Ngài, nên nghĩ rằng: Ngày mai ta sẽ giúp làm cho phát sinh món sữa pāyāsa đến hai Ngài”.

Chư thiên hiện đến gia đình thường xuyên hộ độ hai Ngài Đại Trưởng Lão, chư thiên ấy làm cho đứa con trai lớn trong nhà nóng mê sảng nói rằng:

─ Làm món sữa pāyāsa dâng cúng đến Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna trong ngày mai thì bệnh con mới khỏi.

Cha mẹ bảo rằng:

─ Con không nói, thì gia đình chúng ta cũng thường hộ độ hai Ngài Đại Trưởng Lão.

Hôm ấy, gia đình thường hộ độ hai Ngài Đại Trưởng Lão nấu món sữa pāyāsa để sẵn. Sáng ngày hôm sau, Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna đi khất thực đến nhà thí chủ ấy; gia đình thí chủ thỉnh Ngài ngồi chỗ cao quý, xin cái bát của Ngài, rồi đặt món vật thực đặc biệt, món sữa pāyāsa vào bát, rồi dâng đến Ngài. Nhìn thấy món vật thực sữa pāyāsa, Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna nghĩ nên mang món vật thực sữa pāyāsa về dâng cúng dường đến Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta.

Người thí chủ kính thỉnh Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna độ món vật thực sữa pāyāsa này, còn một phần vật thực sữa pāyāsa sẽ dâng cúng dường đến Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta nữa.

Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna độ xong, người thí chủ xin cái bát đặt món vật thực sữa pāyāsa, kính nhờ Ngài mang phần vật thực sữa pāyāsa về kính dâng cúng dường đến Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta.

Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna mang món vật thực sữa pāyāsa về bèn bạch rằng:

─ Kính thưa pháp huynh, xin pháp huynh độ món vật thực sữa pāyāsa này.

Nhìn thấy món vật thực sữa pāyāsa, Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta suy xét rằng: “Món vật thực sữa pāyāsa này được phát sinh bằng cách nào?”.

Ngài Đại Trưởng Lão biết rõ rằng: “Món vật thực sữa pāyāsa này được phát sinh do chính ta nói ra, chư thiên cội cây lắng nghe được, chư thiên ấy nhập vào người con trai lớn của nhà thí chủ thường hộ độ ta. Người con trai lớn xin gia đình nấu món vật thực sữa pāyāsa này. Do đó, ta không nên độ món vật thực sữa pāyāsa này”.

Suy xét xong, Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta bèn nói với Ngài Đại Trưởng Lão Mahāmoggallāna rằng:

─ Này pháp đệ, pháp huynh không thể độ món sữa pāyāsa này, bởi vì món vật thực này được phát sinh do pháp huynh đã nói ra bằng lời, do đó, món vật thực này không hợp với pháp huynh.

Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta đem bát vật thực sữa pāyāsa đổ xuống đất cho các loài súc sinh, đồng thời ngay khi ấy, căn bệnh của Ngài khỏi hẳn. Từ đó, cho đến lúc Ngài tịch diệt Niết Bàn, căn bệnh phong khủng khiếp ấy không bao giờ tái phát lại nữa.

Những tích chuyện tương tự có nhiều trong các Chú giải. Như vậy, chư thiện trí quý trọng giới hơn quý trọng sinh mạng của mình.

Tôn Trọng Giới Của Mình

Trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo), Đức Phật khuyên dạy câu kệ rằng:

“Kikīva aṇḍaṃ camarīva vāladhiṃ.

Piyaṃva puttaṃ nayanaṃva ekakaṃ.

Tatheva sīlaṃ anurakkhamānakā.

Supesalā hotha sadā sagāravā”([2]).

“Như con chim kikī giữ gìn, bảo vệ cái trứng của nó, không màng đến sinh mạng.

Như con bò camarī giữ gìn, bảo vệ cái đuôi của nó, không màng đến sinh mạng.

Như người mẹ hiền giữ gìn, bảo vệ một đứa con duy nhất yêu quý của mình.

Như người có một con mắt, giữ gìn bảo vệ con mắt còn lại của mình

Cũng như thế ấy, các con nên cẩn trọng giữ gìn, bảo vệ giới của mình cho được hoàn toàn trong sạchtrọn vẹn.

Các con là người kính yêu tha thiết giới của mình, luôn luôn có pháp tôn kính”.

Để giữ gìn, bảo vệ giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, hành giả cần phảiđức tin trong sạch nơi Đức Phật, nơi Đức Pháp, nơi Đức Tăng, biết tôn trọng những điều giới của mình, có trí tuệ nhận thức rõ sự tai hại lớn trong điều tội lỗi nhỏ, biết hỗ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi; có đức tin theo lời dạy của Đức Phật về 5 quả báu đối với người giữ giới trong sạchtrọn vẹn, và 5 điều tai hại đối với người phạm giới, người không có giới.

Giới của mình được giữ gìn trong sạchtrọn vẹn rồi, sẽ có những quả báu tốt lành, sự an lạc ngay trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai không có giới hạn.

Và giới của mình đã bị phạm rồi, hoặc không có giới sẽ có những điều tai hại, sự khổ đau ngay trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai không có giới hạn.

Giới của mình được giữ trong sạchtrọn vẹn sẽ làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh và phát triển từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp,

Mỗi thiện pháp có khả năng giải thoát khổ tái sinh như sau:

─ 8 dục giới đại thiện pháp của hàng phàm nhân có khả năng giải thoát khổ tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; những thiện pháp này có khả năng cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới: Cõi người 6 cõi trời dục giới, có thời gian hạn định.

─ 5 sắc giới thiện pháp của hành giả phàm nhân có khả năng giải thoát khổ tái sinh trong 11 cõi dục giới; những thiện pháp này có khả năng cho quả tái sinh trong 16 cõi trời sắc giới phạm thiên, có thời gian hạn định.

─ 4 vô sắc giới thiện pháp của hành giả phàm nhân có khả năng giải thoát khổ tái sinh trong 11 cõi dục giới và 16 cõi sắc giới; những thiện pháp này có khả năng cho quả tái sinh trong 4 cõi trời vô sắc giới phạm thiên, có thời gian hạn định.

Cả 3 loại thiện pháp này thuộc tam giới thiện pháp (lokiyakusala) có khả năng cho quả trong tam giới, không có khả năng giải thoát khổ khỏi tam giới.

4 Siêu tam giới thiện pháp (Lokuttarkusala) đó là 4 Thánh Đạo Tâm của 4 bậc Thánh Nhân, 4 Thánh Đạo Tâm này không có khả năng cho quả tái sinh kiếp sau, mà có năng lực đặc biệt hạn chế tái sinh kiếp sau:

─ Nhập Lưu Thánh Đạo Tâm của bậc Thánh Nhập Lưunăng lực đặc biệt ngăn cản vĩnh viễn không còn tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; và hạn chế chỉ còn tái sinh kiếp sau nhiều nhất 7 kiếp nữa trong cõi thiện dục giới: Cõi ngườicõi trời mà thôi. Đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

─ Nhất Lai Thánh Đạo Tâm của bậc Thánh Nhất Lainăng lực đặc biệt hạn chế chỉ còn tái sinh kiếp sau 1 kiếp nữa trong cõi thiện dục giới. Chắc chắn trong kiếp ấy sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

─ Bất Lai Thánh Đạo Tâm của bậc Thánh Bất Lainăng lực đặc biệt ngăn cản không trở lại tái sinh kiếp sau trong cõi thiện dục giới; và hạn chế chỉ còn tái sinh trong cõi trời sắc giới phạm thiên, rồi sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn tại cõi trời sắc giới ấy, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

─ Arahán Thánh Đạo Tâm của bậc Thánh Arahán có năng lực đặc biệt ngăn cản vĩnh viễn không còn tái sinh kiếp sau nữa. Ngay kiếp hiện tại, bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ hoàn toàn tử sinh luân hồi trong tam giới.

Cho nên, giới của mình được giữ gìn trong sạchtrọn vẹn, để làm nền tảng cho mọi thiện pháp được phát sinh và phát triển, tùy theo khả năng ba-la-mật của mỗi chúng sinh.

Trong Phật giáo:

Pháp hành giới pháp hànhphần đầuhành giả cần phải giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn; giới có khả năng diệt được phiền não loại thô (vītikkama-kilesa) không thể biểu hiện ra ở thân và khẩu.

Pháp hành định đó là pháp hành thiền địnhpháp hànhphần giữa mà sau khi đã có giới trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng, hành giả thực hành pháp hành thiền định với đề mục thiền định có khả năng dẫn đến chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, các bậc thiền vô sắc. Bậc thiền này có khả năng diệt được phiền não loại trung (pariyuṭṭhānakilesa) không thể phát sinh ở trong tâm, có thể làm nền tảng cho pháp hành tuệ phát sinh.

Pháp hành tuệ đó là pháp hành thiền tuệpháp hànhphần cuối mà sau khi đã có định tâm trong đối tượng làm nền tảng, hành giả thực hành pháp hành thiền tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được phiền não loại vi tế (anusaya-kilesa) ngủ ngầm trong tâm.

Bởi vậy cho nên, hành giả cần phải biết tôn trọng giới của mình.



[1] Bộ Visuddhimagga, phần Sīlaniddesa.

[1] Bộ Visuddhimagga, phần Sīlaniddesa.

[2] Bộ Visudhimagga, phần Sīlaniddesa.

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Mười Một 201910:12
Khách
Con tưởng giữ giới là phải giữ cả đời chứ ạ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 668)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 794)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 992)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1399)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1159)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 970)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 947)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1142)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1173)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1253)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant