Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Pháp Lấp Lánh Hơn Dưới Ánh Sáng Khoa Học

16 Tháng Chín 201300:00(Xem: 8015)
Phật Pháp Lấp Lánh Hơn Dưới Ánh Sáng Khoa Học

Kinh Phật mô tả, một dải Ngân hà được gọi là đơn vị thế giới. Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trong vũ trụ lại có trùng trùng đại thiên thế giới như vậy.

PHAT HOC.jpg

Ảnh minh họa

Người tu đạt Toàn giác (Phật) đồng nhất thể với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ, rồi đem sự thấy biết đó nói lại với chúng sanh các cõi. Phật do vậy có thể hiểu đồng nghĩa với vũ trụ. Để thấy rằng Phật không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn thường hằng từ vô thỉ dù cho Phật có ra đời hay không.

Những khám phá vĩ đại của ngành khoa học Vật lý lượng tử đem đối sánh với kinh điển nhà Phật đã phần nào hé lộ chân tướng vũ trụ trong con mắt và sự hiểu biết của loài người. Điển hình như khám phá về đời sống thực vật, cũng vui ghét giận hờn trước thái độ đối xử của con người.

Một kẻ cầm dao chặt cây, từ trường đo được méo xệch chứng tỏ cây đang run sợ. Cũng cầm dao song người ấy chỉ giả bộ, từ trường phẳng lặng cho thấy cây đi guốc trong bụng người. Rồi cùng thể “vô tình” với cây là nước; khoa học phát hiện nước có biểu cảm, có “kiến, văn, giác, tri”, nước hiểu sâu sắc ý nghĩ cũng như mọi ngôn ngữ trên hành tinh. Một cốc nước đặt ở Nhật, nếu một người ở Việt Nam quán tưởng yêu thương hay hờn giận, khi đem kết tinh, chụp lại sẽ cho ra hình ảnh đẹp như kim cương hay xấu như trái thối, ứng với niệm của người đã quán đó; có nghĩa không gian bị xóa nhòa.

Việc thu tần sóng giữa trời đất cũng phần nào biểu hiện không gian đã bị thu hẹp đến mức nào. Nếu thật có khoảng cách không gian, thì trong một phần triệu giây sao cách đại dương mà có thể bắt được sóng của nhau? Và nếu thời gian là thật tại sao những sự kiện xảy ra trong quá khứ, bằng phát minh khoa học thu được nó vẫn vẹn nguyên tồn lưu trong không gian mênh mông này.

Người ta từng tách mẹ con nhà hươu ra nhốt ở hai quốc gia xa lạ. Hễ mỗi lần đưa một hươu con ra bắn thì từ trường của hươu mẹ (ở quốc gia khác) “rùng mình”! Trong nhà Phật tuyệt đối không ủng hộ thí nghiệm trái đạo này, song qua đây cho thấy ý nghĩ/ý niệm của động vật nói chung đều trong một sát-na trùm phủ khắp hành tinh. Chúng ta sẽ rõ hơn qua “câu chuyện” sau: Nước Mỹ từng có hai vệ tinh đặt ở Bắc bán cầu và Nam bán cầu để đo từ trường của Trái đất.

Một ngày tháng 9 năm 2001 bỗng từ trường của Trái đất cong vênh. Những nhà khoa học trực tại đây chưa từng thấy hiện tượng đột biến này. Đến lúc những chiếc Boeing đâm vào tòa tháp đôi New York gây ra đại họa thảm khốc, họ mới vỡ lẽ. Trong nhà Phật cũng có câu chuyện về một kẻ, do chuyên khởi niệm quái ác nên hễ đến trú ngụ nơi đâu thì vùng ấy gặp thiên tai. Nay một nhóm người ít ỏi phát ý niệm cực xấu, nguy cơ làm hại nhiều người đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến từ trường Trái đất.

Phật pháp từng nêu: Sóng thần, động đất... cơ bản là do con người chiêu cảm nghiệp lực từ lòng sân hận, đố kỵ, tham si, giết hại chúng sanh quá tàn ác gây nên. Hiển nhiên, và hết sức khoa học, nhưng khoa học thì vẫn chưa dễ tin sâu và chưa dễ lấy đó làm kim chỉ nam cho tương lai của quả địa cầu đang gồng mình trụ thế.

Khi một cái gì đó quá cao, vượt ngoài sức tưởng tượng của con người thì thường bị quy là mê tín. Khoa học không chứng minh được điều: kinh điển Phật giáo là “cổ tích”; mà sự thật đang tiến triển theo chiều ngược lại khiến kinh điển càng ngời sáng dẫu những câu chữ ấy được nói cách gần ba ngàn năm về trước. Cũng để thấy, tất thảy những gì Phật thuyết đều tơ hào không sai, và dĩ nhiên con người trong tam giới sẽ có nguy cơ sa vào cảnh giới ác đạo một khi chấp chặt vào tri kiến thế gian.

Đạo Phật không hề có một chế định nào có tính ép buộc ai quy y, cũng không cản trở người quy y quay lưng với Tam bảo. Kinh điểnphác họa một cách chi tiết hình hài vũ trụ. “Tin thì tin, không tin thì thôi” - đơn giản như một câu thơ vậy. Công việc không mệt mỏi của Bồ-tát chúng là len lỏi vào các giai tầng xã hội thuyết giảng để làm hưng vượng giáo lý tối thượng, tiếp nối bản hoàihuệ mạng của chư Phật. Nếu nhất nhất Pháp chỉ có trong kinh điển là “bé cái nhầm”. Bồ-tát cần thân gì để độ liền hóa hiện thân ấy.

Pháp sư Tịnh Không từng ví, nếu Phật pháp là ngôi nhà ba tầng thì tầng thứ nhất là Nho, tầng thứ hai là Đạo, tầng trên hết là Phật. Ai chưa vào được Phật giáo Đại thừa hãy học kỹ Nho, Đạo trước. Lão Tử gần Phật nhất; Đạo ở mức thấp hơn nên dễ đứng vững trong kiến trúc thượng tầng xã hội. Cái “Không” (không là gọi cái bản thủy trời đất) trong Đạo đức kinh của Lão Tử xem ra chưa toàn triệt so với tánh Không hay “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Bát-nhã. Tuy xét đến cùng, Lão Tử cũng là Bồ-tát vô vi sanh tử rộng độ quần sanh. Một người tốt bình thường không chừng cũng là Phật “cải trang” trở lại nhân gian huống hồ đến bậc cao siêu như Lão Tử. Nghe “lời than”: Ta có mối lo là có thân này, đủ biết vị này đang thay Phật biểu diễn. Thế mới thấm thía ý câu nói của Đại sư Ấn Quang: Chỉ ta là phàm phu lè tè sát đất, cần bao dung khiêm hòa đối đãi với tất cả vạn sự vạn vật thì mới mong nhập vào dòng Thánh. Nếu ai đó nghĩ ta tốt thì ta là người tốt, nếu nghĩ xấu thì ngược lại... Trong mắt ta phải thật không có người xấu.

Nên nếu A tàn nhẫn với B, thì A mới là người đáng thương hơn, bởi vô minhnghiệp chướng A nhận sẽ nặng bội phần. Hãy thương lấy A, phát ý niệm thanh tịnh về A; cho những ai tương đồng mê lầm sớm tiếp nhận Phật pháp nhiệm mầu.

Dẫu rằng, điều nhiệm mầu luôn khó tin. Ngay đến người học Phật cũng còn tồn nghi; nghi Phật giáo Đại thừa, nghi pháp môn Tịnh độ. Học Phật chưa thấm thì mặt mũi như mèo sáng sớm. Thấm rồi lúc nào cũng vui. Buồn, người ta bảo học Phật khổ sở vậy theo làm gì (tội này ta phải gánh). Vui, mọi người nhìn vào sẽ bảo: Ờ, học Phật quả lợi ích, nên theo… Mọi pháp Phật thuyết đều bình đẳng “vô hữu cao hạ”, tùy vào căn cơ từng người. Cùng bệnh cùng thuốc song không phải ai cũng lành là vì vậy. Một trong những thông điệp căn cốt Phật đưa ra là: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Hễ ai muốn thành Phật chỉ cần buông vọng tưởngchấp trước, mà quan trọng nhất là vọng tưởng.

Khoa học chứng minh, phần nhiều năng lượng con người tiêu hao bởi vọng tưởng. Một người nằm trên giường nghỉ ngơi mà đầu óc chồng chéo cuồng loạn với bao ý nghĩ (chưa cần nói đến ý nghĩ xấu) thì năng lượng tiêu hao chẳng thua người bửa củi ngoài sân. Nhiều vọng tưởng cần phải ăn nhiều đồ bổ để bù lại sức, ít vọng tưởng thì cơ thể cần chút cháo cũng khỏe mạnh minh mẫn; nhiều vị sư ăn ngày một muỗng cơm hay vài quả hạt mà vẫn sống chính là từ nguyên lý này. Vọng tưởng ít, điều dễ nhận thấy là đêm nằm vắng dần ác mộng, mơ mộng cái đẹp cũng thưa. Vọng tưởng có thể ví như bèo tấm trên mặt hồ (tâm). Bớt vọng tưởng, bèo (tạp niệm, giấc mộng) liền giãn ra tươi xanh, nước hồ nhờ vậy cũng bớt ô nhiễm.

Khoa học kiểm chứng vọng tưởngkẻ thù tiêu hao năng lượng trong cơ thể người, lại không cách gì trừ diệt. Tịnh Độ tông khuyên người niệm “A Di Đà Phật”. Bất kể lúc nào không vướng công việc buộc phải nghĩ suy, trong tâm đều vang lên câu hồng danh, một thời gian vọng tưởng tự khắc thưa bớt. Đây quả là điều kỳ diệu nhất trong những điều kỳ diệu. Tỉnh giác trong mọi lúc mọi nơi. Giả như Phật tử phải tham gia vào một cuộc vui. Giữa ồn ào náo nhiệt, Phật tử tùy duyên hòa mà không đồng, vẻ mặt cười nói hòa vui mà trong tâm thì niệm “A Di Đà Phật” (niệm câu nào tai nghe rõ câu đó), vậy là thiền ngay trong cuộc thị phi nhơn ngã. Niệm Phật phải đến độ ví như nửa đêm tỉnh giấc, câu Phật hiệu tự nhiên vang lên; hoặc sáng ra choàng tỉnh tự hỏi: Ủa, ai bật “máy niệm Phật” trong tâm mình rồi nhỉ? Đó là biểu hiện người tu đã có công phu, toàn vọng đang dần quy chân, đạo lộ hướng về cõi mầu nhiệm thật sự đã hé mở trong mê lộ của tâm. 

phat_phap1

Phật pháp lấp lánh hơn dưới ánh sáng khoa học

Đạo Phật không phải triết học, càng không phải là một tôn giáo (như phương Tây định nghĩa). Đạo Phật là tấm gương phản chiếu quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh vô cùng tận nên trong nó sẵn chứa nhiều điều huyền nhiệm và tầng triết học siêu việt. Nếu chẳng tính căn duyên những kiếp trước (như trường hợp người không hiểu biết nhiều lại một lòng theo Phật); nếu chỉ xét sở tri nhân thế, thì đến như Albert Einstein với bộ óc thông tuệ tuyệt vời mới tin nổi lời Phật.

Nhiều bậc chân sư thời hiện đại đã rất bội phục việc khoa học phát hiện ra ý niệm tạo nên cảnh giới. Người nào ngày đêm với một ý nghĩ (ước muốn) thường trực, đến quay cuồng, quy luật hấp dẫn tự nhiên theo đó sẽ tạo nên những điều kiện phù hợp để người ấy nắm lấy mà kiến tạo tương lai. Dĩ nhiên điều này còn phụ thuộc vào phước đức, căn mạng từng người. Một nhà khoa học từng vẽ ngôi nhà mơ ước, rồi ông xếp nó vào hộp, thời gian cứ trôi và gia đình ông chuyển đến nơi khác sinh sống. Một ngày sực nhớ bức vẽ, ông lấy ra xem bỗng giật mình: ông đang sống trong ngôi nhà với hình dáng kể cả những sắp đặt nội thất giống y ngôi nhà mơ ước nhiều năm trước. Trong Phật pháp gọi là “duy tâm sở hiện”. Càng đúng với ai đó trong cuộc sống luôn với ý nghĩ và hành động tham (nguy cơ tạo cho mình cảnh giới ngạ quỷkiếp sau), sân (nguy cơ tạo cảnh giới địa ngục), si (nguy cơ tạo cảnh giới súc sanh), v.v… dễ đưa con người lệch đạo. Những mơ ước vật chất, đa phần người đời mong đạt để phục vụ sự hưởng thụ, gần như là con đường ngắn nhất đưa đến khổ đau và cũng là con đường ngắn nhất đưa họ càng dấn thân càng lún sâu vào cảnh khổ. Hôm nay nhà dột vách xiêu liền sốt sắng kiếm tiền sửa sang; hôm mai xe trục trặc liền nảy ý đổi cái mới, rồi tạm quên việc bố thí, trì giới...

Những ước mong tầm thường nhiều khi vô tình khiến cho nguyện vãng sanh lui xuống hàng thứ yếu mà người tu không hay. Vậy là “giấc mơ con” đè nát nguyện lực vĩ đại trong tầm tay. Người tu là người biết nương vào tự nhiên, hài hòa cùng tự nhiên mà sống, không cầu gì ghê gớm ngoài nguyện chí thành vãng sanh ngay đời này. Đó là chánh kiến. Mọi ước muốn khiến nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc phải xếp hàng đều là phá kiến, tàn hoại cái thân thể vô ngần quý giá chẳng dám mơ sẽ có lại ở kiếp sau.

Một ý niệm phát xuất liền bao trùm, châu biến tận hư không pháp giới. Một cá nhân với những ý niệm cực xấu hoặc cực tốt trong suốt cuộc đời đều có ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Mỗi cá thể không tách biệt mà có tác động nhất định đến “tính nết” của trái đất. Thế nên việc ta đóng cửa tha hồ làm việc xấu, tha hồ phát xuất ý nghĩ yêu ma quỷ quái, thật tai hại vì nó tiếp thêm sức mạnh cho nghiệp chướng. Ngược lại, một người luôn với ý nghĩ thuần thiện, cao hơn là không cả nghĩ thiện nghĩ ác mà tâm ý chỉ một câu “A Di Đà Phật”, vậy đã góp công lớn cho sự an bình của trái đất; người ấy dẫu quanh năm suốt tháng không giúp đỡ ai song đó là của quý hiếm giữa trời đất rồi. Thói thường phân biệt người này tốt kẻ kia xấu, không hay nếu ta cứ nhìn sâu Phật tính trong mọi chúng sanh chẳng những họ mà chính mình cũng mở lượng từ bi và ánh sáng tâm linh vi diệu rọi vào. Đây chính là điều khoa học cảm nhận được và khuyến cáo: Thay vì chống chiến tranh hãy ủng hộ hòa bình.

Trong các nghiệp, ý nghiệp nguy hiểm vô cùng. Ý nghĩ/ý niệm như những con mọt nghiền trong thớ gỗ; nhìn ngoài bóng bẩy trơn tru song khi phát hiện ra một chỗ hư, mới hay lòng cột đã rỗng. Thân tâm ta cũng sẽ mục ruỗng bởi nghiệp ý. Tâm khởi những ý xấu là rơi vào trận đồ của ma. Giả như đến cả ý nghĩ thiện mà ta cứ “nhấm nháp” mãi, thực ra đang bị nó xỏ mũi lôi vào mù mịt. Ấy là bộ mặt của vọng tưởng, rồi đến phân biệt (ngon - dở, xấu - đẹp), chấp trước (nguy nhất là chấp ngã). Pháp môn niệm Phật thù thắng ở cả phương diện đời thường đến giải thoát bởi, hễ nghiệp ý khởi lên thì thay ngay vào từng chuỗi “A Di Đà Phật” sẽ là thần dược số một đặc trị phiền não, tâm sẽ tự hướng đến những giá trị thanh cao thuần khiết.

Chuyên tâm niệm Phật, tâm sở thiện và bất thiện được quân bình, cao nữa thì tâm sở bất thiện triệt diệt. Công phu vượt thắng, niệm thiện cũng vắng nốt; là thời điểm tâm bắt đầu trong lặng rồi phát huy công năng vi diệu. Tâm sáng thân sẽ ít bệnh, hoặc như gặp bệnh hiểm nghèo vẫn có thể tự chữa bằng sự việc “quên” trong thân mình có căn bệnh. Người niệm Phật tự chữa lành bệnh nan y rất nhiều. Bác sĩ Ihaleakala Hewlen đã học được truyền thống tâm linh cổ xưa của thổ dân Hawaii chữa cho hầu hết người bệnh tâm thần bằng việc hướng vào nội tâm, trở về với “không”, đến nỗi bệnh viện nơi ông làm việc phải đóng cửa vì không còn bệnh nhân. Nghĩa là bác sĩ không hề động chạm gì tới con bệnh mà chỉ quán thấy trong tâm, trong ý nghĩ của mình người kia hoàn toàn không có bệnh... Theo lý Phật, bệnh ấy (hay tính xấu ác của đối tượng) chỉ là tập tánh huân tụ lâu dài chứ không phải bản tánh. “Tự tánh hằng thanh tịnh”. Chỉ cần trở lại “cái không” thì dạng vọng tưởng kia biến mất. Bởi vậy một người có khối u, nếu lo lắng, tâm lý nặng nề khối u phát triển càng nhanh. Tập “quên” nó đi, sống vì niềm vui của người khác, và tốt nhất là chuyên niệm Phật, khối u ít nhất phát triển chậm hơn nhiều so với cách chữa trị thông thường tốn nhiều tiền bạc. Sở dĩ người ta quên hẳn căn bệnh bởi tâm họ pháp hỷ sung mãn, vắng bặt vọng tưởng. Bệnh chỉ là sự ghé thăm của nghiệp thức, họ làm chủ được.

Hòa thượng Quảng Khâm về già có lần đau nặng. Ngài bảo thân này như ngôi nhà tranh đã ọp ẹp, muốn nhập Niết-bàn rồi trở lại cõi nhân gian thay một cái nhà bê-tông cốt thép chắc chắn hơn. Các đệ tử quây lại ngày đêm tha thiết “thỉnh Phật trụ thế”. Thương tình Hòa thượng gật đầu, và thế là những ngày sau ngài khỏe khoắn như thường. Điều này chứng tỏ tâm tịnh sáng sẽ điều phục được thân. Chẳng những vậy tâm ấy còn điều khiển được cả tinh cầu... (Vấn đề này xin không đề cập thêm bởi dễ sa vào thần thông diệu dụng - điều thường khiến người tu có chút quả vị lạc trong ấm ma như Phật từng nhắc trong kinh Thủ lăng nghiêm. Cũng như một số nhà ngoại cảm nhìn thấu cảnh thân trung ấm, bên cạnh cái tốt là để biết chết không phải hết, lại dễ khiến người đời hiểu sai lục đạo luân hồi khi thấy “họ” vẫn ở bên mồ chứ nào có đầu thai làm con gì. Thân trung ấm chỉ là một chút xíu trong vô biên cảnh giới Phật truyền giảng. Hiểu một nhầm thành “chư pháp thật tướng” thì hỏi sao tam thế Phật không oan cho được!).

Những gì mà người trần mắt thịt như chúng ta tại thế gian chứng kiến là quá ư hạn hẹp; cho trên đầu ta không có gì lại càng thiển cận. Trong lúc nếu không tụt hậu về tri kiến, ta sẽ biết thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiêm túc khẳng định thuyết luân hồi là đầy đủ căn cứ. Ngày xưa ai dám tin cả thư viện sách chứa gọn trong cái USB nhỏ hơn cả ngón tay. Vậy nên dè chừng lời trong kinh điển; đừng tưởng con người to lớn sẽ không thể chui vào thân con kiến ở kiếp vị lai nếu lầm đường lạc lối. Và đừng tưởng con vi khuẩn nhỏ vậy, thể tánh của nó không chứa tam thiên đại thiên thế giới. Hãy xem khám phá khoa học sau: Tấm hình cắt đôi, đưa (một nửa) vào chiếc máy khoa học, vẫn thấy nguyên vẹn bức hình đó. Cắt tấm hình ra chục mảnh, lạ thay, mỗi mảnh như vậy vẫn đầy đủ hình tướng chụp ban đầu. Điều này làm sáng chói một câu trong kinh Hoa nghiêm: “Nhất tức nhất thiết” (một là tất cả). Cá thể chúng sanhPhật tính. Vậy cái toàn giác đã có trong mỗi phàm phu. Buông xuống vọng tưởng, “vọng tận hoàn nguyên”, phàm phu thành Phật. Như vậy phàm phu trong tâm mình vốn dĩ là cả vũ trụ. Ấy chính là “tự tánh vốn trọn đủ” như Lục tổ Huệ Năng lúc chứng ngộ từng thốt lên.

Do đó, không học kinh điển nhà Phật nghiêm túc, nhất là không chọn lấy một pháp mônrốt ráo thực hành lại khởi tâm bài bác, ấy là vừa lội qua đầm lầy lại muốn dò lòng đại dương

Khi nhà thiên văn chụp được những thiên hà “hình xa luân”, “hình trụ”, “hình bán nguyệt”,… đúng như Phật tả về Hoa tạng thế giới thì chính là kinh điển Phật giáo lấp lánh dưới ánh sáng khoa học. Khi những khám phá làm rúng động nhận thức của loài người đơn giản chỉ là vô tình minh tường vài nhánh trong rừng kinh điển vô giá, liệu có cần đặt ra vô vàn câu hỏi trước lúc ta chịu tin lời Đức Phật

Nhụy Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7971)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16141)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15688)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7925)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7922)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8653)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7812)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7404)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9257)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8513)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8556)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11824)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7448)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8230)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11636)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7365)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8918)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8367)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 9980)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9624)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9550)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10508)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10076)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8159)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20145)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8038)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8511)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9388)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9234)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7690)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8312)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8157)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 8973)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8721)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8553)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10134)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8085)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8791)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 8967)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8411)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7572)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7478)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9462)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9812)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8484)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12215)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9582)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7514)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8799)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16808)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 8961)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13203)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19707)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8591)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9166)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8254)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10134)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
(Xem: 9769)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 14961)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7832)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant