Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Pháp Lấp Lánh Hơn Dưới Ánh Sáng Khoa Học

16 Tháng Chín 201300:00(Xem: 8006)
Phật Pháp Lấp Lánh Hơn Dưới Ánh Sáng Khoa Học

Kinh Phật mô tả, một dải Ngân hà được gọi là đơn vị thế giới. Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trong vũ trụ lại có trùng trùng đại thiên thế giới như vậy.

PHAT HOC.jpg

Ảnh minh họa

Người tu đạt Toàn giác (Phật) đồng nhất thể với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ, rồi đem sự thấy biết đó nói lại với chúng sanh các cõi. Phật do vậy có thể hiểu đồng nghĩa với vũ trụ. Để thấy rằng Phật không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn thường hằng từ vô thỉ dù cho Phật có ra đời hay không.

Những khám phá vĩ đại của ngành khoa học Vật lý lượng tử đem đối sánh với kinh điển nhà Phật đã phần nào hé lộ chân tướng vũ trụ trong con mắt và sự hiểu biết của loài người. Điển hình như khám phá về đời sống thực vật, cũng vui ghét giận hờn trước thái độ đối xử của con người.

Một kẻ cầm dao chặt cây, từ trường đo được méo xệch chứng tỏ cây đang run sợ. Cũng cầm dao song người ấy chỉ giả bộ, từ trường phẳng lặng cho thấy cây đi guốc trong bụng người. Rồi cùng thể “vô tình” với cây là nước; khoa học phát hiện nước có biểu cảm, có “kiến, văn, giác, tri”, nước hiểu sâu sắc ý nghĩ cũng như mọi ngôn ngữ trên hành tinh. Một cốc nước đặt ở Nhật, nếu một người ở Việt Nam quán tưởng yêu thương hay hờn giận, khi đem kết tinh, chụp lại sẽ cho ra hình ảnh đẹp như kim cương hay xấu như trái thối, ứng với niệm của người đã quán đó; có nghĩa không gian bị xóa nhòa.

Việc thu tần sóng giữa trời đất cũng phần nào biểu hiện không gian đã bị thu hẹp đến mức nào. Nếu thật có khoảng cách không gian, thì trong một phần triệu giây sao cách đại dương mà có thể bắt được sóng của nhau? Và nếu thời gian là thật tại sao những sự kiện xảy ra trong quá khứ, bằng phát minh khoa học thu được nó vẫn vẹn nguyên tồn lưu trong không gian mênh mông này.

Người ta từng tách mẹ con nhà hươu ra nhốt ở hai quốc gia xa lạ. Hễ mỗi lần đưa một hươu con ra bắn thì từ trường của hươu mẹ (ở quốc gia khác) “rùng mình”! Trong nhà Phật tuyệt đối không ủng hộ thí nghiệm trái đạo này, song qua đây cho thấy ý nghĩ/ý niệm của động vật nói chung đều trong một sát-na trùm phủ khắp hành tinh. Chúng ta sẽ rõ hơn qua “câu chuyện” sau: Nước Mỹ từng có hai vệ tinh đặt ở Bắc bán cầu và Nam bán cầu để đo từ trường của Trái đất.

Một ngày tháng 9 năm 2001 bỗng từ trường của Trái đất cong vênh. Những nhà khoa học trực tại đây chưa từng thấy hiện tượng đột biến này. Đến lúc những chiếc Boeing đâm vào tòa tháp đôi New York gây ra đại họa thảm khốc, họ mới vỡ lẽ. Trong nhà Phật cũng có câu chuyện về một kẻ, do chuyên khởi niệm quái ác nên hễ đến trú ngụ nơi đâu thì vùng ấy gặp thiên tai. Nay một nhóm người ít ỏi phát ý niệm cực xấu, nguy cơ làm hại nhiều người đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến từ trường Trái đất.

Phật pháp từng nêu: Sóng thần, động đất... cơ bản là do con người chiêu cảm nghiệp lực từ lòng sân hận, đố kỵ, tham si, giết hại chúng sanh quá tàn ác gây nên. Hiển nhiên, và hết sức khoa học, nhưng khoa học thì vẫn chưa dễ tin sâu và chưa dễ lấy đó làm kim chỉ nam cho tương lai của quả địa cầu đang gồng mình trụ thế.

Khi một cái gì đó quá cao, vượt ngoài sức tưởng tượng của con người thì thường bị quy là mê tín. Khoa học không chứng minh được điều: kinh điển Phật giáo là “cổ tích”; mà sự thật đang tiến triển theo chiều ngược lại khiến kinh điển càng ngời sáng dẫu những câu chữ ấy được nói cách gần ba ngàn năm về trước. Cũng để thấy, tất thảy những gì Phật thuyết đều tơ hào không sai, và dĩ nhiên con người trong tam giới sẽ có nguy cơ sa vào cảnh giới ác đạo một khi chấp chặt vào tri kiến thế gian.

Đạo Phật không hề có một chế định nào có tính ép buộc ai quy y, cũng không cản trở người quy y quay lưng với Tam bảo. Kinh điểnphác họa một cách chi tiết hình hài vũ trụ. “Tin thì tin, không tin thì thôi” - đơn giản như một câu thơ vậy. Công việc không mệt mỏi của Bồ-tát chúng là len lỏi vào các giai tầng xã hội thuyết giảng để làm hưng vượng giáo lý tối thượng, tiếp nối bản hoàihuệ mạng của chư Phật. Nếu nhất nhất Pháp chỉ có trong kinh điển là “bé cái nhầm”. Bồ-tát cần thân gì để độ liền hóa hiện thân ấy.

Pháp sư Tịnh Không từng ví, nếu Phật pháp là ngôi nhà ba tầng thì tầng thứ nhất là Nho, tầng thứ hai là Đạo, tầng trên hết là Phật. Ai chưa vào được Phật giáo Đại thừa hãy học kỹ Nho, Đạo trước. Lão Tử gần Phật nhất; Đạo ở mức thấp hơn nên dễ đứng vững trong kiến trúc thượng tầng xã hội. Cái “Không” (không là gọi cái bản thủy trời đất) trong Đạo đức kinh của Lão Tử xem ra chưa toàn triệt so với tánh Không hay “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Bát-nhã. Tuy xét đến cùng, Lão Tử cũng là Bồ-tát vô vi sanh tử rộng độ quần sanh. Một người tốt bình thường không chừng cũng là Phật “cải trang” trở lại nhân gian huống hồ đến bậc cao siêu như Lão Tử. Nghe “lời than”: Ta có mối lo là có thân này, đủ biết vị này đang thay Phật biểu diễn. Thế mới thấm thía ý câu nói của Đại sư Ấn Quang: Chỉ ta là phàm phu lè tè sát đất, cần bao dung khiêm hòa đối đãi với tất cả vạn sự vạn vật thì mới mong nhập vào dòng Thánh. Nếu ai đó nghĩ ta tốt thì ta là người tốt, nếu nghĩ xấu thì ngược lại... Trong mắt ta phải thật không có người xấu.

Nên nếu A tàn nhẫn với B, thì A mới là người đáng thương hơn, bởi vô minhnghiệp chướng A nhận sẽ nặng bội phần. Hãy thương lấy A, phát ý niệm thanh tịnh về A; cho những ai tương đồng mê lầm sớm tiếp nhận Phật pháp nhiệm mầu.

Dẫu rằng, điều nhiệm mầu luôn khó tin. Ngay đến người học Phật cũng còn tồn nghi; nghi Phật giáo Đại thừa, nghi pháp môn Tịnh độ. Học Phật chưa thấm thì mặt mũi như mèo sáng sớm. Thấm rồi lúc nào cũng vui. Buồn, người ta bảo học Phật khổ sở vậy theo làm gì (tội này ta phải gánh). Vui, mọi người nhìn vào sẽ bảo: Ờ, học Phật quả lợi ích, nên theo… Mọi pháp Phật thuyết đều bình đẳng “vô hữu cao hạ”, tùy vào căn cơ từng người. Cùng bệnh cùng thuốc song không phải ai cũng lành là vì vậy. Một trong những thông điệp căn cốt Phật đưa ra là: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Hễ ai muốn thành Phật chỉ cần buông vọng tưởngchấp trước, mà quan trọng nhất là vọng tưởng.

Khoa học chứng minh, phần nhiều năng lượng con người tiêu hao bởi vọng tưởng. Một người nằm trên giường nghỉ ngơi mà đầu óc chồng chéo cuồng loạn với bao ý nghĩ (chưa cần nói đến ý nghĩ xấu) thì năng lượng tiêu hao chẳng thua người bửa củi ngoài sân. Nhiều vọng tưởng cần phải ăn nhiều đồ bổ để bù lại sức, ít vọng tưởng thì cơ thể cần chút cháo cũng khỏe mạnh minh mẫn; nhiều vị sư ăn ngày một muỗng cơm hay vài quả hạt mà vẫn sống chính là từ nguyên lý này. Vọng tưởng ít, điều dễ nhận thấy là đêm nằm vắng dần ác mộng, mơ mộng cái đẹp cũng thưa. Vọng tưởng có thể ví như bèo tấm trên mặt hồ (tâm). Bớt vọng tưởng, bèo (tạp niệm, giấc mộng) liền giãn ra tươi xanh, nước hồ nhờ vậy cũng bớt ô nhiễm.

Khoa học kiểm chứng vọng tưởngkẻ thù tiêu hao năng lượng trong cơ thể người, lại không cách gì trừ diệt. Tịnh Độ tông khuyên người niệm “A Di Đà Phật”. Bất kể lúc nào không vướng công việc buộc phải nghĩ suy, trong tâm đều vang lên câu hồng danh, một thời gian vọng tưởng tự khắc thưa bớt. Đây quả là điều kỳ diệu nhất trong những điều kỳ diệu. Tỉnh giác trong mọi lúc mọi nơi. Giả như Phật tử phải tham gia vào một cuộc vui. Giữa ồn ào náo nhiệt, Phật tử tùy duyên hòa mà không đồng, vẻ mặt cười nói hòa vui mà trong tâm thì niệm “A Di Đà Phật” (niệm câu nào tai nghe rõ câu đó), vậy là thiền ngay trong cuộc thị phi nhơn ngã. Niệm Phật phải đến độ ví như nửa đêm tỉnh giấc, câu Phật hiệu tự nhiên vang lên; hoặc sáng ra choàng tỉnh tự hỏi: Ủa, ai bật “máy niệm Phật” trong tâm mình rồi nhỉ? Đó là biểu hiện người tu đã có công phu, toàn vọng đang dần quy chân, đạo lộ hướng về cõi mầu nhiệm thật sự đã hé mở trong mê lộ của tâm. 

phat_phap1

Phật pháp lấp lánh hơn dưới ánh sáng khoa học

Đạo Phật không phải triết học, càng không phải là một tôn giáo (như phương Tây định nghĩa). Đạo Phật là tấm gương phản chiếu quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh vô cùng tận nên trong nó sẵn chứa nhiều điều huyền nhiệm và tầng triết học siêu việt. Nếu chẳng tính căn duyên những kiếp trước (như trường hợp người không hiểu biết nhiều lại một lòng theo Phật); nếu chỉ xét sở tri nhân thế, thì đến như Albert Einstein với bộ óc thông tuệ tuyệt vời mới tin nổi lời Phật.

Nhiều bậc chân sư thời hiện đại đã rất bội phục việc khoa học phát hiện ra ý niệm tạo nên cảnh giới. Người nào ngày đêm với một ý nghĩ (ước muốn) thường trực, đến quay cuồng, quy luật hấp dẫn tự nhiên theo đó sẽ tạo nên những điều kiện phù hợp để người ấy nắm lấy mà kiến tạo tương lai. Dĩ nhiên điều này còn phụ thuộc vào phước đức, căn mạng từng người. Một nhà khoa học từng vẽ ngôi nhà mơ ước, rồi ông xếp nó vào hộp, thời gian cứ trôi và gia đình ông chuyển đến nơi khác sinh sống. Một ngày sực nhớ bức vẽ, ông lấy ra xem bỗng giật mình: ông đang sống trong ngôi nhà với hình dáng kể cả những sắp đặt nội thất giống y ngôi nhà mơ ước nhiều năm trước. Trong Phật pháp gọi là “duy tâm sở hiện”. Càng đúng với ai đó trong cuộc sống luôn với ý nghĩ và hành động tham (nguy cơ tạo cho mình cảnh giới ngạ quỷkiếp sau), sân (nguy cơ tạo cảnh giới địa ngục), si (nguy cơ tạo cảnh giới súc sanh), v.v… dễ đưa con người lệch đạo. Những mơ ước vật chất, đa phần người đời mong đạt để phục vụ sự hưởng thụ, gần như là con đường ngắn nhất đưa đến khổ đau và cũng là con đường ngắn nhất đưa họ càng dấn thân càng lún sâu vào cảnh khổ. Hôm nay nhà dột vách xiêu liền sốt sắng kiếm tiền sửa sang; hôm mai xe trục trặc liền nảy ý đổi cái mới, rồi tạm quên việc bố thí, trì giới...

Những ước mong tầm thường nhiều khi vô tình khiến cho nguyện vãng sanh lui xuống hàng thứ yếu mà người tu không hay. Vậy là “giấc mơ con” đè nát nguyện lực vĩ đại trong tầm tay. Người tu là người biết nương vào tự nhiên, hài hòa cùng tự nhiên mà sống, không cầu gì ghê gớm ngoài nguyện chí thành vãng sanh ngay đời này. Đó là chánh kiến. Mọi ước muốn khiến nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc phải xếp hàng đều là phá kiến, tàn hoại cái thân thể vô ngần quý giá chẳng dám mơ sẽ có lại ở kiếp sau.

Một ý niệm phát xuất liền bao trùm, châu biến tận hư không pháp giới. Một cá nhân với những ý niệm cực xấu hoặc cực tốt trong suốt cuộc đời đều có ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Mỗi cá thể không tách biệt mà có tác động nhất định đến “tính nết” của trái đất. Thế nên việc ta đóng cửa tha hồ làm việc xấu, tha hồ phát xuất ý nghĩ yêu ma quỷ quái, thật tai hại vì nó tiếp thêm sức mạnh cho nghiệp chướng. Ngược lại, một người luôn với ý nghĩ thuần thiện, cao hơn là không cả nghĩ thiện nghĩ ác mà tâm ý chỉ một câu “A Di Đà Phật”, vậy đã góp công lớn cho sự an bình của trái đất; người ấy dẫu quanh năm suốt tháng không giúp đỡ ai song đó là của quý hiếm giữa trời đất rồi. Thói thường phân biệt người này tốt kẻ kia xấu, không hay nếu ta cứ nhìn sâu Phật tính trong mọi chúng sanh chẳng những họ mà chính mình cũng mở lượng từ bi và ánh sáng tâm linh vi diệu rọi vào. Đây chính là điều khoa học cảm nhận được và khuyến cáo: Thay vì chống chiến tranh hãy ủng hộ hòa bình.

Trong các nghiệp, ý nghiệp nguy hiểm vô cùng. Ý nghĩ/ý niệm như những con mọt nghiền trong thớ gỗ; nhìn ngoài bóng bẩy trơn tru song khi phát hiện ra một chỗ hư, mới hay lòng cột đã rỗng. Thân tâm ta cũng sẽ mục ruỗng bởi nghiệp ý. Tâm khởi những ý xấu là rơi vào trận đồ của ma. Giả như đến cả ý nghĩ thiện mà ta cứ “nhấm nháp” mãi, thực ra đang bị nó xỏ mũi lôi vào mù mịt. Ấy là bộ mặt của vọng tưởng, rồi đến phân biệt (ngon - dở, xấu - đẹp), chấp trước (nguy nhất là chấp ngã). Pháp môn niệm Phật thù thắng ở cả phương diện đời thường đến giải thoát bởi, hễ nghiệp ý khởi lên thì thay ngay vào từng chuỗi “A Di Đà Phật” sẽ là thần dược số một đặc trị phiền não, tâm sẽ tự hướng đến những giá trị thanh cao thuần khiết.

Chuyên tâm niệm Phật, tâm sở thiện và bất thiện được quân bình, cao nữa thì tâm sở bất thiện triệt diệt. Công phu vượt thắng, niệm thiện cũng vắng nốt; là thời điểm tâm bắt đầu trong lặng rồi phát huy công năng vi diệu. Tâm sáng thân sẽ ít bệnh, hoặc như gặp bệnh hiểm nghèo vẫn có thể tự chữa bằng sự việc “quên” trong thân mình có căn bệnh. Người niệm Phật tự chữa lành bệnh nan y rất nhiều. Bác sĩ Ihaleakala Hewlen đã học được truyền thống tâm linh cổ xưa của thổ dân Hawaii chữa cho hầu hết người bệnh tâm thần bằng việc hướng vào nội tâm, trở về với “không”, đến nỗi bệnh viện nơi ông làm việc phải đóng cửa vì không còn bệnh nhân. Nghĩa là bác sĩ không hề động chạm gì tới con bệnh mà chỉ quán thấy trong tâm, trong ý nghĩ của mình người kia hoàn toàn không có bệnh... Theo lý Phật, bệnh ấy (hay tính xấu ác của đối tượng) chỉ là tập tánh huân tụ lâu dài chứ không phải bản tánh. “Tự tánh hằng thanh tịnh”. Chỉ cần trở lại “cái không” thì dạng vọng tưởng kia biến mất. Bởi vậy một người có khối u, nếu lo lắng, tâm lý nặng nề khối u phát triển càng nhanh. Tập “quên” nó đi, sống vì niềm vui của người khác, và tốt nhất là chuyên niệm Phật, khối u ít nhất phát triển chậm hơn nhiều so với cách chữa trị thông thường tốn nhiều tiền bạc. Sở dĩ người ta quên hẳn căn bệnh bởi tâm họ pháp hỷ sung mãn, vắng bặt vọng tưởng. Bệnh chỉ là sự ghé thăm của nghiệp thức, họ làm chủ được.

Hòa thượng Quảng Khâm về già có lần đau nặng. Ngài bảo thân này như ngôi nhà tranh đã ọp ẹp, muốn nhập Niết-bàn rồi trở lại cõi nhân gian thay một cái nhà bê-tông cốt thép chắc chắn hơn. Các đệ tử quây lại ngày đêm tha thiết “thỉnh Phật trụ thế”. Thương tình Hòa thượng gật đầu, và thế là những ngày sau ngài khỏe khoắn như thường. Điều này chứng tỏ tâm tịnh sáng sẽ điều phục được thân. Chẳng những vậy tâm ấy còn điều khiển được cả tinh cầu... (Vấn đề này xin không đề cập thêm bởi dễ sa vào thần thông diệu dụng - điều thường khiến người tu có chút quả vị lạc trong ấm ma như Phật từng nhắc trong kinh Thủ lăng nghiêm. Cũng như một số nhà ngoại cảm nhìn thấu cảnh thân trung ấm, bên cạnh cái tốt là để biết chết không phải hết, lại dễ khiến người đời hiểu sai lục đạo luân hồi khi thấy “họ” vẫn ở bên mồ chứ nào có đầu thai làm con gì. Thân trung ấm chỉ là một chút xíu trong vô biên cảnh giới Phật truyền giảng. Hiểu một nhầm thành “chư pháp thật tướng” thì hỏi sao tam thế Phật không oan cho được!).

Những gì mà người trần mắt thịt như chúng ta tại thế gian chứng kiến là quá ư hạn hẹp; cho trên đầu ta không có gì lại càng thiển cận. Trong lúc nếu không tụt hậu về tri kiến, ta sẽ biết thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiêm túc khẳng định thuyết luân hồi là đầy đủ căn cứ. Ngày xưa ai dám tin cả thư viện sách chứa gọn trong cái USB nhỏ hơn cả ngón tay. Vậy nên dè chừng lời trong kinh điển; đừng tưởng con người to lớn sẽ không thể chui vào thân con kiến ở kiếp vị lai nếu lầm đường lạc lối. Và đừng tưởng con vi khuẩn nhỏ vậy, thể tánh của nó không chứa tam thiên đại thiên thế giới. Hãy xem khám phá khoa học sau: Tấm hình cắt đôi, đưa (một nửa) vào chiếc máy khoa học, vẫn thấy nguyên vẹn bức hình đó. Cắt tấm hình ra chục mảnh, lạ thay, mỗi mảnh như vậy vẫn đầy đủ hình tướng chụp ban đầu. Điều này làm sáng chói một câu trong kinh Hoa nghiêm: “Nhất tức nhất thiết” (một là tất cả). Cá thể chúng sanhPhật tính. Vậy cái toàn giác đã có trong mỗi phàm phu. Buông xuống vọng tưởng, “vọng tận hoàn nguyên”, phàm phu thành Phật. Như vậy phàm phu trong tâm mình vốn dĩ là cả vũ trụ. Ấy chính là “tự tánh vốn trọn đủ” như Lục tổ Huệ Năng lúc chứng ngộ từng thốt lên.

Do đó, không học kinh điển nhà Phật nghiêm túc, nhất là không chọn lấy một pháp mônrốt ráo thực hành lại khởi tâm bài bác, ấy là vừa lội qua đầm lầy lại muốn dò lòng đại dương

Khi nhà thiên văn chụp được những thiên hà “hình xa luân”, “hình trụ”, “hình bán nguyệt”,… đúng như Phật tả về Hoa tạng thế giới thì chính là kinh điển Phật giáo lấp lánh dưới ánh sáng khoa học. Khi những khám phá làm rúng động nhận thức của loài người đơn giản chỉ là vô tình minh tường vài nhánh trong rừng kinh điển vô giá, liệu có cần đặt ra vô vàn câu hỏi trước lúc ta chịu tin lời Đức Phật

Nhụy Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11426)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7525)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12244)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143465)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6931)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11846)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8590)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19834)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9243)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10790)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13519)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11410)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9329)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14425)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7252)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32447)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13090)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20935)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39092)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7112)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8933)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6723)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9718)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9437)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 11740)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16105)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9583)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12194)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8761)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15524)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7979)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17760)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8621)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8263)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10487)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15797)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17467)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7889)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12950)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 7991)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8562)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9730)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10310)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23172)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19298)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10009)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8203)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24128)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8808)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8423)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7961)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17714)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9469)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8173)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24293)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24617)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8382)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8208)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7794)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7824)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant