Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

20 Tháng Hai 201300:00(Xem: 9228)
4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

Niên Biểu Phật Giáo Việt Nam

Trần Tri Khách


4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục


1- Phạm Văn Sơn (1960), Việt Sử Toàn Thư (viết tắt VSTT), California: Ðại Nam in lại, không ghi năm tái bản.
2- Nguyễn Quốc Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (viết tắt TÐNVLS), thành phố HCM: nhà xuất bản Văn Hóa in lần thứ tư, 1997
3- Lê Mạnh Thát , Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (viết tắt LSPGVN), tập 1, Huế: nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999. Tập 2 , thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
4- Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh (viết tắt TUTA), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1999.
5- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (viết tắt MCHH), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
6- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Nhân Tông (viết tắt TTTNT), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
7- Nguyễn Lang (Nhất Hạnh), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (viết tắt VNPGSL). Tập 1 (1973), Paris: Lá Bối in lần thứ hai năm 1977. Tập 2, Paris: Lá Bối, 1978. Tập 3, Paris: Lá Bối, 1985.
8- Trần Hồng Liên, Phật Giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975 (viết tắt PGNB), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1996.
9- Thích Ðức Nhuận , Ðạo Phật và Dòng Sử Việt (viết tắt ÐPVDSV)
10- Kiêm Ðạt, Ðại Giới Ðàn Thiện Hòa, California: Phật Học Viện Quốc Tế, 1983.
11- Thích Mật Thể (1943), Việt Nam Phật Giáo Sử Lược , California: Phật Học Viện Quốc Tế in lại 1984.
12- Ðông Tiến, Việt Nam 20 Năm 1975- 1995, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1996.
13- Phúc Trung , Lược Sử Gia Ðình Phật Tử, trang nhà Người Cư Sĩ : http://membres.lycos.fr
14- Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Ðức Hiệp, Một Vài Ghi Chép Thêm Về Văn Minh Cổ Và Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam, trang nhà www.giaodiem.com, tháng 8. 2002.


PHỤ LỤC 1:

CÁC DANH TƯỚNG CỦA HAI BÀ TRƯNG ÐƯỢC THỜ TẠI CÁC ÐỀN MIẾU NƯỚC TA CHO TỚI NGÀY NAY

(Tham khảo: Ðông Tiến, Nước Tôi Dân Tôi, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1989 - Nguyễn Quyết Thắng & Nguyễn Bá Thế, Tự Ðiển Nhân Vật Lịch Sử VN, Thành phố HCM: nhà xuất bản TP/HCM in lần thứ 4, 1997 )
- Ðền thờ ở làng Ðồng Nhân, Hà Nội: thờ tượng Hai Bà và tượng 12 vị nữ tướng.
- Ðền Hai Bà Trưng ở huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (kinh đô Mê Linh cũ).
- Ðền thờ Hai Bà Trưng ở làng Hát Môn, tỉnh Phú Thọ, các đồ thờ đều sơn màu đen tuyền. Trước đền là bàn thờ bà hàng bán bánh trôi đã đi theo phò giúp Trưng Vương.
- Các huyện gần sông Hát Giang (sông Ðáy) như Phú Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai tỉnh Sơn Tây có đền miếu thờ các vị anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương như: Thượng Cát, Bạch Hoa Công Chúa, Ðào Khang, Hoàng Ðạo, Ðỗ Năng Tế, Giám Sát Ðại Vương, Ả Tú, Ả Huyền, Nhất Trung Á, Mai Thi Trang, Chàng Năm, Nàng Năm, Thủy Hải Công Chúa ...

- Các huyện gần sông Ðáy (Hát Giang) tỉnh Hà Nam như Thanh Liêm, Kim Bảng có đền miếu thờ các anh hùng thời Trưng Vương như: Cao Bà Văn Tổ, Hảo Nương, Lưu Nương, Quách Thị, Khoan Nhân Ðại Vương,Vạn Phúc Phu Nhân, Lê Hằng Nghị, bà Tái Kênh, Linh Bảo Nương, Ngọc Dung Công Chúa, Ngọc Nhân, Nguyễn Phúc, Nguyễn Dung, Nguyễn Phúc Tính, Nguyệt Nga, Ông Ðốc, Quỳnh Anh Phu Nhân ...

- Ðền làng Trung Am, tỉnh Hải Dương thờ một vị tướng của Trưng Vương tử trận ở Lạng Sơn.
- Ðền thờ ông Tam Giang, một tướng giỏi của Hai Bà tại làng Bần Yên Nhân, tỉnh Hưng Yên.
- Ðền thờ bà Lê Chân ở Ngõ Nghè, Hải Phòng (nên còn gọi là Ðền Nghè).
- Ðền làng Tiên La, tỉnh Thái Bình, thờ bà Bát Nàn ( còn gọi là Bát Nàn Công Chúa, Bát Nàn Phù Tướng).
- Ðền làng Hiền Quan, tỉnh Phú Thọ thờ bà Hoàng Thiếu Hoa ( còn gọi là bà Thiều Hoa, Ðông Cung Tướng Quân).
- Ở tỉnh Phú Thọ cũng thờ danh tướng Ðô Dương. Ông có công lớn nhất trong việc giải phóng 65 thành trì năm 39. Năm 43, ông là người chỉ huy chiến tuyến sau cùng chống lại đại quân của Mã Viện ở Thanh Hóa sau khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát.
- Ở Sơn Tây thờ Thị Nội Tướng Quân Phùng Thị Chính và chồng bà là Ðinh Lượng. Bà Phùng Thị Chính võ nghệ cao cường, đánh giặc hăng say, sanh con ngay trên mình ngựa, quân địch khâm phục tôn là Mã Thị Nam Chinh. Khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát, bà cũng tử tiết. Chồng bà là Ðinh Lượng, một hào kiệt giỏi võ nghệ theo phò Trưng Vương cũng bỏ mạng trong trận chiến cuối cùng với Mã Viện
Tại năm tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên) có hơn 100 đền miếu thờ các danh tướng của Hai Bà Trưng, theo kết quả quan sát thực địacủa bác sĩ Trần Ðại Sĩ. Bản báo cáo này của ông được phổ biến trên trang nhà Internet www.thuvienvietnam.org mục tạp chí Thư Viện Việt Nam số 3. Vùng đất này, trong nhiều thế kỷ qua, chiến tranh xảy ra liên miên, gương hào hùng hẳn nhiên phải có mà đền miếu thì không sao tránh khỏi bị tàn phá,sụp đổ. Nếu các anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương không tạo được chiến công hiển hách, oai hùng, sẽ chẳng ai nghĩ tới chuyện tu bổ lại đền miếu để thờ phượng tới ngày nay.
Thời Trưng Vương là thời thịnh trị của nhà Hán, sau khi Hán Quang Vũ thống nhất được Trung Quốc. Mã Viện (17 BC- 44) là một tướng giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường của nhà Hán, vậy mà ông phải chuẩn bị lực lượng từ mùa xuân năm 42 tại các Quận phía Nam Trung Quốc và phải một năm sau mới hoàn thành cuộc tấn công. Một điểm cần nói thêm: Mã Viện thọ 62 tuổi, cho nên không có chuyện ông cầm quân đánh bại Trưng Vương vào năm 70 tuổi như ghi trong một số sử sách nước ta.


PHỤ LỤC 2:

BƯỚC ÐẦU ÐẠO PHẬT DU NHẬP VÀO NƯỚC TA

quan niệm lầm lẫn cho rằng nước ta bắt đầu có văn hiến là nhờ hai thái thú Tích Quang (năm 2) và Nhâm Diên (năm 24), lại thấy kinh điển Phật Giáonghi thức tụng niệm ở nước ta mang gốc gác chữ Hán, một số đáng kể các nhà biên khảo Phật giáo kết luận vội vã là đạo Phật du nhập vào nước ta từ Trung Quốc, bắt đầu vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ 1).

Thực ra mãi tới năm 67, khi vua Hán Minh Ðế (58- 76) nằm mộng thấy người vàng, cận thần Trương Nghị giải thích người vàng thân thểhào quang bay trên không đó là người đắc đạo ở nước Thiên Trúc gọi là Phật; vua mới cử một phái đoàn qua nước Ðại Nhục Chi thỉnh được kinh Tứ Thập Nhị Chương và mời được hai vị tăng Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan. Trong mấy thế kỷ đầu, hoạt động của Phật Giáo Trung Quốc chủ yếu là dịch kinh, xây chùa. Mãi tới năm 258 sư Châu Tử Hàng khai đàn, giảng kinh Bát Nhã ở kinh đô Lạc Dương, việc giảng pháp cho đại chúng Trung Quốc mới bắt đầu.

Ở nước ta, người Phật tử đầu tiên là Chử Ðồng Tử, đời Hùng Vương thứ 18 (chấm dứt vào năm 258 BC) được nhà sư Phật Quang (còn gọi là sư Bần, người gốc Ấn Ðộ) truyền pháp, trao cho cây gậy và chiếc nón. Tích này được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái. Chử Ðồng Tử được thờ ở đền Trung, trong cụm đền thờ vua Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ và ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chử Ðồng Tử là thương gia buôn bán đường sông, quen biết nhiều. Sau khi truyền pháp cho vợ là công chúa Tiên Dung, hai người bỏ hẳn việc buôn bán mà lo mở rộng việc truyền pháp.

Mặt khác, cũng có những bằng cớ về việc phái đoàn truyền giáo dưới sự hướng dẫn của Sona và Uttara do vua A Dục phái đi đã tới nước ta. Nhân dân ta đã dựng tháp tại thành Nê Lê ở núi Mẹ tại Ðồ Sơn để tạ ơn vua A Dục (269 BC- 232 BC) đã truyền Phật pháp tới Luy Lâu. Cho tới những năm 380- 420, những người lượm củi ở vùng núi Mẹ (Mẫu Sơn) còn thấy tháp này. Thiền sư Mật Thể trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (tr.69) cho biết từ năm 245 BC Trung Quốc và Ấn Ðộ đã giao thương với nhau qua cửa ngõ nước ta. HT Ðức Nhuận trong Ðạo Phật Và Dòng Sử Việt: vào thế kỷ 3 BC, phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ Kalinga sang phía Ðông rồi xuống Nam vì "cơn sốt " mua bán vàng có thể đưa một số tăng sĩ Ấn Ðộ theo thuyền buôn tới nước ta. Có thể sự thông thương giữa Ấn Ðộ và nước ta đã xảy ra trước đó khá lâu. Năm 135 BC, Hoài Nam Vương Lưu An dâng thư can ngăn vua Hán đừng đem quân đánh Nam Việt, có viết: Từ thời Tam Ðại, đất Hồ đất Việt không theo lịch pháp Trung Quốc. Thời Tam Ðại gồm nhà Hạ (2140 BC- 1711 BC), nhà Thương hay nhà AÂn (1711 BC- 1066 BC) và nhà Chu (1066 BC- 256 BC). Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) và Nhất Hạnh (VNPGSL 1), thời đó nước Văn Lang theo lịch pháp Ấn Ðộ (năm có 4 mùa, 12 tháng, tháng có 30 ngày).

Sự kiện dân ta gọi Thích Ca là BỤT, phổ thông trong ca dao còn truyền tụng tới ngày nay, là bằng chứng vững chắc khác cho thấy Phật Giáo du nhập vào Việt Nam trước tiên qua ngả Ấn Ðộ. Phật là một từ do pháp sư Trung Quốc Huyền Tráng tạo ra khi dịch kinh Phật vào thế kỷ 7. Lê Mạnh Thát ( Lịch Sử Phật Giáo VN tập 1) còn đi xa hơn, đưa ra giả thuyết Lục Ðộ Tập Kinh trước tiên được dịch từ chữ Phạn qua chữ Việt cổ, Khương Tăng Hội đã tham chiếu bản dịch chữ Việt này để dịch qua chữ Hán.

Bằng chứng nữa: khi vua Tùy Văn Ðế (589- 601) phục hưng đạo Phật Trung Quốc rồi, muốn truyền bá Phật pháp tới Giao Châu, sư Ðàm Thiên tâu : Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc.Khi đạo Phật mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu của Giao Châu đã có hơn 20 ngôi bảo sát (chùa), độ được hơn 500 vị tăng, dịch 15 cuốn kinh. Năm 255, Khương Tăng Hội (sau khi thọ đại giới tại nước ta) vào đất Ðông Ngô, lập am tranh thờ tượng Phật, bị quan chức Trung Quốc cho là kỳ lạ báo cho vua Ðông Ngô là Tôn Quyền. Nếu đạo Phật đã có mặt tại đây vào thời điểm này, có lẽ Khương Tăng Hội không bị những thử thách có thể mất mạng mới được phép hoằng dương Phật pháp.

Phật Giáo tại nước ta đã có chùa Liên Trì đã được xây từ thời Hùng Vương ( trước 258 BC). Năm 544, vua Lý Nam Ðế dựng chùa Khai Quốc trên nền cũ của chùa Liên Trì. Chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (tỉnh Sơn Tây) đã có mặt từ thời tể tướng Lữ Gia của nhà TRiệu (năm 110 BC). Ngôi chùa đầu tiên tại Trung Quốc là chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương xây cất khoảng năm 68 để làm chỗ Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan chứa kinh và dịch kinh do ngựa trắng chở từ nước Ðại Nhục Chi về.

Năm 39, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi tên thái thú nhà Hán tàn bạo Tô Ðịnh, sư cô Thiều Hoa rời khỏi chùa, mộ được 500, trở thành tướng tiên phong của Trưng Vương. Trưng Vương dẹp xong 65 thành trì, thâu hồi độc lập cho đất nước, sư cô Thiều Hoa lại trở về chùa làng Hiền Quan tiếp tục tu. Bà sinh năm 3, xuất gia năm 16 tuổi sau khi cha mẹ đều mất. Bà tịch năm 40. Năm 43, sau trận đánh cuối cùng ở Cẩm Khê, Hai Bà trầm mình xuống sông Hát, cuộc khởi nghĩa của TRưng Vương chấm dứt, một số tướng lãnh của Hai Bà nương mình nơi cửa Phật. Trong đó có Bát Nàn Phu Nhân. Tướng nhà Hán là Mã Viện tiến hành một cuộc thanh trừng quy mô, thậm chí bắt lưu đày dân cả một vùng Ðông Việt vào đất Giang Hoài và tìm bắt các người có khả năng lãnh đạo mà y gọi là "chủ soái" lưu đày ra Linh Lăng. Phật Giáo nước ta thời đó hẳn có tổ chức chặt chẽ mới che chở được những tăng ni mới và tồn tại được sau chiến dịch đồng hóa quy mô và gắt gao của Mã Viện, một kẻ chưa hề nghe nói tới Phật.

Như vậy Ni giới nước ta đã có mặt từ trước năm 39. Hẳn nhiên khi sư cô Thiều Hoa (còn gọi là Hoàng Thiếu Hoa) rời chùa đi cứu nước mà chỉ trong thời gian ngắn mộ được 500 quân thì phải hiểu là đạo hạnh của bà đã có sức thuyết phục đại chúng từ trước đó. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429 mới có một ni đoàn từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn ni chúng người Hoa.

Tăng đoàn nước ta cho tới cuối thế kỷ 2 đã được phát triển khá mạnh. Các đại sư và kinh sách của trung tâm Luy Lâu ít nhất đã đào tạo được hai nhân vật kiệt xuấtMâu TửKhương Tăng Hội.
Mâu Tử (khoảng 160- khoảng 230) người Thương Ngô, ham đọc đủ loại sách, thường đem Ngũ Kinh của Nho giáo ra vặn hỏi các Nho gia. Năm 180, thiên hạ loạn lạc, Mâu Tử đưa mẹ tới Giao Chỉ lánh nạn. Có lẽ ông bắt đầu để ý tới Phật pháp tại Luy Lâu từ năm 183. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ, lộ trình dài tới 5 ngàn dặm. Ít lâu sau mẹ mất, nghĩ thời thế nhiễu nhương, bèn dốc chí nghiên cứu đạo Phật tại Luy Lâu. Ông viết Lý Hoặc Luận năm 198 để trả lời những người quen biết chỉ trích ông phản bội Nho mà theo Phật. Theo Lê Mạnh Thát (Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam 1, tr. 26) Lý Hoặc Luận từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung QuốcNhật Bản. Ðây là sáng tác lý luận Phật Giáo đầu tiên bằng Hán văn, trình bày khả năng của Phật Giáo có thể thay thế Nho Giáo trong mọi lãnh vực xử thế.

Khương Tăng Hội (khoảng 200- 280) sinh ra, lớn lên, xuất gia và được thọ giới theo nghi thức "Tam Sư, Thất Chứng" tại Giao Châu. Mối liên hệ thầy trò trong tăng đoàn thắm thiết tới mức nhiều năm sau khi ba thầy tịch, Khương Tăng Hội vẫn còn thương tiếc. Tại Trung Quốc, tới năm 258 sư Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn tới Lạc Dương tổ chức truyền giới theo nghi thức "Tam Sư Thất Chứng", nghi thức này mới được bắt đầu tại Trung Quốc. Năm 247 Khương Tăng Hội chống gậy, vân du qua Ðông Ngô (Trung Quốc) hoằng pháp. Pháp sư An Thế Cao, dịch giả kinh An Ban Thủ Ý, ca ngợi ông là người giảng kinh Thiền xuất sắc. Năm 258, vua Ðông Ngô Tôn Lâm phá chùa, giết sư, bị Tôn Hạo giết rồi nối ngôi. Khương Tăng Hội góp công lớn phục hồi Phật Giáo Ðông Ngô. Tại Ðông Ngô, ông dịch 14 quyển kinh ra Hán văn, trong đó có Lục Ðộ Tập Kinh. Sư ông Nhất Hạnh suy tôn Khương Tăng Hội là tổ Thiền Tông Việt Nam, mặc dù phần đóng góp chính yếu của ông là cho Phật Giáo Trung Quốc.

Khương Tăng Hội không phải là thí dụ duy nhất cho thấy từ khởi nguyên, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa của Phật Giáo Trung Quốc. Ðầu thế kỷ 4, nhiều tăng sĩ Trung Quốc tìm đến chùa Tiêu Sơn ( Bắc Ninh) cầu học về Tịnh Ðộ, sau đó trở về Trung Quốc hoằng dương pháp môn này. Sư Ðàm Thiên (542- 607) sau khi thâu đạt về Duy Thức Học và Nhiếp Ðại Thừa Luận tại Luy Lâu đã giúp vua Tùy Văn Ðế phục hồi Phật Giáo Trung Quốc.

Tóm lại, từ khởi nguyên Phật Giáo du nhập vào nước ta từ Ấn Ðộ. Phật Giáo Ấn Ðộ đã truyền tới nước ta trước khi tới Trung Quốc. Trong những thế kỷ đầu, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa cho Phật Giáo Trung Quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2022)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3023)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2636)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3547)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3374)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4209)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3722)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4266)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2354)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3517)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4195)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3974)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2917)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3395)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3520)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4581)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3917)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4804)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4070)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3057)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3797)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3946)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3115)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3636)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4485)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3750)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2286)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2653)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3063)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2752)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4621)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4969)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2862)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5355)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2889)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3322)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4416)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4972)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4734)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3281)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4586)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4309)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6171)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3534)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4067)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6048)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5440)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4097)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33266)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3202)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4193)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4763)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3115)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3844)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3581)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6587)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2803)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3255)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4618)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3485)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant