Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đoạn kết

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 7528)
Đoạn kết

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới


ĐOẠN KẾT

Tầm Quan Trọng Của Giới

Tích Ngài Đại đức Sīlava trong bộ Theragāthā(1), được tóm lược như sau:

Ngài Đại đức Sīlava vốn là Hoàng tử của Đức vua Bimbisāra trong kinh thành Rājagaha. Hoàng tử Ajātasattu giết Vua cha là Đức vua Bimbisāra rồi lên ngôi làm Vua. Đức vua Ajātasattu bày mưu kế giết Hoàng tử Sīlava, nhưng bằng mọi cách không thể giết chết được, bởi vì Hoàng tử là người có đầy đủ ba-la-mật, kiếp này là kiếp chót, chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Cho nên, không một ai có khả năng giết chết Hoàng tử Sīlava được.

Đức Thế Tôn suy xét thấy rõ biết rõ điều ấy nên Ngài truyền dạy Đại đức Mahāmoggallāna dùng thần thông đến giải cứu Hoàng tử Sīlava, đem Hoàng tử trở về hầu Ngài.

Hoàng tử Sīlava đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Hoàng tử. Ngồi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp xong, Hoàng tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài. Sau khi trở thành Tỳ khưu không lâu, Đại đức Sīlava đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trú tại xứ Kosala. Đức vua Ajātasattu hay tin truyền lệnh một nhóm lính đến tìm giết Đại đức Sīlava.

Đại đức Sīlava thuyết pháp tế độ nhóm lính, sau khi lắng nghe pháp, tất cả đều phát sinh đức tin trong sạch, xin Đại đức Sīlava cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Ngài Đại đức Sīlava thuyết pháp dạy các đệ tử của Ngài đề cao giới, được tóm lược như sau:

─ Này các con, các con nên học và hành giới trong Phật giáo này. Giới mà người đã thực hành nghiêm túc rồi, trở thành thói quen tốt sẽ đem lại mọi sự thành tựu: Quả báu trong cõi người, trong cõi trờiđạt đến Niết Bàn.

Bậc thiện trí muốn được 3 điều an lạc:

Được tán dương ca tụng khắp mọi nơi

Tâm thường được an lạc

Được tái sinh lên cõi trời

Người ấy cần phải giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, là người có giới trong sạch, là người biết thu thúc lục căn thanh tịnh. Người ấy có nhiều bạn tốt, bạn lành là bậc thiện trí.

Người phạm giới, tạo mọi ác nghiệp, làm cho bạn bè xa lánh. Người không có giới bị bậc thiện trí chê trách, tiếng xấu được lan truyền khắp mọi nơi.

Người có giới được bậc thiện trí tán dương ca tụng, tiếng tốt lành được lan truyền khắp mọi nơi.

Giới là gốc của mọi thiện pháp, là nền tảng để mọi thiện pháp được phát triển, là nơi phát sinh mọi thiện pháp, dẫn đầu mọi thiện pháp. Vì vậy, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn.

Người thu thúc giới trong sạch thanh tịnh có thể ngăn cản được mọi hành động ác do thân, khẩu và ý, làm cho thiện tâm phát sinh hoan hỷ.

Giới là bến xuôi ra đại dương, là Niết Bàn của chư Phật Toàn Giác, chư Phật Độc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác.

Vì vậy, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn.

Giới có sức mạnh vô địch chiến thắng Ma VươngMa quân.

Giới là loại vũ khí vô song cực kỳ lợi hại diệt được phiền não loại thô.

Giới là đồ trang sức vô giá, là vật thơm làm tăng vẻ đẹp của thân và khẩu đáng kính, đáng yêu.

Trong mọi lúc, giới như chiếc áo giáp an toàn bảo vệ không để rơi trong 4 cõi ác giới.

Giới như chiếc cầu vượt qua khỏi 4 cõi ác giới, vượt qua khỏi 4 vùng nước xoáy, vượt qua khỏi tử sinh luân hồi.

Giới có oai lực rất phi thường.

Giới là thứ vật thơm kỳ diệu lan tỏa theo chiều gió, và ngược chiều gió, lan tỏa khắp 10 phương.

Giới là thứ vật thoa thơm cao quý nhất. Người có giới trong sạchtrọn vẹn, danh thơm tiếng tốt lan tỏa khắp 10 phương.

Giới còn là hành trang, vật dụng thiết yếu của khách lữ hành trong các cõi thiện dục giới (cõi người, cõi trời).

Giới là phương tiện vạn năng dẫn đến mục đích cứu cánh Niết Bàn.

Kẻ thiểu trí (si mê) không biết tôn trọng giới của mình, là người không có giới, luôn luôn bị chê trách trong kiếp hiện tại, sau khi chết, do ác nghiệp không giới cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy.

Bậc thiện tríđức tin trong sạch, có trí tuệ sáng suốt biết tôn trọng giới của mình, giữ gìn giới trong sạchtrọn vẹn, thường được tán dương ca tụng trong kiếp hiện tại; sau khi chết, do nghiệp thiện có giới cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới (cõi trời), hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Giới là cao thượng. Bậc thiện trí có giới trong sạch, có trí tuệ sáng suốt, là người cao thượng trong đời.

Giới và trí tuệ thắng được phiền não trong cõi người, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, các cõi trời vô sắc giới.

Bởi vậy cho nên, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho pháp hành thiền địnhpháp hành thiền tuệ phát sinh và phát triển.

Ngài Đại đức Sīlava thuyết pháp dạy các đệ tử của Ngài đề cao giới như vậy.

Giới là cao thượng trong đời như thế nào?

Giới có 2 loại:

1- Lokiyasīla: Giới trong tam giới.

2- Lokuttarasīla: Giới trong Siêu tam giới.

Giới trong tam giới như thế nào?

Giới mà hành giả đã giữ gìn được trong sạchtrọn vẹn, rồi giới ấy sẽ cho quả báu trong cõi người6 cõi trời dục giới.

Khi giới của mình trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng cho pháp hành thiền định, hành giả thực hành đề mục thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, và các bậc thiền vô sắc.

Như vậy, giới này thuộc trong tam giới.

Giới trong Siêu tam giới như thế nào?

Hành giả thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến phát sinh trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn. Trong Thánh Đạo Tâm có đầy đủ 8 chánh đạo đồng sinh đó là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. 8 chánh đạo này được phân chia làm 3 phần:

Chánh kiếnchánh tư duy thuộc về phần tuệ

Chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới

Chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định thuộc về phần định

Khi chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng đồng sinh trong Thánh Đạo Tâm có đối tượng Niết Bàn. Như vậy, chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới trong tâm Siêu tam giới có đối tượng Niết Bàn.

Như vậy, giới mà hành giả giữ gìn trong sạchtrọn vẹn sẽ cho quả báu không chỉ trong tam giới mà còn đến Siêu tam giới nữa. Bởi vậy, mọi người nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn; giới ấy sẽ đem lại những thành tựu trong cõi người, trong cõi trờiđặc biệt làm nền tảng chứng ngộ Niết Bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Cho nên, thường sau khi thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới xong, Ngài Đại Trưởng Lão đọc câu chúc lành rằng:

“Sīlena sugatiṃ yanti.

Sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti

Tasmā sīlaṃ visodhaye!”

“Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới.

Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!”

Các cận sự nam, cận sự nữ đồng thành nói lên rằng:

“Sādhu! Sādhu!”

(Lành thay! Lành thay!)

Giới Là Nền Tảng

Giới là nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh, từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp (4 Thánh Đạo Tâm), cho nên có thể ví rằng:

- Giới trong sạch ví như đất màu mỡ.

- Định (thiền định) ví như cây ăn trái.

- Tuệ (thiền tuệ) ví như hoa và trái.

Nếu có đất màu mỡ thì cây ăn trái được mọc lên, nếu cây ăn trái mọc lên thì mới đơm hoa kết trái.

Cũng như vậy, nếu có giới trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng thì mới có thiền định phát sinh. Nếu có thiền định làm nền tảng thì mới có thiền tuệ phát sinh.

Trong bài kinh Kimatthiyasutta(1) Đức Phật trả lời những câu hỏi của Đại đức Ānanda về quả của giới, quả báu của giới, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

Ā(2): Kính bạch Đức Thế Tôn, giới thuộc thiện pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

ĐTT(3): “Này Ānanda, giới thuộc thiện pháp có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm là quả, có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâmquả báu”.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có sự hài lòng hoan hỷ là quả, có sự hài lòng hoan hỷquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, sự hài lòng hoan hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, sự hài lòng hoan hỷpháp hỷ là quả, có pháp hỷquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp hỷpháp an tịnh là quả, có pháp an tịnh là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an tịnh có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp an tịnh có pháp an lạc là quả, có pháp an lạc là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an lạc có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp an lạc có pháp thiền định là quả, có pháp thiền địnhquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thiền định có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp thiền định có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục (Thánh Đạo) là quả, có pháp ly dục (Thánh Đạo) là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh quảNiết Bàn là quả, có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bànquả báu.

Này Ānanda, giới thuộc pháp thiện có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm là quả, có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâmquả báu; sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có sự hài lòng hoan hỷ là quả, có sự hài lòng hoan hỷquả báu; sự hài lòng hoan hỷpháp hỷ là quả, có pháp hỷquả báu; pháp hỷpháp an tịnh là quả, có pháp an tịnh là quả báu; pháp an tịnh có pháp an lạc là quả, có pháp an lạc là quả báu; pháp an lạc có pháp thiền định là quả, có pháp thiền địnhquả báu; pháp thiền định có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả báu; pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán các pháp là quả báu; trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) là quả, có pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) là quả báu; pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn là quả; có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bànquả báu, như vậy.

Này Ānanda, giới thuộc về thiện phápquả báu theo tuần tự cho đến chứng đắc thành bậc Thánh Arahán hoàn toàn cao thượng, như vậy.

 (Xong bài kinh Kimatthiyasutta)

Quả Báu Của Giới

Bắt nguồn từ giới thuộc thiện pháp trong sạchtrọn vẹn dẫn đến những nhân quả liên hoàn từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp. Đức Phật thuyết giảng trong bài kinh Cetanākaraṇīyasutta(1) ý nghĩa như sau:

1- Này chư Tỳ khưu, người có giới trong sạch, giới đầy đủ trọn vẹn, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, sự mát mẻ thân tâm phát sinh đến cho người có giới trong sạch, giới đầy đủ trọn vẹn. Đó là lẽ đương nhiên.

2- Này chư Tỳ khưu, người có thân tâm mát mẻ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin sự hài lòng hoan hỷ phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, sự hài lòng hoan hỷ phát sinh đến cho người có thân tâm mát mẻ. Đó là lẽ đương nhiên.

3- Này chư Tỳ khưu, người có tâm hài lòng hoan hỷ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu cho pháp hỷ phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, pháp hỷ phát sinh đến cho người có tâm hài lòng hoan hỷ. Đó là lẽ đương nhiên.

4- Này chư Tỳ khưu, người có pháp hỷ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin thân tâm của tôi được an tịnh”.

Này chư Tỳ khưu, thân tâm an tịnh phát sinh đến người có pháp hỷ. Đó là lẽ đương nhiên.

5- Này chư Tỳ khưu, người có thân tâm an tịnh, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi được an lạc”.

Này chư Tỳ khưu, tâm an lạc phát sinh đến người có thân tâm an tịnh. Đó là lẽ đương nhiên.

6- Này chư Tỳ khưu, người có tâm an lạc, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin tâm của tôi được an định”.

Này chư Tỳ khưu, tâm an định phát sinh đến người có tâm an lạc. Đó là lẽ đương nhiên.

7- Này chư Tỳ khưu, người có tâm an định, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp”.

Này chư Tỳ khưu, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp phát sinh đến người có tâm an định. Đó là lẽ đương nhiên.

8- Này chư Tỳ khưu, người trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp”.

Này chư Tỳ khưu, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp này phát sinh đến người có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp. Đó là lẽ đương nhiên.

9- Này chư Tỳ khưu, người có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo)”.

Này chư Tỳ khưu, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) phát sinh đến người có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp. Đó là lẽ đương nhiên.

10- Này chư Tỳ khưu, người chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo), thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi chứng đắc pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét”.

Này chư Tỳ khưu, pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) phát sinh đến người chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo). Đó là lẽ đương nhiên.

Như vậy, này chư Tỳ khưu.

Pháp ly dục (Virāgo: Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Vimutta: Arahán Thánh Quả) và trí tuệ tri kiến suy xét là quả, là quả báu.

Trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục là quả, là quả báu.

Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, là quả báu.

Pháp an định trong các đối tượng danh pháp, sắc pháptrí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, là quả báu.

Pháp an lạc trong đối tượng có pháp an định là quả, là quả báu.

Thân tâm an tịnh trong đối tượng có pháp an lạc là quả, là quả báu.

Pháp hỷ trong đối tượng có thân tâm an tịnh là quả, là quả báu.

Tâm hài lòng hoan hỷ trong đối tượng có pháp hỷ là quả, là quả báu.

Thân tâm mát mẻ có tâm hài lòng hoan hỷ là quả, là quả báu.

Giới thiện pháp có thân tâm mát mẻ là quả, là quả báu.

Này chư Tỳ khưu, các pháp nhân dẫn đến các pháp quả báu liên hoàn với nhau, từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp tột đỉnh là Niết Bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

(Xong ý nghĩa bài kinh Cetanākaraṇīyasutta)

Như vậy, giữ gìn giới cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho các thiện pháp: Dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp đó là 4 Thánh Đạo và quả là 4 Thánh Quả, cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, diệt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Thiền viện Viên Không, tháng Vesakha
P.L 2550/2006
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
 
 Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

 


[1] Bộ Theragātha, bài kệ của Ngài Đại Đức Sīlavatheragāthā

[1] Ang. Ekādasakanipāta, Kinh Kimatthiyasutta.

[2] Ā: Ngài Đại đức Ānanda

[3] ĐTT: Đức Thế Tôn

[1] Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Cetanākaraṇīyasutta.

SÁCH THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

**************************************

VinayapiṭakaAṭṭhakathāpāḷi.

SuttantapiṭakaAṭṭhakathāpāḷi.

Abhidhammapiṭaka Aṭṭhakathāpāḷi.

- Bộ Abhidhammatthasaṅgaha của Ngài Đại Trưởng Lão Anuruddha.

Toàn bộ Mahābuddhavaṃsa của Ngài Đại Trưởng Lão Vicittasārābhivaṃsa (Tipiṭakadhara).

Toàn bộ sách giáo khoa “Paramatthajotika” của Ngài Đại Trưởng Lão Saddhammajotika.

- Các bộ sách của Ngài Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw.

v.v…

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30356)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30621)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20970)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20168)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19395)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24354)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30612)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15653)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27738)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19741)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15538)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23196)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23512)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17483)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15660)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21830)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37939)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22066)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23195)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21302)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28385)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32494)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25131)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34640)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22892)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27647)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31260)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13578)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25099)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27763)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22048)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20705)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22184)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27070)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24085)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21853)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14688)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23101)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23971)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21041)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14164)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19901)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22461)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14032)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 27986)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22773)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28162)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10967)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28463)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31527)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26137)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14892)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28006)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7383)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25317)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20677)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21098)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12204)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11882)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12774)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant