Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giá trị thực sự về lời dạy của hai vị Thần tàiThổ địa

26 Tháng Giêng 201300:00(Xem: 11248)
Giá trị thực sự về lời dạy của hai vị Thần tài và Thổ địa


GIÁ TRỊ THỰC SỰ VỀ LỜI DẠY

CỦA 2 VỊ THẦN TÀITHỔ ĐỊA

Thích Hạnh Phú 

 thantaithodia-thichhanhphu

 

 Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam. Hầu như nhà nào cũng thờ 2 vị thần này. Mục đích thờ chủ yếu là mong các Ngài gia hộ làm ăn phát tài, gia đình bình an, mạnh khỏe. Nhưng hầu như rất ít người biết về lịch sử cũng như giá trị lời dạy của 2 vị thần này. Qua bài viết này, người viết muốn chia sẻ, cũng như trao đổi học hỏi với mọi người.

 Xưa nay có rất nhiều truyền thuyết viết về lịch sử của 2 Ngài. Trong phạm vi bài viết này, người viết muốn gởi đến người đọc về thuyết của HT. Tịnh Không giảng:

 Thần Tài thật ra là vị quan tên Phạm Lãi, tên tự là Thiếu Bá. Ông là một tướng tài của nước Việt ở Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc, người đã giúp Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô.

 Phạm Lãi và Văn Chủng là 2 vị quan đã giúp Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt vua Phù Sai nước Ngô. Phạm Lãi biết khi Việt Vương Câu Tiễn lên ngôi sẽ giết mình và Văn Chủng. Nên ông khuyên Văn Chủng bỏ trốn, nhưng Văn Chủng không nghe lời khuyên. Cuối cùng bị Việt Vương Câu Tiễn cho uống rượu độc mà chết. Phạm Lãi cùng với vợ là Tây Thi (một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Quốc) bỏ trốn sang nước Tề. Sau đó, đổi tên là Đào Chu Công rồi làm ăn buôn bán và trở thành một thương gia giàu có nhất lúc bấy giờ. Một hôm, ông nghĩ tiền của mà ta có được là do trăm họ đưa đến. Thế là ông liền đem tiền của ra phân phát bố thí cho những người nghèo chỉ giữ lại một ít cho mình. Sau đó, ông tiếp tục làm ăn buôn bán lại phát tài (chính nhờ sự bố thí giúp đỡ người nghèo), và lần này ông cũng đem tiền của ra giúp đỡ người nghèo chỉ giữ lại một ít cho mình. Ông làm như thế nhiều lần trong đời. Sau khi ông mất, người đời tôn xưng ông là Thần Tài. Ông để lại một câu nói rất nổi tiếng: “Tiền thì phải tán. Tán rồi ắt tụ. Tụ rồi lại tán”. Nghĩa là khi có tiền chúng ta nên bố thí, làm việc thiện (gọi là tán). Nhờ bố thí, làm việc thiện, chúng ta được phước thì khi làm ăn buôn bán sẽ có tiền lại (gọi là tụ).

 Có rất nhiều truyền thuyết về Thổ Địa Công. Trong đó có hai truyền thuyết mà người viết tìm thấy, đó là:

 

* Phước Đức Chính Thần họ Trương tên Phước Đức, sanh vào ngày mùng hai tháng hai đời Chu Vũ Vương năm thứ hai, Trung Quốc. Từ nhỏ, ông tỏ ra thông minh và rất hiếu thảo. Đến năm 36 tuổi, làm quan thâu thuế của triều đình. Ông rất liêm chính, thương xót bá tánh khổ sở, nên đã tâu xin giảm nhiều hạng mục thuế vụ, dân chúng rất sùng kính.

 

Đến năm thứ ba đời Chu Mục Vương thì từ trần, thọ một trăm lẻ hai tuổi. Ông mất đã ba ngày mà mặt không đổi sắc, có một nhà nghèo kia đem bốn tảng đá lớn xây thành ngôi nhà bằng đá để thờ phụng ông. Chẳng bao lâu sau, nhà nghèo kia trở nên giàu có, mọi người đều tin là do thần ân hộ trì, nên chung lại mà xây thành Miếu Thờ, lễ lạy kim thân Ngài.

Những người buôn bán thường đến cúng bái, được Ngài gia hộ nhiều may mắn. Sau có vị quan thâu thuế thay Ngài rất tham lam, bóc lột nhân dân thậm tệ, ai nấy rất oán giận. Do đó, người ta tưởng nhớ đến lòng tốt của Trương Phước Đức thêm nhiều, và miếu thờ của Ngài trở thành Miếu Thờ “Phước Đức Chính Thần”.

* Lại có một truyền thuyết khác, vào đời Thương Chu, Trung Quốc. Có vị quan thượng đại phu ở triều đình, trong nhà có một tên đầy tớ họ Trương tên Minh Đức. Người con gái nhỏ của quan đại phụ nhớ cha, nhờ người đầy tớ họ Trương này ẵm đi thăm cha. Nhưng trên đường xa, ngày nọ bỗng trời đổ tuyết xuống rất nhiều, đứa con gái nhỏ sắp chết cóng, nhưng nhờ họ Trương xả thân lấy hết quần áo ủ ấm cho bé gái thoát chết, còn bản thân anh ta thì bị chết vì lạnh lúc quay trở về nhà.

Khi người nghĩa bộc vừa chết, trên không trung bỗng hiện ra tám chữ “Nam Thiên Môn Đại Tiên Phước Đức Thần”. Mọi người lấy làm kinh dị, cho rằng thiên đình đã phong chức cho người nghĩa bộc họ Trương. Còn vị quan đại phu cảm niệm ơn đức cứu mạng con mình, đã cho xây Miếu Thờ. Đến đời Chu Vũ Vương được người đời tặng là “Hậu Thổ”, cho nên Thổ Địa Công mới có danh hiệu “Phước Đức Chính Thần”.

Đọc hai truyền thuyết trên, người viết không dám quả quyết khẳng định rằng là đúng sự thật không, hay chỉ là được người đời sau tô điểm thêm. Do đó, người viết xin phép không bàn luận đến điều này. Mục đích mà người viết muốn nêu lên là giá trị về ý nghĩa lời dạy từ hai truyền thuyết trên. Cũng giống như những truyền thuyết về Thạch Sanh – Lý Thông hay chuyện Tấm – Cám, nội dung mục đích người xưa muốn nhắn nhủ, khuyên răn con cháu đời sau là “Nếu gieo gió thì gặt bão. Nên ăn ở hiền lành, chất phát”.

Tương tự như vậy, qua hai truyền thuyết trên chúng ta thấy việc làm của vị Trương Minh Đức tuy khác nhau về hình thức nhưng cùng có chung một ý nghĩa đó là tấm lòng thương người, hy sinh vì người. Nên sau khi mất được người đời tôn xưng là “Phước Đức Chính Thần”.

 

Người thế gian phần nhiều không hiểu về ý nghĩa lời dạy của hai vị thần. Ngược lại, có người đem tiền 120 tỷ mua một hòn đá thiên thạch, hoặc 300 tỷ mua vàng về để yếm xuống mộ của cha mình vì nghĩ rằng làm như thế thì cha mình sẽ phù hộ cho con cháu đời sau làm ăn phát tài. Có người còn đi đến các Thiên Hậu Thánh Mẫu (Bình Dương), Bà Chúa Xứ (Châu Đốc) hay Linh Sơn Thánh Mẫu - Bà Đen(Tây Ninh) hoặc là đi xem phong thủy, v.v… để cầu làm ăn phát tài, mạnh khỏe, gia đình bình an. Trong nhà Phật có nói đến giáo lý nhân quả: “Một miếng ăn, một miếng uống đều do tiền định”. “Tiền định” nghĩa là kiếp trước mình có tu bố thí thì kiếp này mình hưởng phước giàu sang và ngược lại.

Lịch sử Trung Quốc có ghi lại câu chuyện nhân quả do tiền định về cuộc đời của Cư sĩ Viên Liễu Phàm mà HT. Tịnh Không trong những lần thuyết kinh giảng pháp thường hay nhắc đến. Thuở nhỏ, Cư sĩ Viên Liễu Phàm được vị tướng số Khổng tiên sinh đoán cho vận mạng về chuyện xảy ra trong cả cuộc đời của ông. Trong mạng của ông không có tiền tài, quan vị, không có con nối dõi tông đường và đoản mạng. Trong năm đó, tháng đó, ngày đó xảy ra những chuyện gì hầu như không sai một ly một tất nào (biểu thị nhân quả do tiền định). Nhưng cư sĩ Viên Liễu Phàm sau gặp thiền sư Vân Cốc chỉ cho phương chuyển đổi vận mạng: “đoạn ác tu thiện (hy sinh, giúp đỡ mọi người – nhà Phật gọi là xả kỷ vị nhân), tích công lũy đức”. Từ ngày đó về sau, những dự đoán trước kia của Khổng tiên sinh không còn đúng, chính xác nữa. Mạng ông không có tiền tài, quan vị đổi lại ông đậu tiến sĩ ra làm quan, có hai người con nối dõi tông đường và được trường thọ (Khổng tiên sinh đoán ông 53 tuổi mất nhưng ông sống thêm 20 năm).

Trong kinh, Đức Phật cũng dạy: “Muốn biết nhân đời trước xem quả hưởng đời này. Muốn biết quả hưởng đời sau hãy xem nhân hiện tại tạo tác”. Nhiều người nghe Phật nói như thế, nhưng họ thường thắc mắc nói rằng: “Trong đời này tôi hay làm thiện, giúp đỡ người nhưng sao gặp toàn chuyện không may mắn, vận xui”. Họ nghi lời Phật nói sai. Thật ra, trong đạo Phật định luật nhân quả tương thông ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai). Người viết xin kể câu chuyện để chứng minh phần nào định luật nhân quả tương thông ba đời. Câu chuyện được ghi trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao.Vào khoảng năm 630 bên xứ Ấn-độ có Giới Hiền đại sư là vị cao tăng đức cao vọng trọng nhất bấy giờ trụ trì chùa Na Lan Đà. Có một thời gian Ngài bị bệnh rất nặng, quá đau khổ nên Ngài có ý định tự tử kết liễu thân mạng. Đêm đó, Ngài nằm mộng thấy ba vị Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm hiện ra báo cho biết vì nhiều đời trước Ngài làm vị quốc vương giết người vô số. Đáng ra tội nghiệp báo này phải đọa xuống địa ngục chịu khổ thời gian lâu dài, nhưng vì kiếp này ông tu hành giỏi hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng sanh nhiều, nên từ tội báo nặng đọa địa ngục chuyển sang quả báo nhẹ là bị bệnh. Vì thế, ông cố gắng tu hành sám hối nghiệp chướng. Đợi ba năm sau có người tên Huyền Trang từ Đại Đường Trung Quốc qua đây cầu ông làm thầy chỉ dạy Phật pháp. Sau khi tỉnh giấc mộng, Giới Hiền đại sư liền y theo đó mà tiếp tục tu hành sám hối nghiệp chướng. Quả nhiên một thời gian sau, bệnh nặng bớt hẳn.

Có lần người viết nghe một vị Hòa thượng kể câu chuyện: Có một anh chàng, vì nhà nghèo nên phải đi ở mướn làm thuê cho nhà địa chủ. Một hôm, có một vị xuất gia đến nhà địa chủ để khất thực. Ông địa chủ không có tâm cúng dường. Ngược lại, còn sai anh chàng người ở đuổi vị xuất gia đi. Anh chàng thấy sự việc như thế bèn nghĩ: kiếp trước ông chủ mình có tu nên kiếp này được hưởng giàu sang, phú quý. Còn bản thân mình kiếp trước không tu nên kiếp này phải chịu cảnh nghèo khổ. Do đó, muốn thoát cảnh khổ nay có vị xuất gia ta nên cúng dường. Nghĩ như thế, anh liền vô vay mượn tiền ứng trước hai năm làm công, đem ra thành tâm dâng lên cúng dường vị xuất gia này. Một thời gian sau, anh chàng này bị người ta giết chết còn quăng xác xuống hầm phân. Có một số người thấy tội nghiệp thương tình vớt xác anh lên và đem chôn cất tử tế. Nhưng không may cái mộ của anh bị trời đánh tan nát. Mọi người thấy như thế mới nói nhân quả không công bằng, ông trời không có mắt, anh ta là người tốt tại sao phải chết thảm như thế. Sau vị xuất gia này giảng giải cho mọi người biết rằng do công đức cúng dường mà anh chàng này chuyển từ quả báo tội chướng nặng sang nhẹ (đáng ra tội chướng mà anh ta phải trả trong ba kiếp nhưng nay chuyển thành một kiếp đã trả xong, nghĩa là kiếp này bị người ta giết, kiếp sau cũng bị giết và ném xuống hầm phân, kiếp sau nữa sẽ bị trời đánh). Hiện nay anh ta đang hưởng phước trên cõi trời Đao Lợi. Mọi người sau khi nghe vị xuất gia giảng xong bèn hiểu rõ, không còn buồn phiền, hiểu rõ nhân quả

Từ hai câu chuyện trên, người viết xin mạo muội đưa ra kết luận: Trong đời có người tuy làm thiện, giúp đỡ mọi người nhưng vẫn gặp vận xui, chuyện buồn. Thật ra, nếu như người đó không làm việc thiện, không giúp đỡ người nghèo khổ thì vận xui, chuyện buồn còn nặng hơn gấp bội. Thay vì làm ăn thất bại lỗ một tỷ nhưng nay nhờ phước đức làm việc thiện nên làm ăn thất bại chỉ lỗ 500 triệu. Người viết xin lấy ví dụ: Chúng ta có một thau nước dơ bẩn (biểu thị tội chướng của nhiều đời) nay có một chén nước sạch (biểu thị việc làm thiện của mình trong đời này) đổ vô thau nước dơ. Dưới con mắt thường thì nhìn thau nước dơ vẫn như ban đầu, nhưng nếu chúng ta dùng kính hiển vi nhìn thì sẽ thấy nước trong sạch hơn một chút (biểu thị tội chướng trong quá khứ của ta tiêu trừ được một chút).

Chính vì thế, HT. Tịnh Không nói: “Nếu như anh cầu xin mà được thì đức Phật Thích Ca cũng bái anh làm thầy. Vì chính Ngài cũng không thể vượt qua định luật nhân quả. Do đó, anh cầu xin mà được thì do sự trùng hợp phước trong mạng của anh vừa đến mà thôi”. Người viết xin mạo muội dùng ngu ý giải thích thêm để mọi người cùng hiểu: đức Phật đã thành Phật nên có phước đức vô lượng vô biên vậy mà còn bị đau đầu ba ngày do tiền kiếp Ngài đập đầu cá. Chư Phật, Bồ-tát là những bậc Thánh vượt ra ba cõi, thần thông đạo lực không thể nghĩ bàn. Các Ngài cũng không thể giúp chính mình vượt qua được định luật nhân quả (tôn giả Mục Kiền Liên được tôn xưng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của đức Phật nhưng vẫn bị hàng ngoại đạo lăn đá đè chết do tiền kiếp bất hiếu đánh cha mẹ) còn những vị như: Thiên Hậu Thánh Mẫu (Bình Dương), Bà Chúa Xứ (Châu Đốc), Linh Sơn Thánh Mẫu- Bà Đen(Tây Ninh) chỉ là Thần và vẫn còn nằm trong sanh tử lục đạo luân hồi, nên thần thông đạo lực thua xa các bậc Thánh. Các vị đó còn không thể tự giúp mình được thì làm sao giúp chúng ta được. Vậy mà hiện nay người viết thấy có rất nhiều người mang trên mình chiếc áo Phật tử, hàng năm cũng đi đến các nơi trên để cúng cầu xin làm ăn phát tài, gia đình bình an, mạnh khoẻ.

Người viết có quen một anh bạn. Gia đìnhphật tử thuần thành lâu năm. Hàng năm thường vào ngày 15/01(âl) anh đều lái xe từ Tp.HCM lên Thiên Hậu Thánh Mẫu(Bình Dương) để cúng cầu xin làm ăn được thuận lợi, phát tài. Một hôm, người viết mới hỏi anh: “Anh đi cúng cầu xin như vậy, kết quả có được như ý nguyện không”. Anh nói: “Cũng tuỳ thưa thầy! Có năm được, có năm không”. Nghe vậy, người viết mới nói: “Sao kỳ vậy, Thánh Mẫu thích thì gia hộ, không thích thì không gia hộ”. Nghĩa là Thánh Mẫu thích người nào thì gia hộ cho người ấy và ngược lại. Tâm còn phân biệt vui, buồn, thích, không thích như thế thì đâu phải tâm Thánh Mẫu.

Vì thế, Hòa thượng Tịnh Không nói: “Nếu như tượng đó linh thiêng thật thì một trăm người cầu xin thì phải một trăm được như ý nguyện. Một trăm người cầu xin mà chín mươi chín người được còn một người không được thì tượng đó cũng không linh thiêng. Nếu trong mạng anh có phước tiền tài, thì dù anh ngồi không người ta cũng đem tiền đến biếu anh. Công việc chẳng qua là phương tiện công cụ để tạo ra tiền. Ngược lại, nếu trong mạng anh không có phước tiền tài, thì cho dù có đem ngân hàng đến tặng anh, bảo đảm chưa đến hai năm anh sẽ phá sản”. Để chứng mình lời nói của Hòa thượng, người viết xin kể câu chuyện.

“…Có vợ chồng Lưu Văn Hưng - Ngô Thị Ngà ở xóm Trại, xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội làm nghề bới rác. Ngày 25/12 âm lịch, giáp Tết năm 2009, hôm đó, đang bới ở rìa bãi rác, anh Cửu chủ lán bảo chị chuyển sang bới ở bên cạnh cho rộng. Chừng 20 phút sau khi chuyển sang chỗ mới, chị bới thấy một túi bóng màu xanh, trong đó chứa đầy giẻ rách và những thứ vớ vẩn. Xé túi ra, tôi thấy một miếng rời màu vàng và một dây gồm mười miếng màu giống như thế. Tất cả đều in rõ chữ SJC 9999 của công ty vàng bạc gì đó ở Sài Gòn”.

Đọc xong câu chuyện, người viết tự đặt câu cho mình: “Giả thuyết như anh Cửu chủ lán bảo không bảo chị chuyển sang bới ở bên cạnh cho rộng thì liệu rằng chị Ngà có lượm được vàng không? Phải chăng đây là phước phần trong mạng của chị sẵn có tiền tài?” Ngược lại, người viết đọc trên báo thấy hiện nay có rất nhiều nhà tỷ phú trên thế giới tuyên bố phá sản. Phải chăng phước tiền tài trong mạng của họ đã hết?

Đến đây, xin dẫn lời của HT. Tịnh Không cũng như để kết thúc bài viết. Ngài phân định Thiện và Ác như sau: “Người nào chỉ biết lo cho bản thân mình, gia đình mình gọi là Ác. Người nào lo cho mọi người là Thiện. Chúng ta cứ lo cho mọi người trước thì chư Phật, Bồ-tát sẽ lo cho mình”. Ngài còn nói: “các Tôn giáo khác nói bạn tin Thượng-đế thì sẽ được cứu. Nhưng Phật giáo nói cho dù bạn tin cũng không được cứu, thậm chí lạy dập đầu bể trán chảy máu cũng vô ích. Muốn được cứu bạn phải thực hành, áp dụng lời dạy của đức Phật vào trong cuộc sống. Nghĩa là Phật dạy muốn phát tài thì phải tu bố thí (giúp đỡ người nghèo), muốn thông minh thì tu pháp bố thí, muốn mạnh khoẻ sống lâu tu vô ý bố thí (phóng sanh)”. Trong Ấn Quang Văn Sao, Ấn Tổ có kể câu chuyện: “Vào thời Bắc Tống, Trung Quốc. Có cư sĩ Phạm Trọng Yêm (989 - 1052), tự Hy Văn, thụy Văn Chánh, là một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự, nhà giáo dục. Ông là một trong hai người được Ấn Tổ hết lời khen ngợi, tán thán, khâm phục. Ông bỏ tiền ra nuôi ba trăm hộ gia đình nghèo khổ. Nhờ thế được phước nên tám trăm đời sau con cháu đều được vinh hiển, làm quan trong triều đình thì chức quyền cao, làm ăn thì phát tài”. Và trong kinh đức Phật cũng dạy: “Phụng sự chúng sanh là cách thiết thực cúng dường chư Phật”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2020)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3022)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2634)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3546)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3372)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4208)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3718)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4265)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2352)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3513)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4194)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3972)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2914)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3386)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3517)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4580)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3913)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4802)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4069)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3056)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3796)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3944)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3114)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3635)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4483)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3749)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2285)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2652)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3061)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2751)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4619)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4966)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2859)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5352)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2886)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3318)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4408)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4970)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4732)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3280)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4583)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4308)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6169)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3532)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4058)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6046)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5439)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4093)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33246)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3200)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4187)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4761)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3114)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3842)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3580)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6581)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2802)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3254)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4616)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3483)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant