Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nguyên Nhân Phân Phái Đầu Tiên Trong Phật Giáo Ấn Độ Và Kỳ Kiết Tập Thứ Hai

28 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 7887)
Nguyên Nhân Phân Phái Đầu Tiên Trong Phật Giáo Ấn Độ Và Kỳ Kiết Tập Thứ Hai

Nguyên Nhân Phân Phái Đầu Tiên Trong Phật Giáo Ấn Độ Và Kỳ Kiết Tập Thứ Hai

Thích Nguyên Lộc


Sử liệu Phật giáo lưu lại nhiều thông tin khác nhau về nguyên nhânthời gian phân phái đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ

Lần phân phái đầu tiên giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) đã xảy ra, hoặc trong cùng năm Đức Thế Tôn diệt độ(1), hoặc vào những năm: 100, 116, 137 và 160 năm sau năm Đức Thế Tôn diệt độ, hoặc vào năm 236 sau năm Đức Thế Tôn diệt độ(2). Tuy nhiên, hai thông tin về lần phân phái đầu tiên xảy ra cùng năm và 236 năm sau Phật diệt độ không có nhiều giá trị lịch sử. Hầu hết các nhà viết sửnghiên cứu sử Phật giáo Ấn Độ khảo cứu và tranh luận thời gian phân phái đầu tiên giữa Đại chúng bộTrưởng lão bộ xảy ra trong khoảng từ 100 đến 160 năm sau năm Phật diệt độ; và có nhiều nguyên nhân khác nhau, mà nổi bật nhất là những bất đồng về “Mười điều” liên quan đến giới luật được đề xuất bởi các Tỳ-kheo Bạt-kỳ, được phân xét trong Đại hội Tăng-già tại thành Tỳ-xá-ly, hoặc “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của Thánh giả A-la-hán được khởi xướng bởi Tỳ-kheo Đại Thiên hoặc bởi các nhóm Tỳ-kheo, được tranh luận trong một Đại hội Tăng-già tại kinh thành Hoa Thị.

Về Đại hội Tăng-già Phật giáo tại thành Tỳ-xá-ly (Vaiśāli) (thường được gọi là Đại hội kết tập kinh điển lần thứ II), các bộ luật hiện còn của các bộ phái Phật giáo Ấn Độ đều đề cập đến Đại hội này(3). Nhìn chung, những tường thuật về Đại hội này trong các bộ luật đều giống nhau ở những điểm chính yếu. Theo Luật tạng của Thượng tọa bộ (Theravāda), một trăm năm sau năm Phật niết-bàn, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ (Vajji), thành Tỳ-xá-ly, cho phép thực hành “Mười điều” (Dasavatthūni). “Mười điều” được phép đó là: 1. Được phép cất giữ muối trong ống sừng để khi cần dùng, sẽ dùng; 2. Được phép ăn quá trưa khi mặt trời ngả bóng chưa quá hai ngón tay;(4) 3. Được phép, ăn đã đủ, oai nghi đã xả, chưa làm phép dư thực, vào trong xóm làng, ăn thêm lần nữa; 4. Được phép khác trú xứ, nhưng cùng một cương giới, yết-ma bố-tát riêng biệt; 5. Được phép biệt chúng yết-ma, nếu các Tỳ-kheo đến sau tùy hỷ pháp yết-ma này; 6. Được phép thực hành theo những điều Hòa thượng tế độHòa thượng A-xà-lê đã thực hành; 7. Được phép uống sữa chưa đông sau bữa ăn; 8. Được phép uống nước trái cây lên men (rượu pha loãng); 9. Được phép cất chứa tọa cụ không làm viền; 10. Được phép cất giữ vàng bạc.

Lúc bấy giờ, Trưởng lão Da-xá (Yasa), du hành trong dân gian, đến thành Tỳ-xá-ly (Skt. Vaiśāli), biết tin các Tỳ-kheo tại thành này cho phép thực hành “Mười điều”. Ngài đã công khai phản đối rằng “Mười điều” này là phi giới, phi luật, trước hội chúng Tỳ-kheo và quần chúng Phật tử. Các Tỳ-kheo thành Tỳ-xá-ly yết-ma quy kết tội ngài đã nói xấu chúng Tăng trước quần chúng Phật tử, khiến họ mất tín tâm vào Tam bảoyêu cầu Trưởng lão Da-xá sám hối trước Đại chúng Tỳ-kheo và nhận là mình nói sai trước quần chúng Phật tử. Trưởng lão Da-xá vẫn giữ nguyên quan điểm của mình khi đề cập về “Mười điều” này với quần chúng Phật tử. Ngài giải thích với họ là ngài không sai, mà các Tỳ-kheo Bạt-kỳ cho phép thực hành “Mười điều” ấy là trái phạm giới luật của Đức Thế Tôn đã cấm chế.

Sau đó, để ngăn chặn những điều, mà theo ngài là sai phạm, của những Tỳ-kheo thành Tỳ-xá-ly (Skt. Vaiśālī), Trưởng lão Da-xá (Yasa) đã gởi sứ giả đến thành Pāvā, Avanti để trình bày sự việc cho các Tỳ-kheo ở đây được rõ. Trưởng lão Da-xá đi về phía Tây, lần lượt đến gặp các vị Trưởng lão: Sambhūta Sāṇavāsī, Revata, Sāḷha, Sabbakāmī để trình bày sự việc và tìm sự ủng hộ của quý ngài. Sau khi nghe trình bày vụ việc, các Trưởng lão cho rằng, muốn tranh luận đúng sai về “Mười điều” của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ phải đến nơi xảy ra vụ việc, tại thành Tỳ-xá-ly, để tranh luậngiải quyết. Do đó, một đại hội chúng Tỳ-kheo Tăng gồm 700 Tỳ-kheo được nhóm họp tại tu viện Vālika, thành Tỳ-xá-ly. Đại Tăng chọn ra 8 vị trưởng lão đại diện cho hai phía: Đông và Tây. Những Trưởng lão Tỳ-kheo đại diện cho các Tỳ-kheo thành Tỳ-xá-ly thuộc các Tỳ-kheo phía Đông, gồm: Sabbākāmin, Sāḷha, Khujjasobhita và Vāsabhagāmika. Và những Trưởng lão Tỳ-kheo đại diện cho các Tỳ-kheo Pāvā (Pāṭheyyaka), đứng đầuTrưởng lão Da-xá, thuộc nhóm các Tỳ-kheo phía Tây, gồm: Revata, Sambhūta, Yasa (Da-xá) và Sumana. Tăng sai Trưởng lão Revata lần lượt hỏi Trưởng lão Sabbākāmin về “Mười điều” cho phép của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phù hợp giới luật hay không phù hợp giới luật. Trưởng lão Sabbākāmin lần lượt trả lời “Mười điều” này là không phù hợp giới luật. Và Đại tăng yết-ma “Mười điều” của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ, thành Tỳ-xá-ly là phi giới, phi luật, sai phạm lời dạy của Đức Thế Tôn.

Luật tạng của Pháp tạng bộ (Tứ phần) và của Hữu bộ (Thập tụng) cũng kết thúc tường thuật tương tự như Luật tạng Pāli của Thượng tọa bộ. Tức là, tường thuật về Đại hội chúng Tỳ-kheo Tăng kết thúc tại lời kết luận “Mười điều” của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phi giới, phi luật. Tuy nhiên, theo Luật tạng của Ma-ha Tăng-kỳ (Mahāsāṃghika), nguyên nhân Đại tăng triệu tập Đại hội chỉ liên quan đến vấn đề cất giữ vàng bạc. Và kết thúc Đại hội, Tôn giả Ðà-ta-bà-la, người chủ trì Đại hội, thưa với đại chúng Tỳ-kheo, có 5 pháp được tùy thuận, trong đó có pháp tùy thuận: nếu Tỳ-kheo nào không có phương tiện thì có thể nhận vàng bạc và tiền mặt.

Tất cả các luật tạng dẫn ở trên không đề cập đến nguyên nhân phân phái giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda).

Đảo sử (Dīpavaṃsa)(5), được biên soạn tại Sri Lanka vào khoảng đầu thế kỷ IV TL, và Đại sử (Mahavaṃsa),(6) cũng được biên soạn tại Sri Lanka vào thế kỷ V TL, tường thuật thêm thông tin phân phái giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda). Theo hai nguồn sử liệu này, sau khi Đại hội tại thành Tỳ-xá-ly (Vaiśālī) trong thời gian trị vì của vua Kālāsoka, kết luận “Mười điều” của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phi giới phi luật, các Tỳ-kheo ủng hộ “Mười điều” bị các vị Trưởng lão buộc tội và trục xuất. Các Tỳ-kheo ủng hộ “Mười điều” này, gồm 10 ngàn Tỳ-kheo, đã tiến hành một Đại hội kết tập kinh điển khác, gọi là Đại kết tập (mahāsaṅgīti). Mười ngàn Tỳ-kheo trong Đại hội Đại kết tập này thành lập Đại chúng bộ. Từ đây, Tăng đoàn Phật giáo phân rẽ thành hai bộ: Đại chúng bộTrưởng lão bộ.

Những nhà viết sửnghiên cứu sử Phật giáo Ấn Độ chấp nhận những thông tin tường thuật trong hai nguồn sử liệu này thì cho rằng nguyên nhân phân phái đầu tiên giữa Đại chúng bộTrưởng lão bộ là do những quan điểm khác biệt về “Mười điều” được cho phép bởi các Tỳ-kheo Bạt-kỳ trong Đại hội chúng Tỳ-kheo Tăng tại thành Tỳ-xá-ly vào khoảng 100 năm sau Phật diệt độ.

Nhưng, như những tường thuật trong các bộ luật, khi biết Trưởng lão Da-xá (Yasa) đang đi vận động các trưởng lão để triệu tập một Đại hội phân xét về Mười điều được cho phép, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ cũng đến thăm và tìm kiếm sự hậu thuẫn của Trưởng lão Revanta. Họ dâng cúng Trưởng lão Revanta nhiều phẩm vật và hy vọng ngài sẽ ủng hộ quan điểm của họ. Nhưng ngài từ chối. Điều này cho thấy, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ thành Tỳ-xá-ly đã lúng túng, lo sợ và lường trước kết quả thất bại khi Đại tăng nhóm họp tranh luận về những giới điều cho phép của họ. Nếu các Tỳ-kheo Bạt-kỳ là những Tỳ-kheo lãnh đạo hoặc được sự ủng hộ của 10 ngàn Tỳ-kheo như Đảo sử (Dīpavaṃsa) và Đại sử (Mahāvaṃsa) tường thuật, thì chắc chắn thế lực, ảnh hưởng của họ trong Tăng đoàn rất lớn và mạnh. Họ không thể lúng túng, lo sợ và dễ dàng bị kết tội và trục xuất. Họ cũng không cần phải sử dụng hạ sách bằng dùng phẩm vật (một hình thức dùng phẩm vật để mua chuộc) để tìm sự ủng hộ của Trưởng lão Revanta (Ly-bà-đa). Với số đông Tỳ-kheo ủng hộ “Mười điều” như vậy, nếu muốn thành lập Đại chúng bộ, thì ngay trong Đại hội tại thành Tỳ-xá-ly, họ có thể phủ quyết kết luận của các vị Trưởng lãotuyên bố thành lập Đại chúng bộ, không cần phải đi đến thành Hoa Thị mới tiến hành một Đại hội để lập phái. Vì vậy, có thể nói rằng, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ không có nhiều ảnh hưởng trong Tăng đoàn như được tường thuật trong Đảo sửĐại sử. Không có nhiều ảnh hưởnguy tín trong Tăng đoàn thì họ khó có thể triệu tập một Đại hội khác để tách phân Tăng đoànthành lập Đại chúng bộ.

Vả lại, theo É. Lamotte, nội dung về Đại hội Đại kết tập của Đại chúng bộ, sự kiện được tiến hành sau Đại hội tại thành Tỳ-xá-ly được tường thuật trong Đảo sử, không được đề cập trong các tác phẩm lịch sử biên soạn về sau của văn học Pāli. Trong tác phẩm Samantapāsādika, ngài Budhaghosa (Phật Âm), một Đại luận sư của Thượng tọa bộ (Theravāda), không đề cập đến sự kiện Đại kết tập của Đại chúng bộ. Thậm chí, trong Nikāyasagraha, một tác phẩm biên soạn theo quan điểm của Thượng tọa bộ, ngài Saṃgharāja Dharmakīrti cho rằng nguyên nhân phân phái đầu tiên giữa Đại chúng bộTrưởng lão bộ là do những quan điểm khác biệt về giáo nghĩa trong Đại hội kết tập kinh điển tại kinh thành Hoa Thị (Pāṭaliputra) do ngài Mục Liên Đế Tu (Moggaliputta Tissa) chủ trì(7). Điều này có nghĩa là chỉ hai nguồn sử liệu Đảo sửĐại sử của văn học Pāli cho rằng nguyên nhân phân phái đầu tiên, phân rẽ Tăng đoàn thành hai bộ: Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) là do bất đồng quan điểm về “Mười điều” liên quan đến giới luật.

Do đó, nhiều nhà viết sửnghiên cứu sử Phật giáo Ấn Độ khác, mặc dù chấp nhận những tường thuật về Đại hội Tăng-già Phật giáo tại thành Tỳ-xá-ly trong các bộ luật, nhưng không chấp nhận nguyên nhân phân phái được tường thuật trong Đảo sử (Dīpavaṃsa) và Đại sử (Mahāvaṃsa). Họ khảo cứu những sử liệu liên quan đến lần phân phái giữa Đại chúng bộTrưởng lão bộ được lưu giữ trong văn học của Hữu bộ (Sarvāstivāda) và của Chánh lượng bộ (Saṃmatīya).

Theo sử liệu của Hữu bộChánh lượng bộ,(8) nguyên nhân phân phái là do trong Tăng chúng xuất hiện hai quan điểm khác nhau: một bên là ủng hộ “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của Thánh giả A-la-hán và một bên là phản đối “Năm việc” này. Và kết quả Tăng đoàn phân ly thành hai bộ: Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda). Những người khởi xướng và ủng hộ “Năm việc” (pañcavastu) này cho rằng: 1. A-la-hán, tuy không còn phiền não và xuất tinh nhưng trong giấc ngủ có thể bị ma vương quấy rối, làm cho xuất tinh; 2. A-la-hán vẫn còn nhiều điều không biết về những vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng ngày; 3. A-la-hán, tuy không còn nhiễm ô vô tri nhưng vẫn còn bất nhiễm ô vô tri; 4. A-la-hán vẫn còn nhờ người khác (Đức Phật) dẫn vào Thánh đạo và 5. A-la-hán cũng phải nhờ tiếng “Khổ” (phát ra trong lúc thiền định) mới vào Thánh đạo.

Nguyên nhân phân phái này được thuật lại trong tác phẩm Samayabhedoparacanacakra của ngài Thế Hữu (Vasumitra), một Đại Luận sư của Hữu bộ. Tác phẩm này có ba bản Hán dịch(9) và một bản Tạng dịch. Cả ba bản Hán dịch đều đồng ý là: vào 116 năm sau Phật diệt độ, tại thành Hoa Thị (Pāṭaliputra),(10) trong lúc vua A-dục đang trị vì cõi Diêm Phù Đề (Ấn Độ), có các chúng Tỳ-kheo, hoặc ba chúng tên: Năng, Nhân duyên, Đa văn (Thập bát bộ luận); hoặc bốn chúng: Đại quốc, Ngoại biên, Đa văn, Chủng đức (Bộ chấp dị luận) hoặc Long tượng, Biên đồ, Đa văn, Đại đức (Dị bộ tôn luân luận) ủng hộtruyền bá “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh A-la-hán của những kẻ dị giáo. Do “Năm việc” này, Tăng chúng xảy ra bất đồng và dẫn đến Tăng đoàn phân ra thành hai: Đại chúng bộTrưởng lão bộ (trong các bản Hán dịch là Thượng tọa bộ, nhưng trong bài này dùng từ Trưởng lão bộ (Sthaviravāda), để phân biệt với Thượng tọa bộ được dịch từ Theravāda). Hai bản Tần dịch và Lương dịch không đề cập tên tác giả của “Năm việc” này. Tuy nhiên, bản Đường dịch của ngài Huyền Trang có nêu tên tác giả khởi xướng “Năm việc” này, là Đại Thiên (Mahādeva), nên thường gọi là “Đại thiên ngũ sự”.

Các nhà Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā) của Hữu bộ, trong A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa,(11) cũng đồng ý rằng, “Năm việc” này là do Đại Thiên (Mahādeva) khởi xướng và là nguyên nhân phân phái đầu tiên này. Các nhà Tỳ-bà-sa còn đi xa hơn, viết thêm tiểu sử của Đại Thiên; theo đó, trước khi xuất gia, Đại Thiên phạm ba trọng tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán. Tuy nhiên, các luận sư này thừa nhận, sau khi xuất gia theo Phật, Đại Thiên là người thông minh, học nhiều hiểu rộng, được nhiều người kính trọng, kể cả vua quan và hàng quý tộc. Các luận sư, các nhà dịch thuật và chú giải Trung Hoa, như: Chân Đế, Cát Tạng, Huyền Trang, Khuy Cơ, cũng chấp nhận quan điểm của các Luận sư Hữu bộ về nguyên nhân phân giáo đầu tiên này. Tuy nhiên, ngài Khuy Cơ cho rằng Đại Thiên chỉ là nạn nhân bị tấn công từ các luận sư đối lập. Theo Khuy Cơ, Đại Thiên là một người thông tuệ, đạo cao đức trọng. Mặc dù tuổi còn trẻ, nhưng ngài đã chứng đạt quả vị tâm linh rất cao, được vua quan kính trọng, đồng đạo quý mến. Đó là lý do tại sao Đại Thiên bị quy gán ba tội ngũ nghịch, khi ngài đề xướng “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh A-la-hán(12).

Sử liệu liên quan của Chánh lượng bộ (Saṃmatīya) được ngài Thanh Biện (Bhavya hoặc Bhāvaviveka) ghi lại trong tác phẩm Tarkajvālā (Mdo XIX, tr. 162b 6-163; cf. Mdo XC, No. 12) vào thế kỷ thứ VI TL. Sau đó, những thông tin này được các sử gia Tây Tạng, Bu ston, thế kỷ XIV, Gzon nu dpal, thế kỷ thứ XV và Tāranātha, thế kỷ thứ XVII trích dẫn và thuật lại trong các tác phẩm lịch sử Phật giáo Ấn Độ của họ. Tuy nhiên, Thanh Biện cung cấp hai nguồn thông tin khác nhau liên quan đến lần phân phái lớn này. Theo nguồn sử liệu thứ nhất, 136 năm sau Phật diệt độ, trong giai đoạn trị vì của vua Nanda hoặc Mahāpadma, một Đại hội Tăng-già được nhóm họp để thảo luận về “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của A-la-hán, được khởi xướng bởi Tỳ-kheo tên Bhadra (một Tăng sĩ nổi tiếng). Do nguyên nhân này, Tăng đoàn bị phân rẽ. Và theo nguồn sử liệu thứ hai, 160 năm sau năm Đức Thế Tôn diệt độ, trong lúc vua A-dục (Aśoka) đang cai trị tại kinh thành Hoa Thị (Pāṭaliputra), Tăng đoàn đã khởi lên tranh luận về một số giáo nghĩa và dẫn đến phân rẽ thành hai bộ: Đại chúng bộTrưởng lão bộ.(13)

Như vậy, tuy những nguồn sử liệu của Hữu bộ (Sarvāstivāda) và Chánh lượng bộ (Saṃmatīya) thuật lại thời gian phân phái có khác nhau, hoặc năm 137 sau Phật diệt độ, trong thời kỳ vua Mahāpadma, hoặc năm 116 và 160 sau Phật diệt độ, trong thời kỳ vua A-dục (Aśoka); nhưng cả hai nguồn sử liệu này đều đồng ý nguyên nhân dẫn đến Tăng đoàn rạn nứt và phân rẽ thành hai bộ: Đại chúng bộTrưởng lão bộ, là do bất đồng “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của Thánh giả A-la-hán.

Như chúng ta biết, khi Đức Thế Tôn còn tại thế, đã có hai lần cộng đồng Tỳ-kheo bị phân ly: một, do Đề-bà-Đạt-đa lãnh đạo,(14) và một, do bất đồng quan điểm về một điều giới của hai vị Trưởng lão Tỳ-kheo tại Kosambi. Tuy hai lần phân giáo này, sau đó, đều được Đức Thế Tôn bằng nhiều phương cách khác nhau đã tái lập hòa hợp, nhưng cả hai lần phân giáo này có một đặc tính giống nhau là đều được dẫn dắt hoặc lãnh đạo bởi những Tỳ-kheo có ảnh hưởng hoặc uy tín trong cộng đồng Tỳ-kheo và quần chúng Phật tử. Lịch sử phân phái Phật giáo về sau cũng vậy. Hầu hết các lần phân phái đều được dẫn dắt hoặc lãnh đạo bởi một Tỳ-kheo hay một nhóm Tỳ-kheo có uy tínảnh hưởng lớn trong cộng đồng Tỳ-kheo hoặc quần chúng Phật tử. Lần phân phái giữa Đại chúng bộTrưởng lão bộ có thể cũng vậy. Như đã đề cập ở trên, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ không phải là các Tỳ-kheo có ảnh hưởnguy tín trong Tăng chúngquần chúng Phật tử, nên họ không đủ khả năng lãnh đạo mười ngàn Tỳ-kheo, phân tách cộng đồng Tăng đoànthành lập Đại chúng bộ. Chỉ có những Tỳ-kheo như Đại Thiên hoặc các nhóm Tỳ-kheo, những Tỳ-kheo đa văn, được Tăng chúng quý mến, có uy tín trong xã hội (như được tường thuật trong các nguồn sử liệu Sanskrit và Trung Hoa), mới có thể lãnh đạo các nhóm Tỳ-kheo ủng hộ quan điểm của họ và thành lập bộ phái mới: Đại chúng bộ.

Bất đồng quan điểm về giáo nghĩa, mà ở đây cụ thể là phẩm hạnh của A-la-hán, là những bất đồng và sau này là mâu thuẫn sâu nặng nhất giữa Đại chúng bộTrưởng lão bộ trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Các nhà Đại chúng bộquan điểm rằng Thánh quả A-la-hán chưa phải là quả vị viên mãn, chỉ có Phật quả mới là quả vị viên mãn. Họ ít quan tâm đến quả vị A-la-hán, mà quan tâm chính đến Phật quả. Theo các nhà Đại chúng bộ, và sau này là Đại thừa, muốn thành Phật quả, phải thực hành con đường của Bồ-tát. Cho nên, các nhà Đại chúng bộ xiển dương con đường của Bồ-tát. Con đường này khác biệt với con đường của Thanh văn A-la-hán. Ngược lại, các nhà Trưởng lão bộ xiển dương Thánh hạnhThánh quả của A-la-hán. Những khác biệt giữa quan điểm của Đại chúng bộ về Bồ-tát và quan điểm của Trưởng lão bộ về A-la-hán là những khác biệt xuyên suốt và chính yếu trong dòng lịch sử bộ phái Phật giáo Ấn Độ. Vì vậy, rất có thể, những bất đồng về phẩm chất của Thánh giả A-la-hán là nguyên nhân chính yếucuối cùng dẫn đến Tăng đoàn phân chia thành hai Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda).

Liên quan đến lần phân phái này, Giáo sư André Bareau, trong tác phẩm đối chiếu văn bản nổi tiếng, Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa, cho rằng những dị biệt của Đại hội kết tập kinh điển tại thành Tỳ-xá-ly không thể là nguyên nhân làm cho Tăng đoàn phân phái. Vì nếu, tại thời điểm đó, Tăng đoàn đã phân ly thì chắc chắn các bộ luật của các bộ phái Phật giáo phải ghi lại thông tin quan trọng này. Và Giáo sư Bareau chấp nhận nguyên nhân phân phái đầu tiên của Tăng đoàn Phật giáo liên quan đến “Năm việc”, mà ông cho là do Đại Thiên khởi xướng. Và lần phân phái này, theo André Bareau, không thể xảy ra trong giai đoạn trị vì của vua A-dục (Aśoka) như tường thuật của ngài Thế Hữu. Nếu nó xảy ra trong thời gian vua A-dục trị vì, thì các sử liệu khác xưa hơn và thuộc các nguồn gốc khác nhau tại vùng Kasmir không thể không ghi lại danh tánh đức vua đại hộ pháp này, nhưng các nguồn sử này không nhắc đến tên vua A-dục liên quan đến lần phân phái này. Và vua A-dục không thể là đức vua trị vì trong khoảng đầu thế kỷ thứ hai sau Phật diệt độ. Giáo sư Bareau kết luận rằng lần phân phái này diễn ra trong khoảng năm 140 sau năm Đức Thế Tôn diệt độ, tại thành Hoa Thị (Pāṭaliputra) dưới triều đại vua Nanda hoặc Mahāpadma do Tăng đoàn bất đồng về “Năm việc” của Đại Thiên.(15) 

Tuy nhiên, theo ngài Huyền Trang, nguyên nhân phân phái này bao gồm cả vấn đề tranh luận về giới luậtgiáo nghĩa trong Tăng đoàn Phật giáo(16). Giáo sư Paul Demiéville cũng có cùng quan điểm như ngài Huyền Trang. Theo Demiéville, trong “A Propos du Concile de Vaiśāli”, nguyên nhân phân phái đầu tiên này bao gồm những bất đồng về “Mười điều” liên quan đến giới luật và “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của A-la-hán. Nhưng vì, các luật sư quan tâm đến giới luật hơn, nên họ chỉ ghi lại trong các bộ luật về Đại hội Tăng đoàn tại thành Tỳ-xá-ly (Vaiśālī) liên quan đến mười điều giới luật; và các luận sư quan tâm đến giáo nghĩa hơn, nên họ chỉ ghi lại trong các bộ luận về Đại hội Tăng đoàn tại thành Hoa Thị (Pāṭaliputra) liên quan đến năm phẩm hạnh của Thánh giả A-la-hán(17). Tuy nhiên, Giáo sư J. Nattier và Charles S. Prebish phê bình giả thuyết của Demiéville. Theo họ, nếu giả thuyết của Demiéville là đúng, thì giải thích như thế nào về những tường thuật trong Xá-lợi-phất vấn kinh, một luận thư A-tỳ-đàm của Đại chúng bộ, theo đó, nguyên nhân phân phái giữa Đại chúng bộTrưởng lão bộ liên quan đến giới luật. Và họ cho rằng, giả thuyết của Demiéville có chỗ chưa thuyết phục(18). Giáo sư Nalinaksha Dutt đưa ra một giả thuyết khác. Theo N. Dutt, có thể sự phân phái giữa Đại chúng bộTrưởng lão bộ bắt đầu từ những quan điểm khác biệt về một số giới điều (Mười điều của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ) và dần dần xuất hiện thêm những khác biệt về giáo nghĩa (Năm việc liên quan đến phẩm cách của A-la-hán)(19).

Giáo sư J. Nattier và Charles S. Prebish(20) đưa ra một giả thuyết khác, phủ nhận những giả thuyết liên quan đến “Mười điều” cho phép của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ và “Năm việc” đề cập đến tính chất của A-la-hán. Theo hai giáo sư này, nội dung “Năm việc” này, đặc biệt là nội dung thứ năm liên quan đến “Khổ” thánh đế của Thánh giả A-la-hán, trong thời gian đầu, không xuất hiện trong các chi phái của Đại chúng bộ ở phía Bắc, chỉ được tranh luậntruyền bá trong các chi phái của Đại chúng bộ tại phía Nam, quanh vùng Andhra. Vì vậy, họ phủ nhận giả thuyết cho rằng bất đồng về năm phẩm hạnh của A-la-hán là nguyên nhân phân phái chính. Theo họ, nó chỉ là nguyên nhân phân phái phụ trong các chi phái Đại chúng bộ tại phía Nam Ấn Độ, do Đại Thiên khởi xướng và truyền bá. J. Nattier và Charles S. Prebish cũng đồng ý cách đánh giá của Giáo sư É. Lamotte về nguồn sử liệu đề cập đến nguyên nhân phân phái chính được tường thuật trong Đảo sử (Dīpavaṃsa). Vì vậy, hai giáo sư này phủ nhận nguyên nhân phân phái được tường thuật trong Đảo sử. Giả thuyết của J. Nattier & Charles S. Prebish dựa vào nguồn sử liệu được đề cập trong kinh Xá-lợi-phất vấn. Kinh này được xem là một luận thư của Đại chúng bộ, và được học giả André Bareau đánh giá là một trong những nguồn sử liệu sớm nhất về lịch sử bộ phái Phật giáo Ấn Độ(21). Theo kinh này, lúc bấy giờ, có một Trưởng lão Tỳ-kheo đem luật tạng được kết tập trong Đại hội do ngài Đại Ca-diếp chủ trì, phân loại lại và bổ sung thêm một số giới điều. Do nguyên nhân này, cộng đồng Tỳ-kheo Tăng khởi lên bất hòa. Họ nhờ vua nước này đứng ra phân xử đúng sai. Nhà vua và Tăng chúng quy định, những Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống do ngài Đại Ca-diếp kết tập thì chọn thẻ màu đen, những Tỳ-kheo chấp nhận giới luật được thêm vào thì chọn thẻ màu trắng. Kết quả là số thẻ màu đen có đến 10 ngàn, còn số thẻ màu trắng chỉ có 100. Vua nước này kết luận rằng, cả hai đều tuân giữ đúng theo tinh thần giới luật của Đức Thế Tôn giảng dạy, nhưng vì có một số khác biệt nên không thể sống chung. Vì vậy, cộng đồng Tỳ-kheo phân chia thành hai bộ phái. Mười ngàn Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống thành lập Đại chúng bộ. Số Tỳ-kheo kia thành lập Thượng tọa bộ (Trưởng lão bộ)(22). Kinh này không đề cập tên vị vua trì vị lúc bấy giờ, nhưng Giáo sư É. Lamotte nhận dạng vua này là vua A-dục (Aśoka). Như vậy, theo nội dung tường thuật trong kinh này, nguyên nhân phân phái là do cộng đồng Phật giáo nguyên thủy bất đồng về việc mở rộng một số giới điều trong giới bổnĐại chúng bộbộ phái giữ gìn giới bổn truyền thống do Tôn giả Upāli và Đại tăng kết tập tại thành Vương Xá.

Trong thực tế, so sánh các luật tạng hiện còn của các bộ phái, chúng ta thấy rằng luật Ma-ha Tăng-kỳ của Đại chúng bộ có số giới điều ít nhất: 218 giới. Cụ thể là các Pháp chúng học (Śaikṣa - dharmas) trong giới bổn Tỳ-kheo của các bộ luật. Pháp chúng học của Ma-ha Tăng-kỳ chỉ có 66 giới; trong khi luật Pāli: 75, Tứ phần luật: 100, Thập tụng: 113, Căn bản nhất thiết hữu bộ: 108. Và nhiều học giả, trong những tác phẩm nghiên cứu về giới bổn Tỳ-kheo của họ, nhận định rằng giới bổn Ma-ha Tăng-kỳ của Đại chúng bộ có niên đại sớm nhất(23).

Vì vậy, theo J. Nattier & Charles S. Prebish, rất có thể sau Đại hội kết tập kinh điển tại thành Tỳ-xá-ly, các cộng đồng Tỳ-kheo tại các địa phương lo sợ Tăng đoàn sẽ phân ly, nên nỗ lực điều chỉnh một số tiểu giớiĐức Thế Tôn cho phép thêm giảm cho phù hợp với từng địa phương để giữ cho Tăng đoàn không bị phân chia. Nhưng những nỗ lực này không như ý nguyện của họ, dần dần các cộng đồng địa phương càng nhiều khác biệt về giới luật, Tăng đoàn càng thêm bất đồng và cuối cùng là phân phái. Hai giáo sư này kết luận nguyên nhân tách phân Tăng đoàn Phật giáo liên quan đến việc bổ sung giới điều trong giới bổn, mà cụ thể là những giới điều thuộc Pháp chúng họcthời gian xảy ra lần phân phái này là vào năm 116 sau Phật diệt độ.

Như trên đã trình bày, Thượng tọa bộ, theo Đảo sử, thì cho rằng bộ phái gốc của mình (Trưởng lão bộ) gồm những Trưởng lão Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thốngthanh tịnh; và ngược lại, Đại chúng bộ, theo kinh Xá-lợi-phất vấn, cũng tường thuật bộ phái mình là bộ phái gồm những số đông Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thốngthanh tịnh. Những tường thuật này phản ánh một phần quan điểm chủ quan của bộ phái. Thật không dễ để kết luận nguyên nhânthời gian chính xác dẫn đến phân ly giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda).

Lời kết

Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ. Khảo cứu nguyên nhân phân phái giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) để có những đánh giánhận định khách quan và tương đối chính xác về Đại chúng bộviệc làm rất cần thiết. Đây là đề tài lớn mà nhiều sử gia Phật giáo đã hao tốn nhiều trí lựcthời gian khảo cứu, tranh luận và đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau trong hơn một thế kỷ qua. Nhưng hiện nay vẫn chưa có một giả thuyết nào đủ sức thuyết phục để các nhà chuyên môn chấp nhận. Vì vậy, chúng ta không thể chỉ y cứ vào một nguồn sử liệu nào đó mà cho rằng Đại chúng bộbộ phái khởi nguyên từ những Tăng sĩ trẻ, lơi lỏng giới luật, hay bộ phái được lãnh đạo bởi những kẻ dị giáo xâm nhập vào Tăng đoàn nhằm làm suy yếu Phật giáo.

Một số quan điểm của người viết trình bày ở trên, chỉ là cách nhìn và cách hiểu của người viết căn cứ vào những sử liệu khác nhau của hai nguồn Pāli và Sanskrit về lần phân phái lớn và đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Cách nhìn và cách hiểu ấy có thể hợp lý và cũng có thể không hợp lý. Khi viết bài này, người viết chỉ mang một ước nguyện, hy vọng có thể tìm lại hình ảnh chân thực của Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika).

 Chú thích

(1) Trong Đại đường Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang thuật lại rằng, khi ngài đến thành Vương Xá, tại đây, có một trụ đá do vua A-dục khắc tạo để đánh dấu nơi Đại chúng bộ đã kết tập kinh điển bên cạnh Đại hội kết tập kinh điển do ngài Đại Ca-diếp chủ trì. Những Tỳ-kheo thuộc Đại chúng bộ là những người không thừa nhận Đại hội kết tập kinh điển do ngài Đại Ca-diếp chủ trì. Họ gồm số đông Tỳ-kheo, khoảng vài trăm ngàn người, nên gọi là Đại chúng bộ. Những Tỳ-kheo thừa nhận Đại hội kết tập kinh điển do ngài Đại Ca-diếp chủ trì gọi là những Tỳ-kheo thuộc Trưởng lão bộ. Étienne Lamotte, History of Indian Buddhism, translated from the French by Sara Webb-Boin, Louvaun-la-neuve, 1988, tr. 286. Tham khảo thêm: 大唐西域記, Đại chánh, số 2087, tr. 923a 2-10.

(2) Theo Nikāyasaṃgraha của ngài Saṃgharāja Dharmakīrti, lần phân phái đầu tiên của Phật giáo Ấn Độ đã xảy ra ngay sau khi kết thúc Đại hội kết tập kinh điển tại Pāṭaliputra (kinh thành Hoa Thị) do ngài Moggaliputta tissa (Mục-liên-đế-tu) chủ trì, vào năm 236. Étienne Lamotte, như trên, tr. 288-289.

(3) Vinaya Pitaka Vol. V (Cullavagga), I. B. Horner dịch, London: Luzac & Company Ltd., 1963, tr.407-430; Luật Ma-ha Tăng-kỳ, Đại chánh, số 1425 tr.493 a28; Luật Tứ phần, Đại chánh, số 1428, tr.968c19; Luật Thập tụng (Hữu bộ), Đại chánh, số 1435, tr.450a 28.

(4) Theo Tứ phần của Pháp tạng bộThập tụng của Hữu bộ, giới điều này cho phép Tỳ-kheo: ăn đã đủ, oai nghi đã xả, chưa làm phép dư thực, được phép dùng hai ngón tay lấy thức ăn để ăn thêm.

(5) Sử liệu về đảo Sri Lanka (Dīpavaṃsa), chương 4, Tỳ-khưu Indacanda dịch Việt, đăng trên trang mạng Budsas.

(6) The Great Chronicle of Sri Lanka (Mahāvaṃsa), Ananda W. P. Guruge dịch, Colombo: S. Godage & Brothers, 2006, tr. 427.

(7) É. Lamotte, History of Indian Buddhism, như trên, tr. 288-9.

(8) Tất cả nguồn sử liệu của Hữu bộChánh lượng bộ liên quan đến lần phân phái này được trình bày trong bài viết dựa theo bài khảo cứu “Buddhist controversy over the Five Propositions” (pañcavastu) của Giáo sư É. Lamotte, đăng trong Studies of Buddhism, do G. Prasad chủ biên, Delhi: NXB. Bharatiya Kala Prakashan, 2006. Người viết tham khảo và ghi chú thêm sử liệu gốc được Giáo sư É. Lamotte khảo cứu.

(9) Bản Hán dịch đầu tiên gọi là Thập bát bộ luận, thường gọi là Tần dịch, dịch khoảng năm 385 đến 413; tên dịch giả tuy trong sách ghi là do ngài Chân Đế dịch, nhưng dịch giả này vẫn còn nhiều nghi vấn (Đại chánh, T 2032, tr. 18a 9-14). Bản Hán dịch thứ hai gọi là Bộ chấp dị luận, do ngài Chân Đế dịch, thường gọi là Lương dịch, dịch khoảng năm 557 đến năm 569 (Đại chánh, T 2033, tr. 20a 15-25). Và bản Hán dịch thứ ba gọi là Di bộ tôn luân luận, do ngài Huyền Trang dịch, thường gọi là Đường dịch, dịch vào năm 662 (Đại chánh, số 2031, tr. 15a 15-23)

(10) Các bản Hán dịch đề cập đến địa danh tranh luận về “Năm việc” khác nhau, nhưng tất cả những địa danh đó, theo Giáo sư É. Lamotte, đều là tên gọi khác của kinh thành Pataliputra.

(11) A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa, Đại chánh, số 1545, ch. 99, tr. 510c - 512a.

(12) Khuy Cơ, Du-già-sư-địa luận lược, Đại chánh, số 1829, tr.1b.

(13) É. Lamotte, “Buddhist controversy over the Five Propositions”, như trên, tr. 51-2.

(14) Trong Đại Đường Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang thuật rằng, ngài có gặp những Tỳ-kheo thực hành theo giáo thuyết của Đề-bà Đạt-đa tại ba Tu viện ở Karṇasuvarna. Tuy nhiên, theo tất cả kinh luật của các truyền thống Phật giáo, một thời gian ngắn sau khi Đề-bà Đạt-đa cùng 500 Tỳ-kheo tách phân khỏi cộng đồng Tỳ-kheo được Đức Thế Tôn hướng dẫn, Trưởng lão Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, vâng lời Đức Thế Tôn, đã đến tu viện 500 Tỳ-kheo này đang trú ngụ và hướng dẫn họ trở về với Chánh pháp. Sau đó, Đề-bà Đạt-đa vì tức giận, ngã bệnh, mà qua đời. Và theo Giáo sư Ed. J. Thomas, trong The life of Buddha as Legend and History, thật khó có thể, một cộng đồng Tỳ-kheo, những người theo Đề-bà Đạt-đa, tồn tại hơn 1.000 năm (từ khi Đức Thế Tôn còn tại thế đến lúc các nhà chiêm bái Trung Quốc đến Ấn Độ) mà tất cả các nguồn sử liệu khác toàn hoàn không đề cập đến.

(15) André Bareau, Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa, Pháp Hiền dịch, NXB. Tôn giáo, năm 2003, tr. 54-5.

(16) N. Dutt, Buddhist Sects in India, Delhi: Motilal Banarsidass, 1998, tr. 31.

(17) J. Nattier & Charles S. Presbish, “Mahāsāṃghika Origins: the Beginning of Buddhist Sectarianism” trong Buddhism Critical Concepts in Religious Studies, tập. II, do Paul William chủ biên, London & New York: NXB. Routledge, 2005, tr. 201.

(18) Sđd., tr. 201.

(19) N. Dutt, như trên, tr. 31.

(20) J. Nattier & Charles S. Presbish, như trên, tr. 199-228.

(21) André Bareau, như trên, tr. 26.

(22) Đại chánh, số 1465, tr. 900b 20-28; và tham khảo đoạn dịch sang tiếng Anh từ tiếng Pháp của É. Lamotte, trong History of Indian Buddhism, như trên, tr. 172.

(23) Các giáo sư: Andre Bareau, W. Pachow, Hofinger, Erich Frauwallner, và Gustav Roth.

 

Tài liệu tham khảo

 

1. Luật Tứ phần, quyển 6, Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng dịch Việt, Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng hiệu đính và chú thích, đăng trên trang mạng Phật Việt.

2. Luật Ma-ha Tăng-kỳ, HT.Thích Phước Sơn dịch Việt, đăng trên trang mạng Quảng Đức.

3. Tiểu phẩm (Cullavagga), Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch Việt, đăng trên trang mạng Budsas .

4. Dị bộ tông luân luận, HT.Thích Trí Quang dịch Việt, đăng trên trang mạng Đạo Phật Ngày nay.

5. The Great Chronicle of Sri Lanka (Mahāvaṃsa), Ananda W. P. Guruge dịch, Colombo: S. Godage & Brothers, 2006.

6. Étienne Lamotte, History of Indian Buddhism, translated from the French by Sara Webb-Boin, Louvaun-la-neuve, 1988.

7. N. Dutt, Buddhist Sects in India, Delhi: Motilal Banarsidass, 1998.

8. Studies of Buddhism, G. Prasad chủ biên, Delhi: NXB. Bharatiya Kala Prakashan, 2006.

9. J. Nattier & Charles S. Presbish, “Mahāsāṃghika Origins: the Beginning of Buddhist Sectarianism” trong Buddhism Critical Concepts in Religious Studies, tập. II, do Paul William chủ biên, London & New York: NXB. Routledge, 2005.

Thích Nguyên Lộc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1652)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1029)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1508)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1477)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1667)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1932)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1519)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1352)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1370)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1543)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1142)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1271)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1693)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1640)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2984)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1823)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1362)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1219)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1276)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1404)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1318)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1681)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1889)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1817)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2387)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1782)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2115)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2189)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2296)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1850)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1972)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2030)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1954)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2590)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1943)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1882)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1941)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1887)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2164)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2297)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1964)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2074)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1878)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1902)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2406)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2317)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3988)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2471)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3187)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2467)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2043)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1795)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2342)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3022)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2699)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant