Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10001)
II. Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN II: GIỚI CỦA BẬC XUẤT GIA


II- Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

Ý nghĩa danh từ Bhikkhu: Tỳ khưu

Bhikkhu có rất nhiều ý nghĩa:

Nghĩa Bhikkhu theo văn phạm Pāḷi

Bhikkhati sīlenā’ti Bhikkhu: Bậc có thói quen thường đi khất thực để nuôi mạng gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu.

Saṃsāre bhayaṃ ikkhatī’ti Bhikkhu: Bậc thấy rõ sự tai họa trong vòng tử sinh luân hồi gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu.

Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Kinh

Trong Chú giải kinh Đại Tứ Niệm Xứ dạy:

Yo ca imaṃ paṭipattiṃ paṭipajjati, so Bhikkhu nāma hotī’ti paṭipattiyā Bhikkhubhāvadassanato pi “Bhikkhu”([2]).

(Hành giả nào thực hành Tứ niệm xứ này, hành giả ấy được gọi là Tỳ khưu. Tỳ khưu chính là hành giả thực hành Tứ niệm xứ).

“Paṭipannako hi devo vā hotu manusso vā Bhikkhū’ti saṅkhyaṃ gacchatiyeva”.

(Hành giả thực hành Tứ niệm xứ, dù là chư thiên hoặc nhân loại cũng đều được xem là Tỳ khưu cả thảy).

Như vậy, Tỳ khưu theo ý nghĩa Tạng Kinh chính là hành giả thực hành Tứ niệm xứ, hay thực hành thiền tuệ.

Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Luật

Theo Tạng Luật, Bhikkhu: Tỳ khưu được thành tựu do chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại nơi sīmā tụng ñatticatuttha-kammavācāpāḷi: Tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn), nâng đỡ vị giới tử Sadi lên trở thành Bhikkhu (Tỳ khưu) đúng theo luật của Đức Phật.

Trong Chú giải bộ Cūḷavagga giảng giải. Để thành tựu Bhikkhu (Tỳ khưu) cần phải hội đủ 5 chi pháp:

1- Vatthusampatti: Người cận sự nam không phạm lỗi, không thuộc về những hạng người bị cấm xuất gia trở thành Tỳ khưu.

2- Ñattisampatti: Khi Tỳ khưu Luật sư tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn) hoàn toàn đúng theo văn phạm Pāḷi và đúng từng chữ, từng câu Pāḷi trong ñatti.

3- Anusāsanasampatti: Vị Tỳ khưu Luật sư tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) hoàn toàn đúng theo văn phạm Pāḷi và đúng từng chữ, từng câu Pāḷi trong kamma-vācā.

4- Sīmāsampatti: Chỗ ranh giới của sīmā hoàn toàn đúng theo Luật của Đức Phật chế định.

5- Purisasampatti: Chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā cần phải có đủ số lượng. Ngoài Trung xứ Ấn Độ ra, các vùng biên địa hoặc xứ khác (như nước Việt Nam) chư Tỳ khưu Tăng cần phải có 5 vị trở lên. 5 vị Tỳ khưu ấy phải là Tỳ khưu thật. 

Khi chư Tỳ khưu Tăng hành tăng sự, tụng ñatticatutthakammavācāpāḷi: Tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) vừa chấm dứt, đồng thời giới tử Sadi cũng trở thành Bhikkhu (Tỳ khưu) trong Phật giáo.

Thọ Tỳ khưu có 2 hạng người:

- Người cận sự nam đủ 20 tuổi trở lên thọ Tỳ khưu gọi là: Bhikkhu (Tỳ khưu).

- Người cận sự nữ đủ 20 tuổi trở lên thọ Tỳ khưu gọi là: Bhikkhunī (Tỳ khưu ni).

Giới Của Tỳ Khưu

Giới của Tỳ khưu có 4 loại giới là:

1- Bhikkhupātimokkhasaṃvarasīla: Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ.

2- Indriyasaṃvarasīla: Giới thu thúc lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).

3- Ājīvaparisuddhisīla: Giới nuôi mạng chân chánh (bằng cách đi khất thực).

4- Paccayasannissitasīla: Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh).

Giải Thích:

1- Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ như thế nào?

- Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ trong Bhikkhupātimokkha…, Tỳ khưu giữ gìn giới được trong sạch đầy đủ, có thể giải thoát khổ ở kiếp hiện tại và kiếp vị lai.

- Tỳ khưu giữ gìn giới được trong sạch và đầy đủ là do nhờ có đức tin đầy đủ (saddhasādhana). Tỳ khưu có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, thì việc giữ gìn giới được coi trọng hơn việc giữ gìn sinh mạng. Do đó, giới được giữ gìn trong sạch và đầy đủ.

Nếu Tỳ khưu phạm giới nhẹ, thì giới không còn trong sạch, để giúp cho giới trở nên trong sạch lại, thì phải sám hối āpatti (desanāsuddhi). Khi Tỳ khưu sám hối āpatti xong, thì giới của mình được trong sạch trở lại.

Giới của Tỳ khưu trong Bhikkhupātimokkha chỉ có 227 điều mà thôi, nhưng trong Tạng Luật, giới của Tỳ khưu gồm có cả thảy 91.805.036.000 điều giới mà Tỳ khưu cần phải giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn.

2- Giới thu thúc lục căn như thế nào?

Lục căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căný căn là nơi tiếp xúc của lục trần: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trầnpháp trần.

Tỳ khưu giữ gìn giới thu thúc lục căn thanh tịnh do nhờ có chánh niệmtrí tuệ tỉnh giác không chấp thủ nơi đối tượng (đàn ông, đàn bà), không chấp thủ một bộ phận nào trong cơ thể cho là đẹp hoặc xấu.

- Khi sắc trần tiếp xúc với nhãn căn, phát sinh nhãn thức tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ nhãn thức tâm thấy sắc trần thuộc danh pháp, còn sắc trần thuộc sắc pháp, không phải ta, người, chúng sinh, vật này, vật kia,…

- Khi thanh trần tiếp xúc với nhĩ căn, phát sinh nhĩ thức tâm làm phận sự nghe thanh trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ nhĩ thức tâm nghe thanh trần thuộc danh pháp, còn thanh trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người…

- Khi hương trần tiếp xúc với tỷ căn, phát sinh tỷ thức tâm làm phận sự ngửi hương trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ tỷ thức tâm ngửi hương trần thuộc danh pháp, còn hương trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi vị trần tiếp xúc với thiệt căn, phát sinh thiệt thức tâm làm phận sự nếm vị trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ thiệt thức tâm nếm vị trần thuộc danh pháp, còn vị trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi xúc trần tiếp xúc với thân căn, phát sinh thân thức tâm làm phận sự xúc giác với xúc trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ thân thức tâm xúc giác với xúc trần thuộc danh pháp, còn xúc trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi pháp trần tiếp xúc với ý căn, phát sinh ý thức tâm làm phận sự biết pháp trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ ý thức tâm biết pháp trần thuộc danh pháp, còn pháp trần thuộc sắc pháp, hoặc danh pháp, đều không phải ta, người, chúng sinh, vật này, vật kia,…

Đó gọi là giới thu thúc lục căn thanh tịnh.

Tỳ khưu giữ gìn giới thu thúc lục căn thanh tịnh là do nhờ có chánh niệm đầy đủ (satisādhana).

Giới thu thúc lục căn được thanh tịnh bằng cách thu thúc thanh tịnh (saṃvarasuddhi).

3- Giới nuôi mạng chân chánh thanh tịnh như thế nào?

- Tỳ khưu từ bỏ cách sống không chân chánh, cách sống tà mạng bằng thân, bằng khẩu do bởi lòng tham muốn thấp hèn.

- Tỳ khưu giữ gìn giới nuôi mạng chân chánh thanh tịnh do nhờ sự tinh tấn đầy đủ (vīriyasādhana), đi tìm 4 thứ vật dụng theo nhu cầu cần thiết hằng ngày đêm nuôi mạng chân chánh trong sạch thanh tịnh, 4 thứ vật dụng đó là:

Y phục: Vị Tỳ khưu đi tìm lượm vải dơ giặt sạch rồi may y để mặc. Nếu có thí chủ dâng y, thì được phép thọ nhận y để mặc.

Vật thực: Hằng ngày vị Tỳ khưu đi khất thực từng nhà để nuôi mạng. Nếu có thí chủ dâng cúng dường vật thực thì được phép thọ nhận vật thực để dùng buổi ngọ (không quá 12 giờ trưa).

Chỗ ở: Tỳ khưu ở cội cây, trong hang động để thực hành pháp hành thiền định, hoặc thực hành pháp thiền tuệ hầu mong giải thoát khổ trong ba giới bốn loài. Nếu có thí chủ dâng chỗ ở (cốc), thì được phép thọ nhận để hành đạo.

Thuốc trị bệnh: Khi Tỳ khưu bị lâm bệnh, nên dùng nước tiểu ngâm với trái cây rừng để làm thuốc trị bệnh. Nếu có thí chủ dâng cúng dường thuốc trị bệnh, thì được phép thọ nhận thuốc ấy để trị bệnh.

4- Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng như thế nào?

Y phục, vật thực, chỗ ở thuốc trị bệnh, là 4 thứ vật dụng thiết yếu cho đời sống Tỳ khưu. Cho nên, mỗi khi Tỳ khưu đang dùng thứ vật dụng nào, nên có trí tuệ sáng suốt suy xét rõ thứ vật dụng ấy.

- Khi Tỳ khưu mặc y, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paṭisevāmi, yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, daṃsamakasa-vātātapa-sirīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva hirikopīnappaṭicchādanatthaṃ”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới mặc y phục chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít. Và cũng chỉ để che phần đáng hổ thẹn trong thân thể mà thôi’).

- Khi Tỳ khưu thọ thực, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṃ paṭisevāmi, neva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyā-nuggahāya, iti puraṇañca vedanaṃ paṭihankhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới dùng vật thực không phải để vui chơi như trẻ con, cũng không phải để tăng cường sức mạnh như người lực sĩ, cũng không phải để làm đẹp thân thể như đàn bà, cũng không phải để bồi dưỡng thân thể cho xinh đẹp như kỹ nữ. Sự thật, tôi dùng vật thực để nuôi dưỡng duy trì sắc thân, để làm giảm đi sự khổ thân, chỉ để thực hành phạm hạnh cao thượng mà thôi. Do nhờ sự thọ thực này, tôi có thể làm giảm được sự đang đói khổ và sẽ làm cho sự khổ mới không phát sinh).

- Khi Tỳ khưu ở chỗ ở, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso senāsanaṃ paṭisevāmi, yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, daṃsamakasa-vātātapa-sirīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva utuparissayavinodana paṭisallānārāmatthaṃ”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới sử dụng chỗ ở chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, để ngăn ngừa sự nóng, để ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít mà thôi. Và cũng chỉ để tránh sự tai hại do thời tiết, được an lạc nơi thanh vắng, để hành phạm hạnh cao thượng’).

- Khi Tỳ khưu dùng thuốc trị bệnh, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso gilānappaccayabhesajja parikkhāraṃ paṭisevāmi, yāvadeva uppannānaṃ veyyābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya abyābajjhaparamatāya”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới dùng thuốc trị bệnh bảo vệ sinh mạng, chỉ để điều trị khổ bệnh đã và đang phát sinh, để không khổ do bệnh hoạn ấy’).

Khi Tỳ khưu, Sadi nào đang dùng thứ vật dụng nào, mà không suy xét, vị Tỳ khưu, Sadi ấy dùng vật dụng ấy như người mang nợ (iṇaparibhoga).

Như vậy, Tỳ khưu có giới nuôi mạng chân chính, là do nhờ sự tinh tấn đầy đủ. Còn giới nương nhờ 4 thứ vật dụng thanh tịnh là do nhờ trí tuệ đầy đủ (paññāsādhana). Tỳ khưu có trí tuệ đầy đủ, mỗi khi dùng thứ vật dụng nào, đều có trí tuệ suy xét thứ vật dụng ấy.

Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng được thanh tịnh bằng trí tuệ suy xét thanh tịnh (paccavekkhaṇasuddhi), mỗi khi dùng thứ vật dụng nào, nên có trí tuệ suy xét biết rõ sự lợi ích của thứ vật dụng ấy, đồng thời có thể ngăn ngừa được phiền não nương nhờ ở thứ vật dụng ấy.

Khi Tỳ khưu, Sadi thọ nhận thứ vật dụng nào, dù có trí tuệ suy xét thấy rõ thực tánh của thứ vật dụng ấy, song khi Tỳ khưu, Sadi đang thọ dụng thứ vật dụng ấy mà không có trí tuệ suy xét, thì Tỳ khưu, Sadi ấy vẫn không thể tránh khỏi lỗi. Còn trường hợp khi Tỳ khưu, Sadi thọ nhận thứ vật dụng nào, dù không có trí tuệ suy xét thứ vật dụng ấy, song khi Tỳ khưu, Sadi đang thọ dụng thứ vật dụng ấy có trí tuệ suy xét, thì Tỳ khưu, Sadi ấy không có lỗi, không mang nợ.

Khi Tỳ khưu, Sadi có trí tuệ sáng suốt suy xét đang dùng thứ vật dụng nào trong 4 thứ vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh; vị Tỳ khưu, Sadi ấy có trí tuệ sáng suốt không những thấy rõ, biết rõ thứ vật dụng ấy chỉ là tứ đại (đất, nước, lửa, gió) mà thôi, là thực tánh của sắc pháp, không phải là chúng sinh, không có sinh mạng, là pháp vô ngã; mà còn người dùng thứ vật dụng ấy cũng chỉ là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp mà thôi, đều là pháp vô ngã.

Thật vậy, như trong bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta (kinh Đại Niệm Xứ) phần Sampajānapabba (phần trí tuệ tỉnh giác), Đức Phật dạy trong khi dùng vật thực nước uống rằng:

Asite pite khāyite sāyite sampajānakārī hoti”.

(Hành giả là người có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trong khi ăn, uống, nhai, nếm vị...).

Như vậy, chư Tỳ khưu, Sadi nói riêng, mọi người nói chung có trí tuệ suy xét trong khi dùng thứ vật dụng nào, biết rõ sự lợi ích của thứ vật dụng ấy, chỉ có vậy mà thôi. Thứ vật dụng ấy dù có tốt cũng không phát sinh tâm tham ái, hoặc dù có xấu cũng không phát sinh tâm sân nơi thứ vật dụng ấy.

Quyển sách “Hành Giới” này đề cập đến giới của người tại gia là chính, còn giới của bậc xuất gia: Tỳ khưu, Sadi chỉ trình bày tóm tắt mà thôi, bởi vì giới của Tỳ khưu, Sadi rất nhiều, nên tìm hiểu những bộ sách khác.



[1] Vinayapiṭaka, bộ Cūḷavagga, phần Vattakkhandhaka.

[2] Chú giải bộ Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇā.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15515)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13204)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19357)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24613)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15740)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37822)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13475)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13092)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17177)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13203)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17386)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21635)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13216)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14392)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12811)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13653)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28615)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23393)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28878)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32184)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11328)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26285)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17371)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14523)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34475)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12278)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13411)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40509)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26929)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14455)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13252)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13454)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12532)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13145)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12313)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11788)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12571)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17658)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12204)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12751)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18434)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12994)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11322)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12150)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13466)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10835)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11073)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10285)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28883)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25268)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26849)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25753)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18668)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23022)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34535)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32166)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant