Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cái Chết Của Thượng Đế Và Minh Triết Phật Giáo

20 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 7952)
Cái Chết Của Thượng Đế Và Minh Triết Phật Giáo

Cái Chết Của Thượng Đế Và Minh Triết Phật Giáo


Quán Như

Việt Nam, người viết về triết gia Friedrich Nietzsche nhiều nhất là Phạm Công Thiện. Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát.

Nhưng người nghiên cứu nghiêm chỉnhLinh MụcTôn Nghiêm. Thái độ nghiêm chỉnh này đưa đến chuyện mất niềm tin vào một Thượng Đế giả định của lý trí. Lê Tôn Nghiêm có một phản ứng can đảm là trả áo vì không còn niềm tin của một người chăn chiên.

Mấy triết gia Việt Nam đi trước thời đại. Họ đặt vấn đề hố thẳm của tư tưởng vào thập niên 60 vì hai thập niên sau, ở Anh Quốc có một phong trào nghiên cứu tim hiểu tư tưởng Nietzsche một cách rầm rộ không kém. Hội Nghiên Cứu Nietzsche được thành lập tại Anh vào năm 1990 và sách vỡ nghiên cứu Nietzsche tràn ngập thị trường chữ nghĩa. Các bài nghiên cứu về sự liên hệ giữa tư tưởng Nietzsche và Socrate, Kant, Schopenhauer, Heiddegger, thi sĩ Blake, Darwin, các nhà phê bình hậu hiện đại, thái độ của ông về Ky Tô Giáo, Phật Giáo vân vân... được in ra nhan nhản. Các lời phát biểu của Nietzsche thường gây ra tranh cãi được phân tích tường tận.

Tuy nhiên không phải triết gia nào cũng có thiện cảm với Nietzsche. Bertrand Russell nhạy cảm với chũ nghĩa quốc xã, nên cho Nietzsche cổ vỏ một thứ triết lý con người quyền lực, nhằm loại bỏ những người hoặc chủng loại kém cỏi (như Quốc Xã đã tiêu diệt Do Thái và thí nghiệm tạo những con người tuyệt hảo như trong phim The Boys From Brazil) khỏi mặt địa cầu và chỉ còn lại những con người hoàn hảo theo kiểu Nietzsche, một con người ‘không còn tình cảm, tàn nhẫn, gian trá, chỉ chuyên nghĩ tới quyền lực’. Dĩ nhiên những ngộ nhận đó ngày nay không còn nữa.

Nói tới Nietzsche là phải nói tới ‘đối thủ’ của ông, người mà ông đã khai tử một cách gọn gàng; ‘Thượng Đế đã chết’. Thượng Đế ngày xưa được ưa chuộng bao nhiêu thì bây giờ bị lạnh nhạt bấy nhiêu, nhất là ở Tây Phương. Ngay cả hàng ngũ chăn chiên cũng không còn mấy người tin là Thượng Đế có thật (ít nhấtThượng Đế hữu ngã). Tuỳ Viên báo chí của Tổng Giám Mục Canterbury (Giáo Trưởng cao nhất của Anh Giáo) đã tuyên bố trong tờ Independence là có nhiều Mục Sư không còn tin tưỏng vào sự hiện diện của Thượng Đế nữa nhưng vẫn tiếp tục chăn chiên. Nói một cách khác các ứng viên Mục Sư Anh Giáo không còn phải xác nhận lòng tin Thượng Đế trước khi được tuyển làm Mục Sư, hay có khi còn được phong vào hàng ngũ Tổng Giám Mục.

 

Cái Chết Của Thượng Đế

 

Nietzsche muốn nói gì khi tuyên bốThượng Đế đã chết và còn bảo là tất cả chúng ta là những kẻ đã giết Ngài?

Xác nhận của Nietzsche không phải là một xác nhậntính cách thần học (nghĩa là ai muốn tin thì cứ tin). Nietzsche cũng không đưa lý luận đầy đủ để chứng minhThượng Đế không hiện diện, mà nói là Ngài chỉ hiện diện trong tâm trí của con người. Nó chỉ là một lời kêu cứu trầm thống của triết lý và văn hoá Tây Phương hiện đại. Nói một cách khác nó nói lên sự mất mát lòng tin vào thế giới quan siêu hình cùng với toàn thể hệ thống giá trị (nhất là các giá trị luân lý) đã được chấp nhận trong văn hoá và tôn giáo (it refers to the complete loss of belief in the accepted religious and metaphysical world view along with the system of values it upholds). Lời tuyên bố này tiên đoán sự phát hiện của thời đại hư vô, một thời đại thiếu trù phú về văn hóa do việc mất mát lòng tin này. Oái oăm thay việc mất lòng tin vào Thượng Đế mà người Tây Phương xem là tối thượngvô giá này, lại là một hệ quả tự nhiên và hợp luận lý của thế giới quan siêu hình và tôn giáo đã được chấp nhận trong lịch sử văn hoá Tây Phương.

Tất cả bắt đầu từ nền tảng tư tưởng của Socrate và Plato phân chia hai thế giới, bị chia cắt riêng biệt: một thế giới vô thường, thực tếhiện sinh; một thế giới khác trường tồn, nền tảng của mọi hữu thể. Chính thế giới Thực Hữu (True Reality) này mang ý nghĩa cho mọi ý nghĩagiá trị cho ‘đời sống’. Quê nhà đích thực của con ngườithế giới thiêng liêng này, nó giúp cho con người định hướng đời sống của mình. Thế giới này cũng cho con người khả năng dùng lý trí để ‘làm hoa tiêu cho linh hồn’ (the pilot of the soul). Trong khi thế giới tự nhiên, hiện hữu không có một giá trị gì, không ý nghĩa tự tại nào, mà chỉ là một phản ảnh yếu ớt, một phó bản mờ nhạt của thế giới ‘thực hữu’. Trong nền tảng thế giới nhị nguyên này, đời sống đích thực của con ngườiđời sống đi tìm thực hữu trường cữu của thế giới ‘bên trên’, và mục tiêu của đời sống cho đến lúc qua đời là theo đuổi con đường đạt được kiến thức, thiết lập mối liên hệ với, và cuối cùng đi vào, thế giới ‘trường cữu’ đó. Đó là quê nhà đích thực của con người. Giá trị nhân sinh cao cả nhất của con người về mặt tôn giáo, đạo đức, thẩm mỹ, không thể tìm ở thế giới tự nhiên này, nhưng chỉ có thể tìm thấy trong một thế giới đã được siêu nhiên hóa. Thế giới hiện hữu chỉ qua là thế giới vô thường, vô nghĩa, vô giá trị và có thể gọi là thế giới ‘bất thiện’ (evil). Do đó những đam mê, ước muốn và mục đích đều vô giá trị và vô nghĩa. Và những tình cảm này phải được chế ngự bỡi những thiện nhân (Good man). Trong thế giới Tây Phươngtư tưởng của Plato đã cung cấp nền tảng thần học cho Ky Tô Giáo. Như Augustine nói: ‘Ky Tô Giáo là tư tưởng Plato của quần chúng’ (Christianity is Platonism for the people). Thế giới thực hữu trường tồn của Plato trở thành Vương Quốc của Thượng Đế! Thế giới này còn được nhiều người ‘vươn tới’ hơn thế giới thuần lý của triết gia, vì chỉ cần một điều kiện duy nhấtLòng Tin là có thể về với nước Chúa! Tuy nhiên đối tượng của lòng tin chỉ có thể minh chứng được khi chết (eschatological verification).

Plato, diễn dịch tư tưởng Socrate, theo Nietzsche là một bước ngoặt và là đỉnh cao nhất của lịch sử thế giới. Mặc dù Ky Tô Giáo tuyên bố là chỉ cần lòng tin là được lên thiên đàng, tư tưởng Plato, hay có thể nói là toàn thể lịch sử tư tưởng Tây Phương, khuyến khích con đường theo đuổi trí thức của những con ngườithiên tư. Con đường theo đuổi tri thức đã định tính và định hướng cho việc hình thành văn hoá Tây Phương cho đến ngày nay. Ngang trái thay, chính vì theo đuổi con đường đi tìm tri thứcsự thật đã khiến cho nhãn quan thế giới nhị nguyên của Plato không còn đứng vững nữa. Có nghĩa là đến lúc không còn mấy ai tin vào sự hiện hữu của Thượng Đế. Và việc mất lòng tin này đưa đến một thời đại tràn ngập chủ nghĩa hư vô (nihilism). Việc theo đuổi đi tìm sự thật khiến người ta khám phá ra được một chân lý là, không có một chân lý nào cả, không có cái gọi là thế giới thực hữu trường tồn theo thị kiến của Plato. (Phật trong 49 ngày tỉnh tọa cũng không tìm thấy gì khác hơn không có cái gì gọi là trường tồn cả, Tất cả vô thường vì tất cả là duyên khởi). Nếu khôngthế giới bất biến trường tồn thì cũng không có vương quốc của Thượng Đế và không có cả một Thượng Đế không có vương quốc! Cái chết của Thượng Đế có nghĩa là sự sụp đổ toàn diện của một thế giới quan, sự giải thích về sự hiện hữu, cả một hệ thống giá trị, đạo đức diễn dịch ra từ thế giới quan này. Tại sao chuyện ‘động trời’ như thế có thể xảy ra được?

Sự kiện này liên hệ đến toàn thể lịch sử triết lý và thần học Tây Phương, nhất là sự phát triển của khoa học hiện đại (khoa học theo nghĩa của từ ngữ Đức Wissenschaft gồm cả khoa học chính xác thực nghiệm lẫn khoa học nhân văn như khoa ngữ văn mà Nietzsche là một chuyên viên).

Đầu thế kỷ 18 bắt đầu với nhà tư tưởng Ý Vico, các nhà triết lý đi đào bới lịch sử để tìm các dấu hiệu có ý nghĩa để giải thích sự liên tục giữa quá khứ, thời đại họ đang sống và hướng đi của lịch sử trong tương lai. Mặc dù là quan điểm khác nhau, các triết gia này đều nhìn lịch sử qua lăng kính Plato, tất cả đều kết luận là lịch sử nhân loại tiến hoá theo một mục đíchý nghĩa và mục đích này phản ảnh những nổ lực và tiềm năng của con người. Con người và hành động là trung tâm điểm của vũ trụvũ trụ này có mục đích và được cấu trúc một cách nào đó để thực hiện những mục đích nói trên. Nhưng theo Nietzsche, vì những khám phá của các khoa học gia, nhất là Darwin, cho thấy là ý nghĩamục tiêu chỉ là sự lừa bịp vĩ đại và chúng chỉ phát xuất từ lòng mong ước của con người. Với tác phẫm Về Nguồn Gốc Của Các Chủng Loại (On the Origin of Species), các dữ kiện khoa học sẵn có cho thấy con người bây giờ không còn là trung tâm của cái gì ngoài cuộc đời của chính họ, không có bằng chứng gì chứng tỏ những thế lực siêu nhiên lo lắng chăm sóc cho số phận của con người. Thế giới thiên nhiên không có cấu trúc nhằm mục đích để ‘lo’ cho sự an sinh của con người hơn là các loài vật khác. Hoàn toàn không có bằng chứng nào để chúng ta có thể kết luận lạc quan kiểu đó. Theo Darwin con người cũng giống như các loài vật khác và trong vũ trụ không có luật lệ cần thiết nào để bảo đảm sự tiến bộ trong tương lai. Nietzsche nói trong tác phẩm Daybreak:’Trước đây người ta đi tìm cái cảm giác về sự cao cả của con người bắt nguồn từ siêu nhiên. Con đường này nay đã trở thành `con đường cấm: đứng gác cổng có mấy con vượn, bên cạnh có các loài thú dữ khác, như thể muốn nói với con người là: đừng có đi về hướng này nữa’. Tự xem mình khác hẳn với thiên nhiênlinh ư vạn vật, con người xem mình là một sản phẩm của một thế lực siêu nhiên nào đó, có một linh hồn siêu nhiên hóa, không còn được mấy ai có suy nghĩ chấp nhận nữa. Nietzsche tự hỏi phải chăng cái cảm tưởng cao cả đó phát sinh từ một hướng khác?

Nietzsche dĩ nhiênkhông vui vẻ gì khi thấy Thượng Dế chết vì ông không chấp nhận chủ nghĩa hư vô. Thượng Đế được xem nhưvô giá trong văn minh và văn hoá Tây Phương, vốn là nguốn cỗi lòng tự hào của con người, và nếu Ngài (hiểu theo lăng kính của Plato, nền tảng triết lý và thần học Tây Phương) không còn nữa, tất cả sẽ bị tràn ngậpphá hủy bởi một thời đại tàn bạo như thú vật. Trong Những Suy Nghiệm Không Đúng Thời (Untimely Meditations) Nietzsche cho thấy nỗi lo sợ của ông:

Lý thuyết cho là giữa con người và con vật không có gì khác nhau- nếu được truyền bá trong một vài thế hệ nữa, không ai ngạc nhiên khi thấy con người chìm đắm trong lòng vị kỷ nhỏ nhen, tham lam, tan vỡ và biến dạng không còn là con người nữa. Thay vào đó, trong tương lai có những hệ thống cá nhân ích kỷ, nhóm người này bốc lột những nhóm người khác.

Cái chết của Thượng Đế và sự phát sinh của chủ nghĩa hư vô, mặc dù là do kết quả của một sự duyệt xét thành khẩn về những định chế mà người Tây Phương tạo dựng ra, lẽ ra phải đưa đến những gì có giá trị hơn cho nhân loạitrái lại nó tạo ra một hố thẵm về mặt văn hoá. Sự sụp đổ của ý niệm Thượng Đế làm mở ngỏ những sức mạnh tàn hại khốc liệt cho văn hóa nhân loại. Những gì mà chúng ta tự hào về con người đang bị tàn phá sụp đổ mà chưa có hệ thống giá trị nào thay thế.

Tất cả những hệ thống giá trị là sản phẩm của con người, do chính con người sáng tạo ra, và nếu chúng bị hủy bỏ đi, cả vũ trụ chúng ta đang sống trở thành lạnh lẽo, vô nghĩa. Con người cảm thấy mình bị lừa dối trong một thời gian quá dài và tự dưng cảm thấy hoàn toàn vô vọng vì mất mát quá lớn này. Tuy nhiên chưa ai có thể biết chắc là cuộc đời thực sự vô nghĩa không, hay nó có thể có ý nghĩa vượt ngoài sự suy nghĩ của con người. Nietzsche cũng nghĩ như thế và ông ta bắt đầu đi xây dựng một thế giới quan mới và một hệ thống giá trị mới để thay thế cho hệ thống đã bị sụp đổ. Cái chết của Thượng Đế đặt lại một câu hỏi căn bản về ý nghĩa của đời sống và của con người mà tất cả mọi người đều phải đi tìm ra câu giải đáp. Nietzsche ví von điều nầy với một con tàu lại ra khơi trong một chuyến viễn du mới, một cuộc hành trình mới.

Mỗi cá nhân có những tiềm năng chưa hề được vén mở và khi tiềm năng này được hé mở, đời sống của họ trở nên vô giá, có ý nghĩa hơn và làm con người thõa mãn không biết tới mức nào mà lường. Lầm lạc một lần để đi theo viễn kiến của Plato và Thượng Đế hữu ngã của Ky Tô Giáo không có nghĩa là tất cả mọi con đường tiến hóa khác trở thành những ngỏ cụt, không có nghĩa là không còn một con đường nào khác. Nietzsche dĩ nhiên làm chuyến viễn du mới, chỉ tiếc là ông chưa đi được xa để thấy mặt trùng dương, Đề nghị trả lời của ông khi đối mặt với chủ nghĩa hư vô, đề nghị lượng giá lại mọi giá trị chưa đi đến đâu thì ông qua đời. Tuy nhiên ông cũng đã để lại cho chúng ta vài dấu ấn, dù mờ nhạt. Nietzsche có nhắc tới mối lo sợ của ông là mọi người trong cơn khủng hoảng đối mặt với hư vô, có thể tìm về Phật Giáo như là một niềm an ủi trong hố thẵm in lặng.

Phật Giáo Qua Lăng Kính Của Nietzsche

Nietzsche thấy có một sự tương đồng giữa thời đại của ông và thời đại của Đức Phật. Theo Nietzsche Đức Phật cũng thấy hoàng hôn của những thần tượng như ông ta thấy Thượng Đế đã chết. Nhưng thay vì tìm một con đường mới vén mở những tiềm năng của con người để đối phó lại với hư vô, Đúc Phật tạo ra một tôn giáo giúp con người ‘thích ứng’ với hư vô một cách ‘an lạc’! Đức Phật dạy những đệ tử cùng thời làm thế nào để đối diện với sự vô nghĩa của hữu thểđời sống, đối diện với một vũ trụ mà trong đó con người không có một chỗ đứng đặc biệt nào hơn những chúng sinh khác, mà vẫn giữ được an lạc. Đó tình trạng mà theo Nietzsche PG gọi là ‘nhập nát bàn’. Mặc dù Đức Phật đã tránh được một thảm họa do chuyện Thượng Đế đã chết, tức là rơi vào tình trạng hỗn mang vô tổ chức, Đức Phật đã không hiểu im lặng của hố thẵm, cái tình trạng tâm lý tuyệt vọng khi thấy cái thế giới quan mà mình dùng làm nền tảng của tất cả hệ thống giá trị bị hoàn toàn sụp đổ. Cái tuyệt vọng của một người khi thấy là đời sống hoàn toàn không có một ý nghĩa nào và do đó thế giới mình sống cũng hoàn toàn không có một giá trị hay ý nghĩa nào. Đức Phật vì không hiểu được hố thẵm đó từ đâu, nên đã chấp nhận hố thẵm đó như là hiện trạng cuối cùng của hữu thể. Đức Phật đã tìm cho con người một mục đích của sự sống, đó là nát bàn, một liều thuốc cuối cùng, giúp con ngưòi an lạc, vô dục, vô cầu trong đó mọi khổ đau của trần thế sẽ không còn nữa và cái chết được xem như là niềm an lạc tối hậu. Do đó Nietzsche xem Phật Giáo là một tôn giáo cho một nền văn minh đã mệt mõi đến hồi kết thúc. Mặc dù theo Nietzsche Đức Phật đã không siêu việt hóa được cái hố thẵm hư vô, ông xem Đức Phật như là một người y sĩ thực sự đã tìm được phương thuốc cứu chửa cho con bệnh. Không giống như những tôn giáo khác, Phật Giáo không hứa hẹn với con người những mục tiêu giả tưởng, mà chỉ cung cấp những mục tiêu thực tế. Con đường Phật đạo đưa tới hạnh phúc thực sự chứ không phải là một thứ hạnh phúc hứa hẹn hoang đường. Tuy nhiên Đức Phật không vượt qua được hố thẵm hư vô và chỉ làm tăng thêm cái vô nghĩa của một vũ trụ cứng nhắc, lạnh lẽo và vô nghĩa. Nietzsche thấy những nhà tư tưởng đương thời mất niềm tin nơi Ky Tô Giáo nên bắt đầu thấy Phật Giáo quyến rũ nên lo sợ là Phật Giáo sẽ lần lần lan tràn qua Âu Châu. Phật Giáo cung cấp một cách trị liệu cho tâm trạng thất vọng của thành phần trí thức Âu Châu và giúp họ đối đầu với hố thẵm hư vô một cách an lạc.

Giải Pháp Của Nietzsche Để Đối Đầu Với Hố Thẳm Hư Vô

Nietzsche đi tìm câu trả lời cho câu hỏi căn bản: Nếu nguồn cỗi của chân lý, thế giới tuyệt đối thường hằng của Plato không có thực, thế giới hiện sinh vô thườngchúng ta đang sống thì sao? Câu trả lời của Nietzsche, ngạc nhiên thay, không khác câu trả lời của Phật Giáo Đại Thừa là bao nhiêu:

Khi chúng ta hủy bỏ thế giới ‘thực’ thì còn lại thế giới nào? Có lẽ là thế giới hiện sinh? NHƯNG KHÔNG! Hủy bỏ thế giới thường hằng có nghĩa là chúng ta cũng hủy bỏ luôn thế giới hiện sinh, vô thường.

Để độc giả thấy cái nhìn của Nietzsche gần gũi với Phật Giáo tới mức nào, câu khẳng định của Đại Thừa có lẽ nên được nhắc tới đây: Ta Bà tức Tịnh Độ. Thiền bẻ gẩy cái nhìn nhị nguyên để đạt tới cái khởi đầu của vòng khâu Bát Chánh Đạo: Chánh kiến. Nietzsche cũng thấp thóang nhìn thấy chính kiến. Cái còn lại với chúng ta chỉ giản dị là ‘thế giới’, khi thế giới giao lưu với cuộc đời và được giải thích qua thị kiến của con người. Theo Nietzsche tới đây chúng ta không còn ai ngạc nhiên khi thấy Ông đã quá gần gũi với lý giải duy thứccuối cùng đến cái mà Phật xem là chân lý căn bản và tột cùng: duyên khởi. Ai thấy được duyên khởi tức là thấy chánh pháp và ai có được chánh kiến về pháp tức là thấy được lý duyên khởi. Thế giới được mô tả và định nghĩa một cách có thể hiểu được: đó là ‘ý chí quyền lực (will to power) chứ không là gì khác ‘ Cái ý niệm ‘ý chí quyền lực’ của Nietzsche thay thế cho ‘ý niệm’ niệm về Thượng Đếý niệm này ‘rút ra được từ thế giới hiện sinh’ ( nói theo Phật Giáo, thế giới ở đây và bây giờ). Nhờ cái ý chí quyền lực này mà thế giớicuộc đời lại một lần nữa có ý nghĩacon người có được một thị kiến mới, đầy ý nghĩa về hữu thể hiện sinh được và giúp chúng ta vượt qua hố thẵm hư vô. Qua bờ bên kia. Yết Đế Ba La Yết Đế.

Làm thế nào Nietzsche đạt được chánh kiến này?

Theo quan điểm văn hóa của Nietzsche, trong toàn thể lịch sử văn hoá Tây Phương, chỉ có một dân tộc đạt đến hình thức tuyệt hảo này: dân Hy Lạp cổ đại. Họ là một dân tộc thiên tài ‘độc nhất’ trong lịch sử nhân loại bởi vì họ đã tạo ra nhiều nhân vật cao cả nhất. Để thấy tháp thoáng là nhân loại sẽ ‘đi về đâu’, Nietzsche trở về với hình ảnh của dân Hy Lạp. Đi tìm nguyên nhân tại sao dân Hy Lạp có thể tạo ra nhiều hình ảnh cao cả như vậy, Nietzsche khám phá ra là nhờ thái độ của người Hy Lạp đối với dục vọngđam mê (desires and passions; để cho độc giảcảm tưởng gần gũi, đó là thái độ đối với tham và sân). Người nhìn thấy những tàn hại ghê gớm của ‘bản tính’ con người có thể gây ra, nhưng khác với Plato họ không tách con người ra khỏi bản tính. Họ không có ý định giải thích cái này là có giá trị hơn cái kia bằng cách dựa vào những nguồn gốc siêu nhiên ‘chỉ có trong trí tưởng tượng’, nhưng họ thấy được những gì cao đẹp nhất ở ngay trong bản tính con người (trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật!), ngay trong thế giới ta bà này. Người Hy Lạp nhận là trong con người có cả những chủng tử xấu xa và ‘vô nhân’, nhưng thiên tài của họ nằm ở chỗ là họ tạo ra những phương cách đối trị lại những chủng tử xấu xa đó. Trong tác phẩm của thi sĩ Hy Lạp, Hesiod, một trong những tính chất căn bản của con ngườixung đột, tranh chấp mà ông gọi là Eris. Hesiod nhân cách hoá Eris thành hai ông thần: một ông ‘ác’ luôn gây chiến tranh và một ông ‘Thiện’ luôn là hiệp sỉ khuyên khích mọi người cạnh tranh (chứ không phải xung đột) nhau. Nietzsche phê bình đây là điểm sáng giá nhất trong tư tưởng Hy Lạp. Điều quan trọng là, ‘bản tính’ của con người có thể được uốn nắn không phải để đưa đến những hành động chiến tranh, mà khiến mọi người tranh nhau để hướng thượng thăng hoa. Người Hy Lạp không có phán đoán ‘nhân tâm’ là thiện hay bất thiện, bởi vì đó chỉ là phản ảnh thiên nhiên, phi thiện-phi ác. ‘Chân tâm’ chỉ là ‘tự nhiên nhi nhiên’. Tùy con người đi hướng nào thì chừng đó mới có thiện ác. Nếu dùng theo hướng sáng tạo, cạnh tranh con người có thể thăng hoa và theo đuổi sự tuyệt hảo, arete. Những bi kịch ngày nay mà mọi người còn thưởng thức như Sophocles, Aeschylus và Euripides, cũng được sáng tạo từ tinh thần agon này. Người Hy Lạp biết nghệ sĩ là người luôn luôn dấn thân trong một cuộc đấu tranh cá nhân.

Qua những thí dụ về chủng tử tốt qua thi sỉ Hesiod, người Hy Lạp tạo ra một mẫu mực đấu tranh (agon) để theo đưổi sự tuyệt hảo và mẫu mực này đã trở thành câu trả lời cho hố thẵm hư vô. Eris của Hesiod đã trở thành ý chí quyền lực của Nietzsche. Củng như Eris của Hy lạp, will power này cũng có thể là chủng tử thiện hay ác. Nhưng cuộc tranh đấu này, thay vì tranh đấu với những người khác nhau, nó là một cuộc tranh đấu trong chính bản thân con người. Kẻ thù ta đâu có phải là người. Kẻ thù ta tên nó là gian ác, thù hận. Khả năng tự chế dục vọng, si mê Nietzsche gọi là khả năng tự chế (Self overcoming- Selbstuberwindung). Con đường tự chế ngự dục vọng-si mê là con đường vượt qua hố thẵm. Ý chí quyền lực trong mỗi cá nhân được Nietzsche đề nghị thay thế cho nổ lực tôn giáo (Ky Tô Giáo). Mục tiêu của đời người không phải là hướng về một thế giới khác, mà là nổ lực tái tạo cá nhân trên thế giới này để thăng hoa, đi tìm cái tối hảo (exellence-Ubermensch). Mục đích tạo ra Ubermensch trở thành ý nghĩa của cuộc đời.

Khuôn mẫu persuit for excellence do văn hoá Hy Lạp cung cấp vẫn chưa đủ trong thế giới hiện nay. Một thị kiến mới về con ngườicuộc đời nếu muốn được mọi người tin tưởngchấp nhận phải khế hợp với những tiến bộ về khoa học. Tuy nhiên một thái độ máy móc về khoa học cũng sẽ đưa con người về hố thẵm hư vô. Cái nhìn phân tích máy móc không giúp ích gì trong việc đi tìm ý nghĩa của con ngườicuộc đời. Khi đọc tác phẩm Lịch Sử Chủ Nghĩa Duy Vật (History of Materialism) của Friedrich Lange, Nietzsche tìm ra một phương tiện để phản bác chủ nghĩa duy vật máy móc : đó là lý thuyết sinh động của một toán học gia, Roger Boscovitch. Vật thể thay vì chỉ là một khối ù lì bất động, cứng nhắc, được thay thế bởi puncta, những lực vô hình, không định hướng, trung tâm của lực, mà các khoa học gia gọi là Những Trung Tâm Lực (Force-centres-Kraftcentren). Cái mà chúng ta gọi là một khối rắn chắc thật ra các chùm-lực. Cái mà chúng ta nghĩ là không châm thủng được, thực ra chỉ là những phản lực. Tất cả những hiện tượng tự nhiên từ một vi tử đến con người theo mô thức này, là tổng hợp của những lực. Con người cũng tiến hóa như thiên nhiên, dùng những hình ảnhchúng ta có về chính bản thân của ta, là tổng thể của những lực ‘bên trong’ chúng ta như nhu cầu, bản năng, tình cảm, đam mê. Ai am hiểu giáo lý Duy Thức đýu biết là ‘tư tưởng’ và cảm giác chỉ là kết quả của sự giao lưu giữa tâm vươngtâm sởý thức chỉ là một ‘điều hợp viên’, Con người chấp vào ngã hữu vì nghĩ là phải có một ngã hữu điều hợp tư tưởng và tình cảm này. Tuy nhiên trong Phật Giáo có thể có tư tưởng nhưng không có người suy nghĩ (Thoughts without a thinker). Nietzsche thấy là thuyết vật thể sinh động của Boscovitch phải được bổ khuyết thêm bằng ‘ý chí bên trong’ (inner-will), những động lực từ bên trong khiến chúng ta suy nghĩ hay hành động- và ngay cả một nguyên tử cũng có một wille zur Match này. Có thể gọi những động lực tiên khởi (nisus) này là ‘bản năng’ thêm vào thuyết khối- lực của Boscovitch thành Willen-Punktationen hay các điểm-lực (Will points), Đây là nổ lực của Nietzsche đi tìm nền tảng khoa học cho tư tưởng về bản chất nhân loại (nhân tâm-chân tâm) một nền tảng khoa học. Tất cả những nhu cầu, bản năng, dục vọngthành quả của sự giao tiếp của những lực trong hiện tượng vật lý. Do đó không có cái gọi là vật chất, và do đó cũng không có cái chủ nghĩa duy vật máy móc. nhưng chỉ có những cuộc tranh chấp giữa những lực, giữa ý chí này và ý chí khác. Nietzsche do đó tuyên bố ‘thế giới nhìn từ bên trong, thế gìới được định nghĩa bằng những tính chấtý nghĩa, không có gì khác hơn là ý chí quyền lực. Dựa trên mô thức các lực sinh động tạo ra vật chất, ngay cả đất đá, nếu con người có một hy vọng nào tìm điều gì có thể thay thế cho khát khao về tôn giáo đã bị sụp đổ (Thượng Đế-thế giới ý niệm của Plato). con người phải hướng nội để ‘làm việc’ với những ‘lực’ bên trong chúng ta như nhu cầu, tình cảm, đam mê bằng quá trình ‘tự chế ngự’ (self-overcoming- Selbstuberwindung). Phật Tử hẳn ai cũng nhớ lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: tự thắng mình mới là chiến thắng lớn nhất! Nếu Nietzsche sinh ra là một người Phương Đông, nghiên cứu Phật Giáo bằng Pali-Sankrit-Hán-Tạng hay cả Việt ngữ, ông khỏi cần phải lập thuyết dông dài mất thì giờ, vì những điều ông nói là những giáo pháp căn bản của Đức Phật: Duyên Khởi. Vô minh-tương đương với cái mà Nietzsche gọi là primitive nisus- volitional actions và trăm ngàn pháp của tâm. Bắt đầu từ hành là bắt đầu tạo nghiệp- nghĩa là từ lúc có will to power. Và lời tuyên bố sau đây không có khác một chút nào về quan niệm giải nghiệp của Phật Giáo:

Chúng ra có hoàn toàn tự do để tái tạo chúng ta và khai mở khả năng tiềm ẩn mà mỗi người chúng ta đều có. Chỉ khi nào chúng ta đi theo con đường đó chúng ta mới có thể thấy đời sống lại có ý nghĩa và có thể được thỏa mãn sâu xa. Chúng ta sẽ cảm nghiệm chính chúng ta như một cuộc đời sống động, một cuộc đời nên sống và có thể sống. (We are free to re-create ourselves and release the potential that we each have. It is only by following such a path that we can once find more meaningful and deeply satisfying lives. We will come to experience ourselves as living life as it should be and can be lived)

Nói suông chuyện chuyển nghiệp, tu hành, giải thoát thì ai cũng nói được, nhưng làm thế nào để sống đạo, thực hành con đường giải thoát mới là chuyện khó. Về điểm này Nietzsche không giúp ích được gì nhiều. Chỉ thấy rãi rác một vài lời khuyên trong các tác phẩm Daybreak, The Wanderer and His Shadow (Hoài Khanh đã dịch tác phẩm này trước 75) và The Twilight of the Idols (đã làm cho Lê Tôn Nghiêm hết tin Chúa), Nietzsche nói là tự chế cũng giống như một người làm vườn, tỉa cỏ dại, cắt cành cây, ươm cây...Nietzsche nói:

Huân tập các chủng tử tâm linh tốt trong mảnh đất mà đam mê đã được tiết chế là một công việc khẩn cấp và tức thời (To sow the seeds of good spiritual work in the soil of the subdued passions is then the immediate urgent task).

Nietzsche chỉ dơ tay chỉ mặt trăng, nhưng không nói cho chúng ta biết bằng cách nào để lên mặt trăng. Chúng ta phải quay về phi thuyền Phật Giáo.

Ý Chí Quyền LựcVô Minh

Nietzsche đi tìm một con đường để vượt qua cái hố thẵm hư vô do sự sụp đổ của cả nền tảng của tư tưởng Tây Phương, nhất là tư tưởng độc thần của Ky Tô Giáo, khiến cho đời sống lại có ý nghĩa. Hứng khởi từ con đường đi tìm sự tuyệt hảo của tư tưởng Hy Lạp, sử dụng lý thuyết về vũ trụ của Boscovitch để có một nền tảng khoa học và sau đó thêm vào ý tưởng ý chí quyền lực để tự thắng tình cảm để thăng hoa khiến người đời và đời ngườiý nghĩa. Phật Giáo chính là con đüòng tâm linh mà Nietzsche đã khổ tâm tìm kiếm để vượt qua hố thẵm hư vô. Phật Giáo gọi là đáo bỉ ngạn, qua bên kia bờ, giải thoát, tịnh độ, ngộ, tùy pháp môn mà người Phật Tử hành trì. Phật Giáo không phải chỉ muốn cho chúng sinh an lạc bên bờ này của hư vô. Không không phải là khôngmà là có, Không cũng không phải là có, mà là không. Không cũng không phải là không không, mà cũng không phải là không không có. Sở dĩ Phật phải dài dòng vì sợ mấy ông Tiến Sĩ PG ở các đại học Tây Phương ‘y kinh giải nghĩa’ thành ra Phật mắc oan ba đời!. Kim Dung viết kiếm hiệp ‘nói láo mà chơi nói láo chơi’ nhưng tâm đầy đạo vị. Ông nói : Viên cũng là Không mà Không cũng là Không! Chỉ những con khỉ con vượn nào trong tiến trình của Darwin như ‘Ngộ Không’, mới theo phò được Tam Tạng. Không phải chỉ là Đường Tam Tạng của Ngô Thừa Ân mà thôi, đó còn là Sutras của Phật. Và trong Tam Tạng Phật nói gì? Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Cúng dường chư Tăng thì cứ cúng dường chư Tăng, ký ca ký cóp phước điền thì cứ ký ca ký cóp để chuyển nghiệp chừng nào hay chừng đó. Nhưng Huệ Năng nói trong Pháp Bảo Đàn Kinh: không tu thì không bao giờ giải thoát. Nói như Nietzsch không tự chế thì không qua được bên kia bờ. Nếu muốn làm một cuộc hành trình tâm linh như Nietzsch thì chúng ta phải dừng lại cái quan niệm cốt lõi nhất của Đạo Phật; Duyên Khởi. Sở dĩ Phật có thể đứng dậy khỏi gốc cậy Bồ Đề là vì Ngài đã thấy Duyên Khởi. Thấy Duyên Khởi là thấy Pháp. Và bước đầu duyên khởiVô Minh (trsna- Thirst). Vô Minh không có gì khác hơn là ‘Will to power’ của Nietzsche. Đó là bước đàu của tác nghiệp như Ông đã định nghĩa: The most primitive form of affect.Từ đó mà sinh ra những tình cảm khác mà Phật Giáo nói rõ : hành, thức, danh sắc...Vô minh thúc đẩy bản năng, dục vọng, ham muốn...để đạt đến mức làm con người ...hài lòng hơn. Các chủng tử bất thiện thúc đẩy con người chinh phục kẻ khác, tàn ác, độc tài, thù hận. Tuy nhiên nếu được huân tập đúng cách các chủng tử này trở thành chủng tử Thiện và có thể biến con người thành từ bi hỷ xã (tứ vô lượng tâm). Vô minh thúc đẩy con người tham và sân. Vô minh vì nghĩ rằng thân mình có thật nên si mê tự ngã. Và Hoà Thượng Thanh Từ lý giải sỡ dĩ con người tham và sân là vì si, chấp thân này là có thật. Si là nguổn cỗi của các hành động tác nghiệp xấu. Nietzsch nhận xét là vì Will of Power thúc đẩy nên con người đi tìm hạnh phúc theo những phương cáchcon người dần dần bị buộc chặc vào khổ đau và khiến họ trở nên hung ác, bạo độngtuyệt vọng (will to power seeks happiness and fulfilment in ways that are inextricably link to pain and frustration which in turn, create such secondary effects as cruelty, violence and despair...). Nietzsche nói câu này như một Sa Môn nói pháp, không có gì khác. Khi con người biết tự thắng mình, biết huân tập những chủng tử thiện, Trsna vô minh có thể thăng hoa thành một con đường tâm linh dharma chanda (sublimation- Sublimierung). Chúng ta có thể nhìn cuộc đời với con mắt khác, từ nhãn thị chúng sinh, nhìn thấy bổn lai diện mục của mình và một chân trời mới mở ra cao rộng đến mức nào, chưa ai có thể biết được. Đó là điều mà Nietzsche nói là khai mở tiềm năng mà ai cũng có. Có chánh kiến thì chúng ta mới có được những ‘chánh’ khác. Con người do đó sống một đờiý nghĩa, thoả mãn, không còn bận tâm về cái lưới sinh tử nữa. Quan niệm Dharma Chanda là phương tiện giúp chúng ta đáo bỉ ngạn, Hố thẵm hư vô đã bị lấp kín. Không ai còn bận tâm về Thượng Đế giả tưởng, như Nietzsche than phiền, đã lường gạt nhân loại trong một thời gian quá dài.


Quán Như 
(Chuyển Luân)

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7330)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4511)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4553)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7290)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2953)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12190)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3982)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3795)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4190)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3667)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5026)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6655)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3996)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4114)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5328)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3778)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4516)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3546)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3920)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4383)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5388)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3838)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3924)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3862)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4822)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4511)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4247)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3824)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4625)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4189)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6096)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4595)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4935)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4158)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4802)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5660)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3634)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4023)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4579)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5266)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3135)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4751)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4539)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4281)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4733)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4482)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4587)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7205)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5202)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4990)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4576)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5606)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5261)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4156)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6000)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4707)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4864)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5473)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5606)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5802)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant