Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tướng Lạ Về Bàn Chân Đức Phật

03 Tháng Chín 201300:00(Xem: 12191)
Tướng Lạ Về Bàn Chân Đức Phật

Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý, và đây là dấu hiệu phước đức của một bậc đại nhân đã nhiều đời tu tập các công hạnh vì lợi ích của tất cả loài hữu tình mà được tướng báu như vậy.

Cũng nên lưu ý từ “Mahà purisa” trong ngôn ngữ Pàli là chỉ cho bậc thánh nhân hoặc chuyển luân thánh vương, chứ không phải danh hiệu “đại nhân” được tôn xưng cho các đại thần hoặc người có quyền thế trong xã hội quân chủ Trung Hoa và Việt Nam.

Kinh tướng (số 30) thuộc Kinh Trường Bộ ghi lại nội dung đó như sau: “Này các Tỷ-kheo, ba mươi hai tướng Đại trượng phu này là gì mà những ai đầy đủ những tướng Đại Trượng phu này sẽ chọn đi hai con đường, không còn con đường nào khác? Nếu sống tại gia, sẽ làm vị Chuyển luân Thánh vương... Nếu vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, vị ấy sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Đẳng giác, vén lui màn vô minh che đời. Này các Tỷ-kheo, vị này có lòng bàn chân bằng phẳng. Tướng này được xem là tướng tốt của bậc Đại nhân. Này các Tỷ-kheo, dưới hai bàn chân của vị này có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe, vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ Tướng này được xem là tướng của bậc Đại nhân”.

ban_chan_phat_1

Bàn chân đức Phật tại tháp Lokànanda, Miến Điện 

ban_chan_phat_2

Bàn chân đức Phật tại tháp Showozigon, Miến Điện

Chúng ta cũng nên hiểu rằng sự mô tả hình bánh xe dưới lòng bàn chân của đức Phật có “ngàn” tăm cũng chỉ là con số tượng trưng, chỉ cho rất nhiều đường chỉ hay vân dưới lòng bàn chân quay tụ về một điểm có hình bánh xe. Đây là dấu hiệu của một bậc sẽ giác ngộ viên mãn sẽ vận chuyển bánh xe pháp, đem lại hạnh phúcan lạc cho chư thiênloài người, hoặc là dấu hiệu Vua Chuyển Luân Vương theo như quan niệm một vị vua lý tưởng dùng chánh pháp trị dân của Phật giáo Ấn Độ thời cổ đại.

Kinh nghiệm của các nhà nhân tướng học Trung Hoa cũng cho rằng lòng bàn chân của một người ít lõm khuyết thường có một đời sống đầy đủ, sung sướng, hạnh phúc. Ở đây, nhân tướng học của người Trung Hoa và Ấn Độ có một chút giống nhau. Người dân Trung Hoa rất giàu niềm tin đối với nhân tướng học. 

ban_chan_phat_3

Bàn chân đức Phật (không rõ phong cách nghệ thuật) in ở bìa sách Studies in History of Buddhism do A.K. Narain biên tập năm 1980

Các nhà nhân tướng học nổi tiếng như Đào Hoằng Cảnh vào thời Nam Bắc Triều, viết Tướng Kinh, về sau lại có Mã Y Tướng Pháp, Viên Liễu Trang thời Minh có Liễu Trang Thuỷ KínhVương Thị Phong Giám, và nhiều tác giả, tác phẩm khác. Tuy nhiên, Trung Hoa gần như không có đề cập đến “tướng của một bậc Thánh nhân”, ví dụ như tướng dưới lòng bàn chân “có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe, vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ” như tướng của đức Phật.

Trong Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng không trình bày và giải thích kỹ 32 tướng này. Người viết nghĩ rằng có lẽ đức Phật cho vốn kiến thức của môn này cũng có giới hạn và mang tính cách tương đối, không giúp ích hành giả đạt đến cứu cánh giác ngộ, giải thoát, mà chỉ giúp hành giả thêm chút kinh nghiệm về cách nhìn tướng người mà đoán được tâm tính của đối tượng. Vả lại, khả năng nhận xétkinh nghiệm của con người còn nhiều hạn chế do ức đoán, trắc lượng, chỉ thấy một phương diện nào đó, không thể thấy được tổng thể tướng tánh của con người như một bậc đắc đạo. Người xưa thường bảo “hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm.” Chính vì Phật giáo không có truyền thống “xem tướng” này mà chúng ta không tìm thấy được sự phân tích chi li hay lý giải về nhân tướng, thanh tướng hay thần tướng trong Kinh Luận, mà các tướng này được trình bày như là kết quả của nhiều đời trước thực hiện vô số hạnh lành của đức Phật.

ban_chan_phat_4

Bàn chân đức Phật tại Angkor Wat, Cambodia, thế kỷ thứ 12 (ảnh Unesco Courier, June 1956)

Liên quan đến tướng bàn chân của đức Phật, bản sớ giải Kinh Phật Tự Thuyết (VII. 10) thuộc Tiểu Bộ được cố giáo sư G.P. Malalasekera trình bày trong bộ tự điển nổi tiếng của ôngDictionary of Pali Proper Names (tập I, trang 693; tập II, trang 597) trình bày câu chuyện vào mùa mưa thứ 9 tại Kosambì, đức Phật đặc biệt hoá độ cha mẹ nàng Màgandiyà, một thiếu nữ kiều diễm lúc bấy giờ và sau này trở thành thứ hậu của vua Udena. Tương truyền rằng đức Phật chỉ để lại dấu chân của Ngài khi Ngài thật sự muốn, còn không thì không ai biết được tướng bàn chân của đức Phật như thế nào. Nhận thấy nhân duyên hoá độ song thân của nàng Màgandiyà đã đến, đức Phật đã để lại dấu chân của Ngài. Khi người mẹ của cô gái đến với mục đích gặp “chàng rể tương lai” của mình đã phát hiện ra đó là dấu chân của một bậc hoàn toàn thanh tịnh, không còn cáu bẩn dục vọng trong tâm thức. Câu chuyện này được HT. Narada kể lại ngắn gọn trong phần "Con đường hoằng pháp" thuộc tác phẩm Đức PhậtPhật Pháp.

ban_chan_phat_5

Bàn chân đức Phật tại tháp Sànci, Ấn Độ (ảnh của Louis Frederic, 1956)

Ngày nay mỗi khi Phật tử có dịp đến Bồ-đề Đạo Tràng để chiêm bái, tu tập, quý Phật tử sẽ thấy bàn chân của đức Phật có hình bánh xe được in trên vải bày bán khắp nơi. Bàn chân này to hơn bàn chân người thường rất nhiều, theo người viết nó không đúng với tướng bàn chân của đức Phật lịch sử.

ban_chan_phat_6

Bàn chân đức Phật tại Bồ-đề Đạo Tràng

Tại Bồ-đề Đạo Tràng có một tảng đá điêu khắc lại bàn chân đức Phật có hình bánh xe cũng rất lớn, đó cũng là do sức tưởng tượng của các Phật tử đời sau điêu khắc lại dấu chân của đức Phật để tưởng nhớ đức Phật và cũng có lẽ là để đánh dấu sự kiện đức Phật để lại dấu chân với mục đích hoá độ hai Bà-la-môn - cha mẹ của nàng Màgandiyà tại xứ Kosambì. Tuy nhiên, thạch điêu đó không đẹp, không giống như dấu chân của đức Phật như trong Kinh mô tả

ban_chan_phat_7

Bàn chân của tượng đức Phật Nhập Niết-bàn tại Kusinagara

Trong bộ Encyclopedia of Buddhism (Từ Điển Bách khoa Phật Giáo) tập III do cố giáo sư G.P. Malalasekera biên tập, được Chính phủ Tích Lan ấn hành 1971, phần cuối mục B có in nhiều hình đức Phật với các tư thế khác nhau và Thánh tích Bồ-đề Đạo Tràng, trong đó có dấu chân của đức Phật. Người viết nghĩ rằng, bức thạch điêu này không giống như tướng lòng bàn chân của đức Phật và cũng không được đẹp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9489)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9528)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8063)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10165)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8602)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9068)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8935)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8090)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8836)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25591)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 8955)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14284)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8094)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8495)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11767)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 8949)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10274)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8273)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8888)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9893)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9365)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8102)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9397)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8415)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10854)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 8987)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10405)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8206)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10178)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10372)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8916)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8164)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16270)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12205)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12145)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8679)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10083)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8458)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 8978)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10271)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8645)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8082)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8659)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7977)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7761)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9466)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8632)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10605)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15005)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12697)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8039)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16580)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6188)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9451)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6956)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7640)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6962)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7631)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22292)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8814)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant