Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Pháp Lấp Lánh Hơn Dưới Ánh Sáng Khoa Học

16 Tháng Chín 201300:00(Xem: 7958)
Phật Pháp Lấp Lánh Hơn Dưới Ánh Sáng Khoa Học

Kinh Phật mô tả, một dải Ngân hà được gọi là đơn vị thế giới. Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trong vũ trụ lại có trùng trùng đại thiên thế giới như vậy.

PHAT HOC.jpg

Ảnh minh họa

Người tu đạt Toàn giác (Phật) đồng nhất thể với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ, rồi đem sự thấy biết đó nói lại với chúng sanh các cõi. Phật do vậy có thể hiểu đồng nghĩa với vũ trụ. Để thấy rằng Phật không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn thường hằng từ vô thỉ dù cho Phật có ra đời hay không.

Những khám phá vĩ đại của ngành khoa học Vật lý lượng tử đem đối sánh với kinh điển nhà Phật đã phần nào hé lộ chân tướng vũ trụ trong con mắt và sự hiểu biết của loài người. Điển hình như khám phá về đời sống thực vật, cũng vui ghét giận hờn trước thái độ đối xử của con người.

Một kẻ cầm dao chặt cây, từ trường đo được méo xệch chứng tỏ cây đang run sợ. Cũng cầm dao song người ấy chỉ giả bộ, từ trường phẳng lặng cho thấy cây đi guốc trong bụng người. Rồi cùng thể “vô tình” với cây là nước; khoa học phát hiện nước có biểu cảm, có “kiến, văn, giác, tri”, nước hiểu sâu sắc ý nghĩ cũng như mọi ngôn ngữ trên hành tinh. Một cốc nước đặt ở Nhật, nếu một người ở Việt Nam quán tưởng yêu thương hay hờn giận, khi đem kết tinh, chụp lại sẽ cho ra hình ảnh đẹp như kim cương hay xấu như trái thối, ứng với niệm của người đã quán đó; có nghĩa không gian bị xóa nhòa.

Việc thu tần sóng giữa trời đất cũng phần nào biểu hiện không gian đã bị thu hẹp đến mức nào. Nếu thật có khoảng cách không gian, thì trong một phần triệu giây sao cách đại dương mà có thể bắt được sóng của nhau? Và nếu thời gian là thật tại sao những sự kiện xảy ra trong quá khứ, bằng phát minh khoa học thu được nó vẫn vẹn nguyên tồn lưu trong không gian mênh mông này.

Người ta từng tách mẹ con nhà hươu ra nhốt ở hai quốc gia xa lạ. Hễ mỗi lần đưa một hươu con ra bắn thì từ trường của hươu mẹ (ở quốc gia khác) “rùng mình”! Trong nhà Phật tuyệt đối không ủng hộ thí nghiệm trái đạo này, song qua đây cho thấy ý nghĩ/ý niệm của động vật nói chung đều trong một sát-na trùm phủ khắp hành tinh. Chúng ta sẽ rõ hơn qua “câu chuyện” sau: Nước Mỹ từng có hai vệ tinh đặt ở Bắc bán cầu và Nam bán cầu để đo từ trường của Trái đất.

Một ngày tháng 9 năm 2001 bỗng từ trường của Trái đất cong vênh. Những nhà khoa học trực tại đây chưa từng thấy hiện tượng đột biến này. Đến lúc những chiếc Boeing đâm vào tòa tháp đôi New York gây ra đại họa thảm khốc, họ mới vỡ lẽ. Trong nhà Phật cũng có câu chuyện về một kẻ, do chuyên khởi niệm quái ác nên hễ đến trú ngụ nơi đâu thì vùng ấy gặp thiên tai. Nay một nhóm người ít ỏi phát ý niệm cực xấu, nguy cơ làm hại nhiều người đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến từ trường Trái đất.

Phật pháp từng nêu: Sóng thần, động đất... cơ bản là do con người chiêu cảm nghiệp lực từ lòng sân hận, đố kỵ, tham si, giết hại chúng sanh quá tàn ác gây nên. Hiển nhiên, và hết sức khoa học, nhưng khoa học thì vẫn chưa dễ tin sâu và chưa dễ lấy đó làm kim chỉ nam cho tương lai của quả địa cầu đang gồng mình trụ thế.

Khi một cái gì đó quá cao, vượt ngoài sức tưởng tượng của con người thì thường bị quy là mê tín. Khoa học không chứng minh được điều: kinh điển Phật giáo là “cổ tích”; mà sự thật đang tiến triển theo chiều ngược lại khiến kinh điển càng ngời sáng dẫu những câu chữ ấy được nói cách gần ba ngàn năm về trước. Cũng để thấy, tất thảy những gì Phật thuyết đều tơ hào không sai, và dĩ nhiên con người trong tam giới sẽ có nguy cơ sa vào cảnh giới ác đạo một khi chấp chặt vào tri kiến thế gian.

Đạo Phật không hề có một chế định nào có tính ép buộc ai quy y, cũng không cản trở người quy y quay lưng với Tam bảo. Kinh điểnphác họa một cách chi tiết hình hài vũ trụ. “Tin thì tin, không tin thì thôi” - đơn giản như một câu thơ vậy. Công việc không mệt mỏi của Bồ-tát chúng là len lỏi vào các giai tầng xã hội thuyết giảng để làm hưng vượng giáo lý tối thượng, tiếp nối bản hoàihuệ mạng của chư Phật. Nếu nhất nhất Pháp chỉ có trong kinh điển là “bé cái nhầm”. Bồ-tát cần thân gì để độ liền hóa hiện thân ấy.

Pháp sư Tịnh Không từng ví, nếu Phật pháp là ngôi nhà ba tầng thì tầng thứ nhất là Nho, tầng thứ hai là Đạo, tầng trên hết là Phật. Ai chưa vào được Phật giáo Đại thừa hãy học kỹ Nho, Đạo trước. Lão Tử gần Phật nhất; Đạo ở mức thấp hơn nên dễ đứng vững trong kiến trúc thượng tầng xã hội. Cái “Không” (không là gọi cái bản thủy trời đất) trong Đạo đức kinh của Lão Tử xem ra chưa toàn triệt so với tánh Không hay “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Bát-nhã. Tuy xét đến cùng, Lão Tử cũng là Bồ-tát vô vi sanh tử rộng độ quần sanh. Một người tốt bình thường không chừng cũng là Phật “cải trang” trở lại nhân gian huống hồ đến bậc cao siêu như Lão Tử. Nghe “lời than”: Ta có mối lo là có thân này, đủ biết vị này đang thay Phật biểu diễn. Thế mới thấm thía ý câu nói của Đại sư Ấn Quang: Chỉ ta là phàm phu lè tè sát đất, cần bao dung khiêm hòa đối đãi với tất cả vạn sự vạn vật thì mới mong nhập vào dòng Thánh. Nếu ai đó nghĩ ta tốt thì ta là người tốt, nếu nghĩ xấu thì ngược lại... Trong mắt ta phải thật không có người xấu.

Nên nếu A tàn nhẫn với B, thì A mới là người đáng thương hơn, bởi vô minhnghiệp chướng A nhận sẽ nặng bội phần. Hãy thương lấy A, phát ý niệm thanh tịnh về A; cho những ai tương đồng mê lầm sớm tiếp nhận Phật pháp nhiệm mầu.

Dẫu rằng, điều nhiệm mầu luôn khó tin. Ngay đến người học Phật cũng còn tồn nghi; nghi Phật giáo Đại thừa, nghi pháp môn Tịnh độ. Học Phật chưa thấm thì mặt mũi như mèo sáng sớm. Thấm rồi lúc nào cũng vui. Buồn, người ta bảo học Phật khổ sở vậy theo làm gì (tội này ta phải gánh). Vui, mọi người nhìn vào sẽ bảo: Ờ, học Phật quả lợi ích, nên theo… Mọi pháp Phật thuyết đều bình đẳng “vô hữu cao hạ”, tùy vào căn cơ từng người. Cùng bệnh cùng thuốc song không phải ai cũng lành là vì vậy. Một trong những thông điệp căn cốt Phật đưa ra là: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Hễ ai muốn thành Phật chỉ cần buông vọng tưởngchấp trước, mà quan trọng nhất là vọng tưởng.

Khoa học chứng minh, phần nhiều năng lượng con người tiêu hao bởi vọng tưởng. Một người nằm trên giường nghỉ ngơi mà đầu óc chồng chéo cuồng loạn với bao ý nghĩ (chưa cần nói đến ý nghĩ xấu) thì năng lượng tiêu hao chẳng thua người bửa củi ngoài sân. Nhiều vọng tưởng cần phải ăn nhiều đồ bổ để bù lại sức, ít vọng tưởng thì cơ thể cần chút cháo cũng khỏe mạnh minh mẫn; nhiều vị sư ăn ngày một muỗng cơm hay vài quả hạt mà vẫn sống chính là từ nguyên lý này. Vọng tưởng ít, điều dễ nhận thấy là đêm nằm vắng dần ác mộng, mơ mộng cái đẹp cũng thưa. Vọng tưởng có thể ví như bèo tấm trên mặt hồ (tâm). Bớt vọng tưởng, bèo (tạp niệm, giấc mộng) liền giãn ra tươi xanh, nước hồ nhờ vậy cũng bớt ô nhiễm.

Khoa học kiểm chứng vọng tưởngkẻ thù tiêu hao năng lượng trong cơ thể người, lại không cách gì trừ diệt. Tịnh Độ tông khuyên người niệm “A Di Đà Phật”. Bất kể lúc nào không vướng công việc buộc phải nghĩ suy, trong tâm đều vang lên câu hồng danh, một thời gian vọng tưởng tự khắc thưa bớt. Đây quả là điều kỳ diệu nhất trong những điều kỳ diệu. Tỉnh giác trong mọi lúc mọi nơi. Giả như Phật tử phải tham gia vào một cuộc vui. Giữa ồn ào náo nhiệt, Phật tử tùy duyên hòa mà không đồng, vẻ mặt cười nói hòa vui mà trong tâm thì niệm “A Di Đà Phật” (niệm câu nào tai nghe rõ câu đó), vậy là thiền ngay trong cuộc thị phi nhơn ngã. Niệm Phật phải đến độ ví như nửa đêm tỉnh giấc, câu Phật hiệu tự nhiên vang lên; hoặc sáng ra choàng tỉnh tự hỏi: Ủa, ai bật “máy niệm Phật” trong tâm mình rồi nhỉ? Đó là biểu hiện người tu đã có công phu, toàn vọng đang dần quy chân, đạo lộ hướng về cõi mầu nhiệm thật sự đã hé mở trong mê lộ của tâm. 

phat_phap1

Phật pháp lấp lánh hơn dưới ánh sáng khoa học

Đạo Phật không phải triết học, càng không phải là một tôn giáo (như phương Tây định nghĩa). Đạo Phật là tấm gương phản chiếu quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh vô cùng tận nên trong nó sẵn chứa nhiều điều huyền nhiệm và tầng triết học siêu việt. Nếu chẳng tính căn duyên những kiếp trước (như trường hợp người không hiểu biết nhiều lại một lòng theo Phật); nếu chỉ xét sở tri nhân thế, thì đến như Albert Einstein với bộ óc thông tuệ tuyệt vời mới tin nổi lời Phật.

Nhiều bậc chân sư thời hiện đại đã rất bội phục việc khoa học phát hiện ra ý niệm tạo nên cảnh giới. Người nào ngày đêm với một ý nghĩ (ước muốn) thường trực, đến quay cuồng, quy luật hấp dẫn tự nhiên theo đó sẽ tạo nên những điều kiện phù hợp để người ấy nắm lấy mà kiến tạo tương lai. Dĩ nhiên điều này còn phụ thuộc vào phước đức, căn mạng từng người. Một nhà khoa học từng vẽ ngôi nhà mơ ước, rồi ông xếp nó vào hộp, thời gian cứ trôi và gia đình ông chuyển đến nơi khác sinh sống. Một ngày sực nhớ bức vẽ, ông lấy ra xem bỗng giật mình: ông đang sống trong ngôi nhà với hình dáng kể cả những sắp đặt nội thất giống y ngôi nhà mơ ước nhiều năm trước. Trong Phật pháp gọi là “duy tâm sở hiện”. Càng đúng với ai đó trong cuộc sống luôn với ý nghĩ và hành động tham (nguy cơ tạo cho mình cảnh giới ngạ quỷkiếp sau), sân (nguy cơ tạo cảnh giới địa ngục), si (nguy cơ tạo cảnh giới súc sanh), v.v… dễ đưa con người lệch đạo. Những mơ ước vật chất, đa phần người đời mong đạt để phục vụ sự hưởng thụ, gần như là con đường ngắn nhất đưa đến khổ đau và cũng là con đường ngắn nhất đưa họ càng dấn thân càng lún sâu vào cảnh khổ. Hôm nay nhà dột vách xiêu liền sốt sắng kiếm tiền sửa sang; hôm mai xe trục trặc liền nảy ý đổi cái mới, rồi tạm quên việc bố thí, trì giới...

Những ước mong tầm thường nhiều khi vô tình khiến cho nguyện vãng sanh lui xuống hàng thứ yếu mà người tu không hay. Vậy là “giấc mơ con” đè nát nguyện lực vĩ đại trong tầm tay. Người tu là người biết nương vào tự nhiên, hài hòa cùng tự nhiên mà sống, không cầu gì ghê gớm ngoài nguyện chí thành vãng sanh ngay đời này. Đó là chánh kiến. Mọi ước muốn khiến nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc phải xếp hàng đều là phá kiến, tàn hoại cái thân thể vô ngần quý giá chẳng dám mơ sẽ có lại ở kiếp sau.

Một ý niệm phát xuất liền bao trùm, châu biến tận hư không pháp giới. Một cá nhân với những ý niệm cực xấu hoặc cực tốt trong suốt cuộc đời đều có ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Mỗi cá thể không tách biệt mà có tác động nhất định đến “tính nết” của trái đất. Thế nên việc ta đóng cửa tha hồ làm việc xấu, tha hồ phát xuất ý nghĩ yêu ma quỷ quái, thật tai hại vì nó tiếp thêm sức mạnh cho nghiệp chướng. Ngược lại, một người luôn với ý nghĩ thuần thiện, cao hơn là không cả nghĩ thiện nghĩ ác mà tâm ý chỉ một câu “A Di Đà Phật”, vậy đã góp công lớn cho sự an bình của trái đất; người ấy dẫu quanh năm suốt tháng không giúp đỡ ai song đó là của quý hiếm giữa trời đất rồi. Thói thường phân biệt người này tốt kẻ kia xấu, không hay nếu ta cứ nhìn sâu Phật tính trong mọi chúng sanh chẳng những họ mà chính mình cũng mở lượng từ bi và ánh sáng tâm linh vi diệu rọi vào. Đây chính là điều khoa học cảm nhận được và khuyến cáo: Thay vì chống chiến tranh hãy ủng hộ hòa bình.

Trong các nghiệp, ý nghiệp nguy hiểm vô cùng. Ý nghĩ/ý niệm như những con mọt nghiền trong thớ gỗ; nhìn ngoài bóng bẩy trơn tru song khi phát hiện ra một chỗ hư, mới hay lòng cột đã rỗng. Thân tâm ta cũng sẽ mục ruỗng bởi nghiệp ý. Tâm khởi những ý xấu là rơi vào trận đồ của ma. Giả như đến cả ý nghĩ thiện mà ta cứ “nhấm nháp” mãi, thực ra đang bị nó xỏ mũi lôi vào mù mịt. Ấy là bộ mặt của vọng tưởng, rồi đến phân biệt (ngon - dở, xấu - đẹp), chấp trước (nguy nhất là chấp ngã). Pháp môn niệm Phật thù thắng ở cả phương diện đời thường đến giải thoát bởi, hễ nghiệp ý khởi lên thì thay ngay vào từng chuỗi “A Di Đà Phật” sẽ là thần dược số một đặc trị phiền não, tâm sẽ tự hướng đến những giá trị thanh cao thuần khiết.

Chuyên tâm niệm Phật, tâm sở thiện và bất thiện được quân bình, cao nữa thì tâm sở bất thiện triệt diệt. Công phu vượt thắng, niệm thiện cũng vắng nốt; là thời điểm tâm bắt đầu trong lặng rồi phát huy công năng vi diệu. Tâm sáng thân sẽ ít bệnh, hoặc như gặp bệnh hiểm nghèo vẫn có thể tự chữa bằng sự việc “quên” trong thân mình có căn bệnh. Người niệm Phật tự chữa lành bệnh nan y rất nhiều. Bác sĩ Ihaleakala Hewlen đã học được truyền thống tâm linh cổ xưa của thổ dân Hawaii chữa cho hầu hết người bệnh tâm thần bằng việc hướng vào nội tâm, trở về với “không”, đến nỗi bệnh viện nơi ông làm việc phải đóng cửa vì không còn bệnh nhân. Nghĩa là bác sĩ không hề động chạm gì tới con bệnh mà chỉ quán thấy trong tâm, trong ý nghĩ của mình người kia hoàn toàn không có bệnh... Theo lý Phật, bệnh ấy (hay tính xấu ác của đối tượng) chỉ là tập tánh huân tụ lâu dài chứ không phải bản tánh. “Tự tánh hằng thanh tịnh”. Chỉ cần trở lại “cái không” thì dạng vọng tưởng kia biến mất. Bởi vậy một người có khối u, nếu lo lắng, tâm lý nặng nề khối u phát triển càng nhanh. Tập “quên” nó đi, sống vì niềm vui của người khác, và tốt nhất là chuyên niệm Phật, khối u ít nhất phát triển chậm hơn nhiều so với cách chữa trị thông thường tốn nhiều tiền bạc. Sở dĩ người ta quên hẳn căn bệnh bởi tâm họ pháp hỷ sung mãn, vắng bặt vọng tưởng. Bệnh chỉ là sự ghé thăm của nghiệp thức, họ làm chủ được.

Hòa thượng Quảng Khâm về già có lần đau nặng. Ngài bảo thân này như ngôi nhà tranh đã ọp ẹp, muốn nhập Niết-bàn rồi trở lại cõi nhân gian thay một cái nhà bê-tông cốt thép chắc chắn hơn. Các đệ tử quây lại ngày đêm tha thiết “thỉnh Phật trụ thế”. Thương tình Hòa thượng gật đầu, và thế là những ngày sau ngài khỏe khoắn như thường. Điều này chứng tỏ tâm tịnh sáng sẽ điều phục được thân. Chẳng những vậy tâm ấy còn điều khiển được cả tinh cầu... (Vấn đề này xin không đề cập thêm bởi dễ sa vào thần thông diệu dụng - điều thường khiến người tu có chút quả vị lạc trong ấm ma như Phật từng nhắc trong kinh Thủ lăng nghiêm. Cũng như một số nhà ngoại cảm nhìn thấu cảnh thân trung ấm, bên cạnh cái tốt là để biết chết không phải hết, lại dễ khiến người đời hiểu sai lục đạo luân hồi khi thấy “họ” vẫn ở bên mồ chứ nào có đầu thai làm con gì. Thân trung ấm chỉ là một chút xíu trong vô biên cảnh giới Phật truyền giảng. Hiểu một nhầm thành “chư pháp thật tướng” thì hỏi sao tam thế Phật không oan cho được!).

Những gì mà người trần mắt thịt như chúng ta tại thế gian chứng kiến là quá ư hạn hẹp; cho trên đầu ta không có gì lại càng thiển cận. Trong lúc nếu không tụt hậu về tri kiến, ta sẽ biết thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiêm túc khẳng định thuyết luân hồi là đầy đủ căn cứ. Ngày xưa ai dám tin cả thư viện sách chứa gọn trong cái USB nhỏ hơn cả ngón tay. Vậy nên dè chừng lời trong kinh điển; đừng tưởng con người to lớn sẽ không thể chui vào thân con kiến ở kiếp vị lai nếu lầm đường lạc lối. Và đừng tưởng con vi khuẩn nhỏ vậy, thể tánh của nó không chứa tam thiên đại thiên thế giới. Hãy xem khám phá khoa học sau: Tấm hình cắt đôi, đưa (một nửa) vào chiếc máy khoa học, vẫn thấy nguyên vẹn bức hình đó. Cắt tấm hình ra chục mảnh, lạ thay, mỗi mảnh như vậy vẫn đầy đủ hình tướng chụp ban đầu. Điều này làm sáng chói một câu trong kinh Hoa nghiêm: “Nhất tức nhất thiết” (một là tất cả). Cá thể chúng sanhPhật tính. Vậy cái toàn giác đã có trong mỗi phàm phu. Buông xuống vọng tưởng, “vọng tận hoàn nguyên”, phàm phu thành Phật. Như vậy phàm phu trong tâm mình vốn dĩ là cả vũ trụ. Ấy chính là “tự tánh vốn trọn đủ” như Lục tổ Huệ Năng lúc chứng ngộ từng thốt lên.

Do đó, không học kinh điển nhà Phật nghiêm túc, nhất là không chọn lấy một pháp mônrốt ráo thực hành lại khởi tâm bài bác, ấy là vừa lội qua đầm lầy lại muốn dò lòng đại dương

Khi nhà thiên văn chụp được những thiên hà “hình xa luân”, “hình trụ”, “hình bán nguyệt”,… đúng như Phật tả về Hoa tạng thế giới thì chính là kinh điển Phật giáo lấp lánh dưới ánh sáng khoa học. Khi những khám phá làm rúng động nhận thức của loài người đơn giản chỉ là vô tình minh tường vài nhánh trong rừng kinh điển vô giá, liệu có cần đặt ra vô vàn câu hỏi trước lúc ta chịu tin lời Đức Phật

Nhụy Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6854)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13741)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7450)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9227)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7783)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7692)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7244)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7625)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7388)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8566)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 10983)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19065)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8733)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8762)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14530)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15183)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8474)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10896)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11231)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8625)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 8997)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8715)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9060)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10718)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 8954)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7830)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8720)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8203)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7210)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 10988)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7316)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8195)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17504)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44122)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45411)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 44946)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10531)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8458)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7483)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7474)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7278)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12000)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7825)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8329)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9069)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 7994)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8784)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 7889)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8073)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8574)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16219)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7036)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6850)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9562)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 22934)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8031)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant