Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

II. Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 9982)
II. Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN II: GIỚI CỦA BẬC XUẤT GIA


II- Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

Ý nghĩa danh từ Bhikkhu: Tỳ khưu

Bhikkhu có rất nhiều ý nghĩa:

Nghĩa Bhikkhu theo văn phạm Pāḷi

Bhikkhati sīlenā’ti Bhikkhu: Bậc có thói quen thường đi khất thực để nuôi mạng gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu.

Saṃsāre bhayaṃ ikkhatī’ti Bhikkhu: Bậc thấy rõ sự tai họa trong vòng tử sinh luân hồi gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu.

Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Kinh

Trong Chú giải kinh Đại Tứ Niệm Xứ dạy:

Yo ca imaṃ paṭipattiṃ paṭipajjati, so Bhikkhu nāma hotī’ti paṭipattiyā Bhikkhubhāvadassanato pi “Bhikkhu”([2]).

(Hành giả nào thực hành Tứ niệm xứ này, hành giả ấy được gọi là Tỳ khưu. Tỳ khưu chính là hành giả thực hành Tứ niệm xứ).

“Paṭipannako hi devo vā hotu manusso vā Bhikkhū’ti saṅkhyaṃ gacchatiyeva”.

(Hành giả thực hành Tứ niệm xứ, dù là chư thiên hoặc nhân loại cũng đều được xem là Tỳ khưu cả thảy).

Như vậy, Tỳ khưu theo ý nghĩa Tạng Kinh chính là hành giả thực hành Tứ niệm xứ, hay thực hành thiền tuệ.

Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Luật

Theo Tạng Luật, Bhikkhu: Tỳ khưu được thành tựu do chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại nơi sīmā tụng ñatticatuttha-kammavācāpāḷi: Tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn), nâng đỡ vị giới tử Sadi lên trở thành Bhikkhu (Tỳ khưu) đúng theo luật của Đức Phật.

Trong Chú giải bộ Cūḷavagga giảng giải. Để thành tựu Bhikkhu (Tỳ khưu) cần phải hội đủ 5 chi pháp:

1- Vatthusampatti: Người cận sự nam không phạm lỗi, không thuộc về những hạng người bị cấm xuất gia trở thành Tỳ khưu.

2- Ñattisampatti: Khi Tỳ khưu Luật sư tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn) hoàn toàn đúng theo văn phạm Pāḷi và đúng từng chữ, từng câu Pāḷi trong ñatti.

3- Anusāsanasampatti: Vị Tỳ khưu Luật sư tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) hoàn toàn đúng theo văn phạm Pāḷi và đúng từng chữ, từng câu Pāḷi trong kamma-vācā.

4- Sīmāsampatti: Chỗ ranh giới của sīmā hoàn toàn đúng theo Luật của Đức Phật chế định.

5- Purisasampatti: Chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā cần phải có đủ số lượng. Ngoài Trung xứ Ấn Độ ra, các vùng biên địa hoặc xứ khác (như nước Việt Nam) chư Tỳ khưu Tăng cần phải có 5 vị trở lên. 5 vị Tỳ khưu ấy phải là Tỳ khưu thật. 

Khi chư Tỳ khưu Tăng hành tăng sự, tụng ñatticatutthakammavācāpāḷi: Tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) vừa chấm dứt, đồng thời giới tử Sadi cũng trở thành Bhikkhu (Tỳ khưu) trong Phật giáo.

Thọ Tỳ khưu có 2 hạng người:

- Người cận sự nam đủ 20 tuổi trở lên thọ Tỳ khưu gọi là: Bhikkhu (Tỳ khưu).

- Người cận sự nữ đủ 20 tuổi trở lên thọ Tỳ khưu gọi là: Bhikkhunī (Tỳ khưu ni).

Giới Của Tỳ Khưu

Giới của Tỳ khưu có 4 loại giới là:

1- Bhikkhupātimokkhasaṃvarasīla: Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ.

2- Indriyasaṃvarasīla: Giới thu thúc lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).

3- Ājīvaparisuddhisīla: Giới nuôi mạng chân chánh (bằng cách đi khất thực).

4- Paccayasannissitasīla: Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh).

Giải Thích:

1- Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ như thế nào?

- Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ trong Bhikkhupātimokkha…, Tỳ khưu giữ gìn giới được trong sạch đầy đủ, có thể giải thoát khổ ở kiếp hiện tại và kiếp vị lai.

- Tỳ khưu giữ gìn giới được trong sạch và đầy đủ là do nhờ có đức tin đầy đủ (saddhasādhana). Tỳ khưu có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, thì việc giữ gìn giới được coi trọng hơn việc giữ gìn sinh mạng. Do đó, giới được giữ gìn trong sạch và đầy đủ.

Nếu Tỳ khưu phạm giới nhẹ, thì giới không còn trong sạch, để giúp cho giới trở nên trong sạch lại, thì phải sám hối āpatti (desanāsuddhi). Khi Tỳ khưu sám hối āpatti xong, thì giới của mình được trong sạch trở lại.

Giới của Tỳ khưu trong Bhikkhupātimokkha chỉ có 227 điều mà thôi, nhưng trong Tạng Luật, giới của Tỳ khưu gồm có cả thảy 91.805.036.000 điều giới mà Tỳ khưu cần phải giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn.

2- Giới thu thúc lục căn như thế nào?

Lục căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căný căn là nơi tiếp xúc của lục trần: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trầnpháp trần.

Tỳ khưu giữ gìn giới thu thúc lục căn thanh tịnh do nhờ có chánh niệmtrí tuệ tỉnh giác không chấp thủ nơi đối tượng (đàn ông, đàn bà), không chấp thủ một bộ phận nào trong cơ thể cho là đẹp hoặc xấu.

- Khi sắc trần tiếp xúc với nhãn căn, phát sinh nhãn thức tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ nhãn thức tâm thấy sắc trần thuộc danh pháp, còn sắc trần thuộc sắc pháp, không phải ta, người, chúng sinh, vật này, vật kia,…

- Khi thanh trần tiếp xúc với nhĩ căn, phát sinh nhĩ thức tâm làm phận sự nghe thanh trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ nhĩ thức tâm nghe thanh trần thuộc danh pháp, còn thanh trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người…

- Khi hương trần tiếp xúc với tỷ căn, phát sinh tỷ thức tâm làm phận sự ngửi hương trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ tỷ thức tâm ngửi hương trần thuộc danh pháp, còn hương trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi vị trần tiếp xúc với thiệt căn, phát sinh thiệt thức tâm làm phận sự nếm vị trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ thiệt thức tâm nếm vị trần thuộc danh pháp, còn vị trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi xúc trần tiếp xúc với thân căn, phát sinh thân thức tâm làm phận sự xúc giác với xúc trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ thân thức tâm xúc giác với xúc trần thuộc danh pháp, còn xúc trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi pháp trần tiếp xúc với ý căn, phát sinh ý thức tâm làm phận sự biết pháp trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ ý thức tâm biết pháp trần thuộc danh pháp, còn pháp trần thuộc sắc pháp, hoặc danh pháp, đều không phải ta, người, chúng sinh, vật này, vật kia,…

Đó gọi là giới thu thúc lục căn thanh tịnh.

Tỳ khưu giữ gìn giới thu thúc lục căn thanh tịnh là do nhờ có chánh niệm đầy đủ (satisādhana).

Giới thu thúc lục căn được thanh tịnh bằng cách thu thúc thanh tịnh (saṃvarasuddhi).

3- Giới nuôi mạng chân chánh thanh tịnh như thế nào?

- Tỳ khưu từ bỏ cách sống không chân chánh, cách sống tà mạng bằng thân, bằng khẩu do bởi lòng tham muốn thấp hèn.

- Tỳ khưu giữ gìn giới nuôi mạng chân chánh thanh tịnh do nhờ sự tinh tấn đầy đủ (vīriyasādhana), đi tìm 4 thứ vật dụng theo nhu cầu cần thiết hằng ngày đêm nuôi mạng chân chánh trong sạch thanh tịnh, 4 thứ vật dụng đó là:

Y phục: Vị Tỳ khưu đi tìm lượm vải dơ giặt sạch rồi may y để mặc. Nếu có thí chủ dâng y, thì được phép thọ nhận y để mặc.

Vật thực: Hằng ngày vị Tỳ khưu đi khất thực từng nhà để nuôi mạng. Nếu có thí chủ dâng cúng dường vật thực thì được phép thọ nhận vật thực để dùng buổi ngọ (không quá 12 giờ trưa).

Chỗ ở: Tỳ khưu ở cội cây, trong hang động để thực hành pháp hành thiền định, hoặc thực hành pháp thiền tuệ hầu mong giải thoát khổ trong ba giới bốn loài. Nếu có thí chủ dâng chỗ ở (cốc), thì được phép thọ nhận để hành đạo.

Thuốc trị bệnh: Khi Tỳ khưu bị lâm bệnh, nên dùng nước tiểu ngâm với trái cây rừng để làm thuốc trị bệnh. Nếu có thí chủ dâng cúng dường thuốc trị bệnh, thì được phép thọ nhận thuốc ấy để trị bệnh.

4- Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng như thế nào?

Y phục, vật thực, chỗ ở thuốc trị bệnh, là 4 thứ vật dụng thiết yếu cho đời sống Tỳ khưu. Cho nên, mỗi khi Tỳ khưu đang dùng thứ vật dụng nào, nên có trí tuệ sáng suốt suy xét rõ thứ vật dụng ấy.

- Khi Tỳ khưu mặc y, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paṭisevāmi, yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, daṃsamakasa-vātātapa-sirīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva hirikopīnappaṭicchādanatthaṃ”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới mặc y phục chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít. Và cũng chỉ để che phần đáng hổ thẹn trong thân thể mà thôi’).

- Khi Tỳ khưu thọ thực, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṃ paṭisevāmi, neva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyā-nuggahāya, iti puraṇañca vedanaṃ paṭihankhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới dùng vật thực không phải để vui chơi như trẻ con, cũng không phải để tăng cường sức mạnh như người lực sĩ, cũng không phải để làm đẹp thân thể như đàn bà, cũng không phải để bồi dưỡng thân thể cho xinh đẹp như kỹ nữ. Sự thật, tôi dùng vật thực để nuôi dưỡng duy trì sắc thân, để làm giảm đi sự khổ thân, chỉ để thực hành phạm hạnh cao thượng mà thôi. Do nhờ sự thọ thực này, tôi có thể làm giảm được sự đang đói khổ và sẽ làm cho sự khổ mới không phát sinh).

- Khi Tỳ khưu ở chỗ ở, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso senāsanaṃ paṭisevāmi, yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, daṃsamakasa-vātātapa-sirīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva utuparissayavinodana paṭisallānārāmatthaṃ”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới sử dụng chỗ ở chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, để ngăn ngừa sự nóng, để ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít mà thôi. Và cũng chỉ để tránh sự tai hại do thời tiết, được an lạc nơi thanh vắng, để hành phạm hạnh cao thượng’).

- Khi Tỳ khưu dùng thuốc trị bệnh, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso gilānappaccayabhesajja parikkhāraṃ paṭisevāmi, yāvadeva uppannānaṃ veyyābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya abyābajjhaparamatāya”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới dùng thuốc trị bệnh bảo vệ sinh mạng, chỉ để điều trị khổ bệnh đã và đang phát sinh, để không khổ do bệnh hoạn ấy’).

Khi Tỳ khưu, Sadi nào đang dùng thứ vật dụng nào, mà không suy xét, vị Tỳ khưu, Sadi ấy dùng vật dụng ấy như người mang nợ (iṇaparibhoga).

Như vậy, Tỳ khưu có giới nuôi mạng chân chính, là do nhờ sự tinh tấn đầy đủ. Còn giới nương nhờ 4 thứ vật dụng thanh tịnh là do nhờ trí tuệ đầy đủ (paññāsādhana). Tỳ khưu có trí tuệ đầy đủ, mỗi khi dùng thứ vật dụng nào, đều có trí tuệ suy xét thứ vật dụng ấy.

Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng được thanh tịnh bằng trí tuệ suy xét thanh tịnh (paccavekkhaṇasuddhi), mỗi khi dùng thứ vật dụng nào, nên có trí tuệ suy xét biết rõ sự lợi ích của thứ vật dụng ấy, đồng thời có thể ngăn ngừa được phiền não nương nhờ ở thứ vật dụng ấy.

Khi Tỳ khưu, Sadi thọ nhận thứ vật dụng nào, dù có trí tuệ suy xét thấy rõ thực tánh của thứ vật dụng ấy, song khi Tỳ khưu, Sadi đang thọ dụng thứ vật dụng ấy mà không có trí tuệ suy xét, thì Tỳ khưu, Sadi ấy vẫn không thể tránh khỏi lỗi. Còn trường hợp khi Tỳ khưu, Sadi thọ nhận thứ vật dụng nào, dù không có trí tuệ suy xét thứ vật dụng ấy, song khi Tỳ khưu, Sadi đang thọ dụng thứ vật dụng ấy có trí tuệ suy xét, thì Tỳ khưu, Sadi ấy không có lỗi, không mang nợ.

Khi Tỳ khưu, Sadi có trí tuệ sáng suốt suy xét đang dùng thứ vật dụng nào trong 4 thứ vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh; vị Tỳ khưu, Sadi ấy có trí tuệ sáng suốt không những thấy rõ, biết rõ thứ vật dụng ấy chỉ là tứ đại (đất, nước, lửa, gió) mà thôi, là thực tánh của sắc pháp, không phải là chúng sinh, không có sinh mạng, là pháp vô ngã; mà còn người dùng thứ vật dụng ấy cũng chỉ là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp mà thôi, đều là pháp vô ngã.

Thật vậy, như trong bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta (kinh Đại Niệm Xứ) phần Sampajānapabba (phần trí tuệ tỉnh giác), Đức Phật dạy trong khi dùng vật thực nước uống rằng:

Asite pite khāyite sāyite sampajānakārī hoti”.

(Hành giả là người có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trong khi ăn, uống, nhai, nếm vị...).

Như vậy, chư Tỳ khưu, Sadi nói riêng, mọi người nói chung có trí tuệ suy xét trong khi dùng thứ vật dụng nào, biết rõ sự lợi ích của thứ vật dụng ấy, chỉ có vậy mà thôi. Thứ vật dụng ấy dù có tốt cũng không phát sinh tâm tham ái, hoặc dù có xấu cũng không phát sinh tâm sân nơi thứ vật dụng ấy.

Quyển sách “Hành Giới” này đề cập đến giới của người tại gia là chính, còn giới của bậc xuất gia: Tỳ khưu, Sadi chỉ trình bày tóm tắt mà thôi, bởi vì giới của Tỳ khưu, Sadi rất nhiều, nên tìm hiểu những bộ sách khác.



[1] Vinayapiṭaka, bộ Cūḷavagga, phần Vattakkhandhaka.

[2] Chú giải bộ Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇā.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30360)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30630)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20983)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20180)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19400)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24360)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30623)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15662)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27755)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19748)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15553)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23202)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23526)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17491)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15663)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21842)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37948)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22076)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23204)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21308)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28390)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32508)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25145)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34647)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22895)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27662)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31268)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13581)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25121)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27768)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22059)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20711)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22197)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27078)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24104)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21869)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14692)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23110)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23976)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21059)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14178)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19909)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22475)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14051)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 27995)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22786)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28164)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10968)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28469)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31535)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26146)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14905)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28011)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7387)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25321)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20684)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21105)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12213)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11887)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12783)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant