Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trung QuốcẤn Độ Tranh Dành Nhau Một Biểu Tượng Phật Giáo

06 Tháng Mười 201300:00(Xem: 6631)
Trung Quốc Và Ấn Độ Tranh Dành Nhau Một Biểu Tượng Phật Giáo

Trung QuốcẤn Độ

tranh dành nhau một biểu tượng Phật Giáo

 

Hoang Phong chuyển ngữ

 

 Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.

 Thật là cả một sự tranh dành ảnh hưởng vô cùng khốc liệt hiện đang bùng lên trong dãy núi Hy-mã-lạp-sơn. Hai nước Trung QuốcẤn Độ đang đối đầu nhau trước biểu tượng của Đức Phật, tượng trưng cho sự đoàn kết giữa các dân tộc Á Châu. Quả thật đây là một cuộc đọ sức không gây ồn ào, thật kín đáo và vô cùng bí mật, tuy nhiên không phải vì thế mà kém phần quyết liệt. Ngoài các mặt trận đã được dàn ra giữa hai siêu cường Á Châu (như sự tranh chấp biên giới, chạy đua về năng lượng, tranh dành ảnh hưởngẤn Độ Dương...) thì một mặt trận mới cũng đang được mở ra với những "đòn chính trị" thật quy mô. Nếu dựa vào cách nói đang thịnh hành trong thời buổi ngày nay thì có thể bảo rằng cuộc tranh dành kín đáo chưa được công bố ấy là cả một mặt trận tranh dành "quyền lực mềm" ("soft power"). "Quyền lực mềm" là một cách mà các siêu cường ngày nay thường sử dụng để thăm dò phản ứng của nhau, ngoài các hình thức biểu dương sức mạnh khác. "Quyền lực mềm" Phật Giáo với một tầm ảnh hưởng rộng lớn mang tính cách toàn cầu là cả một tiềm năng mà bất cứ một quốc gia nào tự cho mình là nước lãnh đạo Á Châu đều phải quan tâm đến.

 Trong các phòng khách sang trọng và kín đáo dưới tầng hầm của một khách sạn năm sao ở New Delhi (thủ đô Ấn Độ) các buổi họp đầu tiên của International Buddhist Confederation (IBC / Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới) đã diễn ra từ ngày từ 9 đến 12 tháng 9 vừa qua, đánh dấu giai đoạn chín muồi của sự tranh chấp trên đây. Trên phương diện chính thức thì IBC (Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới) chỉ giữ vai trò của một tổ thức "Liên Hiệp Quốc Phật Giáo" (Nations Unies du Bouddhisme), tức là một phương tiện nhằm gom tất cả các học phái - Mahayana (Đại Thừa), Hinayana (Tiểu Thừa), Vajrayana (Kim Cương Thừa) - vào một di sản tâm linh chung cho 400 triệu tín đồ trên toàn thế giới. Sự hiện diện trong các buổi họp mặt ở New Delhi của các đại biểu đến từ khoảng bốn mươi quốc gia trên thế giới đã cho thấy một tiếng vang nào đó. Dầu sao thì cũng còn quá sớm để tiên đoán tương lai của IBC. Hiện nay, người ta chỉ có thể biết một cách chắc chắndự án trên đây là do nước Ấn đưa ra - mà người đứng ra tổ chức là Lạt-ma Lobzang, một nhân vật thân cận của triều đại Nehru-Gandhi - không phải chỉ mang mục đích tôn giáo. Chủ đích Địa lý Chính trị (Géopolitique / Geo-policy) hiện ra thật rõ rệt.

 Tổ chức Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) do Ấn Độ thành lập là nhằm chống lại các sinh hoạt của một tổ chức khác gọi là World Buddhist Forum (WBF / Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới) dưới sự bảo trợ của Trung Quốc. Diễn Đàn này được thành lập sau các buổi hội họp được tổ chức ở Hàng Châu (Hangzou) trong vùng phía nam Thượng Hải (Shanghai) vào năm 2006. WBF (Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới) là một công cụ mà Bắc Kinh sử dụng để o bế (trong nguyên bản là chữ amadouer / coax / vuốt ve) các tập thể Phật Giáo bằng cách hứa hẹn một sự đỡ đầu thân thiện. Tổ chức này nằm trong chính sách ngoại giao tích cực nhân danh Phật Giáo, được đưa ra liên tiếp từ mười năm nay qua các cuộc triển lãm lưu động về chiếc "răng" và đốt "ngón tay" Phật, được xem là xá lợi của chính Đấng Giác NgộTrung Quốc đang lưu giữ. Năm 2012 trong lần họp thứ ba của WBE tổ chức tại Hồng Kông, một mảnh xương sọ được xem là của chính Đức Phật - khám phá ra hai năm trước đó ở Nam Kinh (Nankin) - được đưa ra trưng bày một cách trang trọng.

 

Địa lý Chính Trị trong vùng Hy-mã-lạp-sơn là cả một sự thách đố

 

 Nhìn qua thì các buổi họp của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF) do Bắc Kinh giật dây cũng không đến nỗi nào thua kém so với các buổi họp của Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) được tổ chức ở New Delhi (do Ấn Độ chủ xướng). Tuy nhiên thật hết sức khó cho tổ chức Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF) vượt xa hơn biên giới của các nước thuộc khối Trung Quốc (gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và các cộng đồng Đông Nam Á), trong khi đó thì Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) đã mở ra một chân trời rộng lớn hơn. Sự khác biệt trên đây một phần là do ảnh hưởng của vấn đề Tây Tạng. Trong các buổi họp của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF / do Trung Quốc tổ chức), Gyancain Norbu tức là vị Panchen-lama [nhân vật đứng hàng thứ hai trong Phật Giáo Tây Tạng - ghi chú trong nguyên bản] do Bắc Kinh chọn lựa (được chỉ định là vị tái sinh của vị tiền nhiệm)cố tình mang ra dàn cảnh. Những người ủng hộ Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tức là vị lãnh đạo tối cao của Phật Giáo Tây Tạng đang lưu vong ở Dharamsala (Ấn Độ), không hề công nhận sự hợp pháp của vị này. Một trong các chủ đích của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF / do Trung Quốc tổ chức) là mang Panchen-lama thứ XI ra trưng bày trước cộng đồng thế giới với mục đích hy vọng có thể chính thức hóa vị này, thế nhưng hy vọng đó cho đến nay thật hết sức mong manh. Qua những bài diễn văn yêu nước cho rằng xứ sở Nóc Nhà của thế giới (tức là nước Tây Tạng) thuộc lãnh thổ Trung Quốc do chính Panchen-lama đọc lên cho thấy vị này là người ủng hộ Bắc Kinh. Trong khi đó những người trung thành với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma lại hiện diện đông đảo hơn trong tổ chức Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) đặt trụ sở ở New Delhi. Trên thực tế IBC đã dựa vào ánh hào quang tỏa rộng mà vị "Đại Dương Trí Tuệ" (tức là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma XIV) đã tạo được cho toàn thể gia đình Phật Giáo với những biên giới rộng lớn, vượt xa hơn tầm ảnh hưởng của các học phái Phật Giáo Tây Tạng.

 Giữa cảnh tranh dành đó, mỗi quốc gia (tức Trung Quốc và Ấn Độ) đều tìm cách đưa ra đủ mọi bằng chứng nhằm dành chính nghĩa về phần mình. Trung Quốc không ngớt hô hào rằng mình là quốc gia có số tín đồ Phật Giáo đông đảo nhất thế giới. Về phía Ấn Độ, nơi mà Phật Giáo đã bị Ấn Giáo đông đảo hơn lấn lướt qua nhiều thế kỷ, thì cho rằng Đức Phật đã được sinh ra trên đất Ấn. Phái bộ Azoka giữ trọng trách tổ chức IBF ở New Delhi tuyên bố rằng "Ấn độ chính là cội nguồn của Phật Giáo". Sự khẳng định trên đây cần phải được xét lại, bởi vì Lâm-tì-ni nơi Đức Phật đản sinh vào thế kỷ thứ VI trước Tây Lịch, thật ra là thuộc lãnh thổ của nước láng giềng Nepal, và người dân Nepal thì không hề tán đồng sự mạo nhận đó của Ấn Độ. Dầu sao các thánh địa khác của Đức Phật và các đệ tử của Ngài - chẳng hạn như Bồ-đề Đạo Tràng (Bod Gaya), Tiên Uyển (Sarnath), Na-lan-đà (Nalanda)... - rõ ràng là thuộc vào lãnh thổ Ấn, và New Delhi bắt đầu đẩy mạnh các kế hoạch khai thác ngành du lịch tâm linh.

 Chính trong lãnh vực này đang diễn ra một trận đấu thật ngoạn mục giữa Trung QuốcẤn Độ xoay quanh "quyền lực mềm" Phật Giáo. Nhằm đối đầu với con đê khổng lồ của Ấn Độ, Trung Quốc đã bọc hậu và tràn ngập phía sau các thánh địa. Năm 2011, Tổ Chức Phi Chính Phủ (Organisation Non Gouvernementale, ONG / Non-governmental Organisation, NGO) đặt tại Hồng Kông liên hệ với Bắc Kinh là Asia Pacific Exchange and Corporation Foundation (APECF / Cơ Quan Trao ĐổiHợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu trong vùng Thái Bình Dương) đề nghị với người Nepal là sẽ đầu tư 3 tỉ đô-la (2,25 tỉ euros) - tương đương với 85% thuế thu nhập của toàn xứ Nepal - để "phát triển" thánh địa Lâm-tì-ni, nơi đản sinh của Đức Phật. Sáng kiến này bất ngờ làm bùng lên một sự hăng say trong toàn vùng Hi-mã-lạp-sơn. APECF (tức Cơ quan trao đổihợp tác trên đây) chọn ngay Pushpa Kamal Dahal làm người đại diện cho chương trình trên đây ở Nepal, nhân vật này mang bí danh"Prachanda", nổi tiếng là một người khuấy động, trước đây từng là thủ lãnh của nhóm cựu-nổi-loạn theo chủ nghĩa Mao (Maoism) đã được hợp thức hóa sau hiệp ước hòa bình ký kết vào năm 2006. Prachanda cũng đã từng làm thủ tướng Nepal vào các năm 2008 và 2009.

 

Có quá nhiều dự án


 Trùng tu Lâm-tì-ni là một câu chuyện cũ mèm, thế nhưng gần đây lại được hâm nóng trở lại. Câu chuyện bắt đầu từ năm 1970 khi một kiến trúc sư người Nhật là Kenzo Tange dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một dự án về vấn đề này. Thế nhưng sự nhiệt tâm ban đầu đã bị sa lầy nhanh chóng trong các ngõ ngách quan liêu của xứ Nepal và tình trạng bất ổn nội bộ của một xứ sở bé tí nằm kẹt giữa Trung QuốcẤn Độ trong vùng Hy-mã-lạp-sơn. Năm 2010, bỗng dưng người ta lại quan tâm đến Lâm-tì-ni với sự hình thành của một dự án mới, do một nhóm người Mã Lai gốc Trung Quốc theo Phật Giáo Tây Tạng đưa ra. Dự án này nhằm biến Lâm-tì-ni thành một nơi du lịch đại chúng dành vào việc hành hương, tương tự như thánh địa Mecca (La Mecque / Mecca) của người Hồi Giáo.

 Thật rõ ràng đây là một dự án "ăn cắp" của Cơ Quan Trao ĐổiHợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu trong vùng Thái Bình Dương (APECF) do Trung Quốc giật dây. Bề ngoài chương trình này được điều hành bởi một nhân vật rất bí mật tên là Xiao Wunan dưới sự chỉ đạo của các cấp cao trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc, và được đẩy mạnh trong các cộng đồng người Hoa vùng Đông Nam Á. Sự giao hảo thân thiện với nhóm nổi loạn theo chủ nghĩa Mao của Nepal do Prachanda lãnh đạo cho thấy APCEF phải chịu một áp lực nào đó và đã biến thành một sức mạnh đang lên trong bối cảnh sôi sục của thánh địa Lâm-tì-ni. Mùa xuân năm 2011, lại thấy xuất hiện hai nhân vật mới đưa ra một dự án khác, thế nhưng dự án này lại cũng chỉ là một sự vay mượn cả đường lẫn bột với dự án của người Mã Lai trước đây, chỉ khác là được hậu thuẫn bởi một sức mạnh chính trị quan trọng hơn nhiều. Vài tháng sau đó thì một diễn viên thứ ba lại xuất hiện: đấy là kiến trúc sư Hàn Quốc Kwaak Young Hoon, là một người đã từng quan tâm đến Lâm-từ-ni từ lâu trước đó. Người kiến trúc sư này được sự ủng hộ của Korea International Cooperation Agency (KOICA / Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Hàn Quốc) là một cơ quan trực thuộc chính quyền Seoul (Nam Hàn).

 Tóm lại hiện nay đang có quá nhiều dự án liên quan đến Lâm-tì-ni nơi đản sinh của Đức Phật. Giữa cảnh hỗn độn đó, vào năm 2002 lại bắt đầu xảy ra các cuộc tiếp xúc giữa các nhóm trên đây với mục đích phối hợp các sáng kiến theo các đường hướng khác nhau nhằm tìm cách lôi kéo sự chú ý của Liên Hiệp Quốc. Chẳng phải là di tích Lâm-tì-ni đã được cơ quan UNESCO đưa vào danh sách di sản của nhân loại hay sao? Thế nhưng trong đầu óc mỗi người hình như đều phát sinh một thứ cảm tính nghi ngờ cho rằng chắc hẳn phải có những âm mưu nào đó tàng ẩn phía sau những sự lèo lái trên đây. Thế nhưng ai lèo lái ai? Và ai tìm cách hất chân ai? Chính Kwaak Young Hoon (kiến trúc sư Hàn Quốc trên đây) đã từng tiết lộ một giai thoại cho báo Le Monde với mục đích thăm dò mức độ nghi ngờ đang tàng ẩn kín đáo trong bối cảnh trên đây. Khi vừa mới gia nhập vào cuộc chạy đua này, vị kiến trúc sư Nam Hàn đã nhận được ngay một thông điệp của một vị Bộ Trưởng trong chính quyền Katmandou (Nepal) - tất nhiên là dưới áp lực của nhóm nổi loạn theo chủ nghĩa Mao - phải trưng ra bằng cớ sẽ "không chống lại Trung Quốc". Kiến trúc sư Kwaak đành phải tuyên bố rằng mình "không chống Trung Quốc".

 

"Đức Phật là người Ấn"

  Trước những sự việc xảy ra trên đây, Ấn Độ cũng bắt đầu cảm thấy nao núng trước sự khuấy động của tổ chức APCEF thiên Bắc Kinh. Vị chủ tịch Indian Council for Cultural Relations (ICCR / Hội Đồng Quan Hệ Văn Hóa Ấn Độ) và đồng thời cũng kiêm nhiệm chức chủ tịch văn phòng Ngoại Giao của Đảng Quốc Đại (Parti du Congrès / Congress Parti / một đảng chính trị quan trọng của Ấn Độ) hiện đang cầm quyền, là Karan Singh đã lên tiếng như sau: "Ấn Độ sẽ không thể làm ngơ trước các công trình phát triển Lâm-tì-ni", tất nhiên điều này cho thấy rằng việc phát triển Lâm-tì-ni là một trong những công cụ nhằm củng cố "quyền lực mềm" của Ấn Độ. Thế nhưng vị chủ tịch Singh thì lại xác nhận rằng lý do chính thức là vì "Đức Phật là người Ấn Độ". Dầu sao thì sự kiện này còn là - hay đúng hơn nhất thiết là - một kế hoạch chiến lược.

 Dưới con mắt của người Ấn, tham vọng của Trung Quốc về một vùng thánh địa Phật Giáo nổi tiếng là Lâm-tì-ni, chỉ cách biên giới của Ấn vài cây số, là cả một sự thách thức lớn lao trên phương diện địa lý chính trị. Phải chăng một mối bức xúc cũng đang bùng lên trong chính quyền New Delhi hay chăng? Người Ấn rất e ngại là nếu dự án của Cơ Quan Trao ĐổiHợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu thuộc Thái Bình Dương APCEF (thân Trung Quốc) thành công thì tất nhiên Trung Quốc cũng sẽ gây được ảnh hưởng đối với các nhà sư trong vùng Hy-mã-lạp-sơn, nhằm chờ đợi sau này khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma viên tịch sẽ kiểm soát toàn bộ cộng đồng người Tây Tạng. Một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ trước đây là Jayadeva Ranade hiện đang được thu dụng trở lại trong việc phân tích chiến lược, đã tỏ ra rất lo ngại khi tuyên bố rằng: "Trung Quốc có thể sẽ mượn Lâm-tì-ni để thành lập một đạo quân thứ năm dàn ra trước cửa ngõ của nước Ấn"

 Dự án của APECF cũng đã cho thấy một vài dấu hiệu đuối sức - thế nhưng chắc là sẽ không bị hủy bỏ - lý dotình trạng thù địch đang nghiêm trọng. Các người Phật Giáo Nepal hết sức bực tức vì tất cả hai bên đều không hề quan tâm đến họ, do đó họ cũng huy động các lực lượng trong tay mình để chống lại "âm mưu cướp đất" (spoliation foncière / land dispossession) đang hăm dọa tập thể người địa phương (tức sắc tộc Tharu) đang sinh sống chung quanh Lâm-tì-ni trong vùng đồng bằng Teraï. Dù chỉ mang tính cách địa phương, thế nhưng Ấn Độ không hề nhìn phong trào trên đây với con mắt bàng quang. Một thành viên Phật Giáo thuộc phong trào này ở New Delhi thú nhận rằng: "Người Ấn giúp đỡ chúng tôi trên mặt tinh thần". Mọi sự hiện nay cũng đã trở nên sáng tỏ hơn, và một vị lãnh đạo Phật Giáo Nepal cũng đã từng tuyên bố như sau: « Lâm-tì-ni đã trở thành tâm điểm của cả một « cuộc chơi lớn » giữa Ấn ĐộTrung Quốc ». Nơi đang gây ra chấn động và cơn sốt trên đây cũng là điểm gặp nhau giữa những người tu hành, những tay khuấy động thừa cơ nước đục thả câu, các chính trị gia, các nhà tranh đấu bản địa (người dân thiểu số thuộc các sắc tộc địa phương), và cả một bọn trục lợi cá mè một lứa.

 

Vài lời ghi chú của người dịch

 

 Lâm-tì-ni nằm trong vùng đồng bằng Taraï phía nam xứ Nepal và là nơi đản sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Năm 249 trước Tây Lịch vua A-dục và nhà sư Ưu-bà-cúc-đa (Upagupta) vừa là thầy vừa là quốc sư của đế quốc của ông, cả hai cùng đến viếng Lâm-tì-ni, lúc đó là một ngôi làng trù phú. Vua A-dục cho xây dựng tại nơi này bốn ngôi chùa và một trụ đá cao sáu thước. Trên trụ đá có khắc một câu như sau: " Vị vua yêu quý của các thiên nhân là Piyadasi (một tên khác của vua A-dục) đã đích thân đến viếng nơi này vào năm thứ 20 sau ngày đăng quan. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã sinh ra tại nơi đây...". Dựa vào các chi tiết khác khắc trên trụ đá thì Đức Phật sinh vào năm 623 trước Tây Lịch.

 Ngược về bốn thế kỷ trước đó, tức là trước khi vua A-dục và nhà sư Ưu-bà-cúc-đa đến đây thì ngôi làng Lâm-ti-ni là một khu vườn rộng lớn thuộc xứ Kiều-tát-la (Kosala) của nhà vua Tịnh Phạn (Suddodhana). Kinh sách bằng tiếng Pa-li cũng như bằng tiếng Phạn đều có nói đến khu vườn này và cho biết đây là một khu vườn mênh mông, thật thanh tú và có trồng nhiều cây sala. Sala tên khoa học là Shorea robusta trổ hoa rất đẹp.

 Hôm ấy là giữa tháng năm và cũng vào giữa mùa xuân, nơi kinh đô Ka-tì-la-vệ (Kapilavastu) hoàng hậu Mai Da (Maya Devi) vợ vua Tịnh Phạn, dù đang có mang thế như vẫn quyết định về thăm cha mẹ sinh ra mình ở thị trấn Devahada. Nào có ai ngờ được là quyết định bất ngờ ấy của một bà hoàng hậu một xứ bé tí thu mình duới chân dãy Hy-mã-lạp-sơn đã đánh dấu một biến cố lớn trong lịch sử nhân loại. Đi được nửa đường, Hoàng hậu và các người tùy tùng dừng lại nghỉ trong khu vườn Lâm-tì-ni xinh đẹp. Trong khu vườn có xây một hồ nước trong để dân chúng trong vùng đến tắm. Hoàng hậu và một vài người hầu cũng xuống tắm. Sau đó hoàng hậu ngồi tựa vào một gốc cây sala nghỉ ngơi. Thế rồi hoàng hậu bỗng nhiên cảm thấy chuyển bụng. Bà bèn đứng lên, một tay nắm chặt một cành cây sala, một tay quàng vai một người hầu và sinh ra thái tử Tất-đạt-đa Cồ Đàm từ "bên cạnh sườn" (xem hình). Đứng để sinh đẻ là một tập tục lâu đời ở Á Châu và gần đây vẫn còn thấy ở một vài sắc tộc.

 lam_ty_ni

 

 Thái tử Tất-đạt-đa không sinh ra trong chốn cung điện mà sinh ra dưới một gốc cây trong khu vườn Lâm-tì-ni như bất cứ một kẻ vô gia cư nào khác. Ba mươi lăm năm sau vào giữa mùa xuân và cũng vào một đêm giữa tháng năm trăng tròn, dưới một gốc cây trong một khu rừng hoang vắng, thái tử Tất-đạt-đa đạt được Giác Ngộtrở thành một vị Phật. Đức Phật thuyết giảng lần đầu cũng dưới một gốc cây nơi khu vườn Tiên Uyển (Sarnath). Tám mươi tuổi, kiệt lực, Đức Phật cũng lại nằm xuống đất giữa hai gốc cây trong một khu rừng.

 Từ ngày lánh xa thế tục, Đức Phật chỉ có hai manh áo cà sa thay đổi trên người, một chiếc bình bát trên tay, và đi chân đất để khất thực. Ngài luôn dừng lại bên ngoài các khu đô thị hầu tránh xa các cảnh bon chen. Ngoài giáo lýĐức Phật đã để lại cho nhân loại, chính cuộc sống của Ngài cũng là một tấm gương cho chúng ta cùng soi. Một người tu tập chân chínhcảm thấy khiếp sợ - nếu không muốn nói là kinh hoàng - khi đọc những gì mà bài báo trên đây đưa ra hay không? Rồi đây, Lâm-tì-ni sẽ trở thành một nơi đô hội, một bãi chiến trường giữa những kẻ âm mưu, một nơi hội tụ của những kẻ thừa cơ nước đục... Ai sẽ thắng, và ai sẽ thua? Hàng nghìn khách sạn sẽ mọc lên, ngành du lịch tâm linh ở Lâm-tì-ni sẽ trở thành một kỹ nghệ béo bở. Thánh địa Lâm-tì-ni sẽ trở thành một "quyền lực mềm" của một quốc gia lãnh đạo nào hay một chủ nghĩa chính trị nào đây?

 Một vài tư liệu cho biết rằng vua A-dục bãi bỏ thuế khóa cho ngôi làng Lâm-tì-ni, trong khi đó một vài tư liệu khác thì lại cho rằng nhà vua này chỉ giảm thuế, dầu sao đi nữa thì đấy cũng không hề là một biện pháp trục lợi. Thật vậy chủ đích chính yếu của bốn ngôi chùa và trụ đá của vua A-dục là để biến Lâm-tì-ni thành một trong những nơi hành hương mang lại những xúc cảm tinh khiết cho những người tu hành chân chính hầu giúp họ đến gần với Đức Phật hơn. Vào thế kỷ thứ IV có một nhà sư Trung Quốc khác thường là Pháp Hiền, quyết tâm sang Ấn Độ để tu học. Ông khởi hành bằng đường bộ và rời Trường An năm 399, đi xuyên qua sa mạc Gobi, các vùng Tân Cương, Khotan, và sau đó là Afghanistan và Pakistan ngày nay... Ông đi ngang làng mạc và đô thị, nơi nào cũng theo Phật Giáo, dân chúng tổ chức các lễ hội thật vui và long trọng.

 Pháp Hiền đến lãnh thổ Ấn năm 402. Ông lưu lại trong vùng thung lũng sông Hằng để tu học và viếng các nơi thắng tích Phật Giáo. Sau đó ông quay lại các vùng Peshawar, Kaboul thuộc Afghanistan ngày nay để viếng thăm các vùng Phật Giáo này. Trước khi quay về Trung Quốc ông xuống miền nam nước Ấn và đến Tích Lan, nơi đây ông khám phá ra nhiều kinh sách chưa hề có ai ở Trung Quốc biết đến. Năm 413 ông rời Tích Lan bằng đường biển để trở về quê hương. Trên đường ông suýt chết vì ghe bị đắm. Ông ghé được vào đảo Java của Indonesia, và tại nơi này ông gặp nhiều người đồng hương sang đây tu học. Lúc đó đảo Java chưa có ngôi đền Borobudur, vì ngôi đền nổi tiếng này chỉ bắt đầu được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VIII. Sau đó ông lại tìm ghe khác để trở về Trung Quốc. Trong chuyến trở về quê hương này có thêm bốn nhà sư khác tháp tùng, thế nhưng chỉ có mình ông là sống sót và về đến được Trường An vào năm 414. Ông để ra hai năm để viết quyển hồi ký mang tựa là "Phật Quốc Ký" thuật lại cuộc hành trình mười lăm năm của mình ở Ấn ĐộTích Lan. Vài năm sau đó thì ông qua đời.

 Hành hươngtu họcý chí và lòng nhiệt tâm của một con người và đôi khi cũng là lý tưởng của cả một đời người. Sự thúc đẩy đó không cần đến sự hậu thuẫn của các diễn đàn, liên đoàn, ngân hàng, hay sự hậu thuẫn chính trị của các đảng phái hoặc một quốc gia nào cả, cũng không cần đến các tổ chức du lịch đan vào nhau như một mạng lưới ở khắp các quốc gia Phật Giáo. Chắc hẳn rồi đây chúng ta sẽ có thể đến viếng Lâm-tì-ni thật dễ dàng theo các tour du lịch rẻ tiền. Trong số những người hành hương tất sẽ có những người thật thà, dành dụm chắt chiu để cúng dường, hầu góp phần mang lại lợi nhuận cho những số vốn đầu tư hàng tỉ đô-la. Thế nhưng cũng có những người giàu có cúng dường để trấn an lương tâm mình. Dầu sao thì chúng ta cũng rất có thể sẽ đến Lâm-tì-ni bằng các tour du lịch với chương trình một hoặc hai tuần có người hướng dẫn chuyên nghiệp có thể nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm giúp chúng ta cầu xin được thêm một ít phước lành. Có mấy ai nhớ được là Đức Phật sinh ra dưới một gốc cây ở một nơi cách biệt với cung điện của vua cha, và sau này chỉ có một bình bát trên tay, thì làm thế nào ban phước lành và sự giàu có cho chúng ta được. Âu châu văn minh ngày nay cũng chẳng khá hơn, chẳng hạn như ở một nước rất sùng đạo, trong các vùng thôn quê, làng này đồn đại và rỉ tai là làng kia có xảy ra phép lạ nhờ đi hành hương và uống nước thánh. Bọn trục lợi quả thật khéo léo và tài tình, xe của các tour du lịch đầy ắp những người nông dân chất phác và những người lớn tuổi thật thà. Các nước có thánh địa tiếp rước hàng triệu du khách mỗi năm, mạng lưới du lịch tâm linh thật nhộn nhịp khắp Âu Châu và thế giới. Hình ảnh những người hành hương thành kính thường xuyên được đưa lên thật khéo léo trên truyền hình. Đấy vừa là "quyền lực mềm" vừa là một nguồn tài chính khổng lồ cho một số quốc gia Ấu Châu. Cái mô hình đó đang được xuất cảng sang Á Châu.

 Vào thế kỷ thứ VII, giữa thời kỳ vàng son của nền văn minh Trung Quốc và sự phát triển cao độ của Phật Giáo ở xứ sở này, người ta lại thấy có một nhà sư khác thường khác là Huyền Trang. Ông rời Trường An vào năm 629 sang Ấn hành hương và tu học. Ông đi ngang các vùng Tây Vực theo Phật Giáonhà sư Pháp Hiền đã đi ngang trước đó hơn hai thế kỷ. Vào thời kỳHuyền Trang đi ngang các vùng này thì nhiều nơi đã hoặc đang trở thành Hồi Giáo. Bởi vì tôn giáo này được hình thành ở nước Á Rập Saudi vào thế kỷ thứ VII đang phát triển rất nhanh trong toàn vùng Trung và Cận Đông. Nói chung thì những gì nhà sư Huyền Trang trông thấy đấy là những hiện tượngPhật Giáo gọi là vô thường.

 Huyền Trang quay về Trung Quốc mười sáu năm sau tức là vào năm 645. Ngoài số kinh sách mang về còn có một quyển nhật ký của ông mang tựa là " Đại Đường Tây Vực Ký" ghi chép những gì do chính ông tai nghe mắt thấy nơi xứ sở của Đức Phật và các nơi thắng tích trong thung lũng sông Hằng. Hai quyển sách "Phật Quốc Ký"" Đại Đường Tây Vực Ký" trên đây là hai tài liệu vô giá về Phật Giáo trên đất Ấn và cả lịch sử của quốc gia này. Quyển "Phật Quốc Ký" của Pháp Hiền được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh rất sớm từ hậu bán thế kỷ XIX.

 Một nhà khảo cổ người Đức là Alois-Anton Führer dựa vào quyển "Phật Quốc Ký" của Pháp Hiền đã tìm được vị trí của Lâm-tì-ni vào năm 1896. Một năm sau người ta tìm thấy trụ đá và sau đó là các lớp nền của bốn ngôi chùa do vua A-dục xây dựng. Khởi đầu Lâm-tì-ni là một khu vườn thanh tú dưới triều đại của vua Tịnh Phạn, sau đó đã trở thành một ngôi làng trù phú và một thắng tích thiêng liêng dưới triều đại của vua A-dục, và sau cùng là một vùng hoang sơnghèo nàn khi nhà khảo cổ Alois-Anton Führer đến đây.

 Vào thế kỷ XIV nhà vua Ripu Malla của xứ Nepal hành hương nơi này và đã cho ghi khắc thêm trên trụ đá của vua A-dục một câu đánh dấu cuộc viếng thăm của mình, và đấy cũng là dấu tích lịch sử cuối cùng của Lâm-tì-ni. Lý do của sự yên lặng hay quên lãng đó của Lâm-tì-ni cũng không phải là quá khó hiểu. Các đạo quân Hồi Giáo tràn vào đất Ấn vào thế kỷ XII đã sử dụng mọi phương tiện để tận diệt Phật Giáo và cả Ấn Giáo. Thế nhưng đối với Ấn Giáo thì hình như các đạo quân Hồi Giáo có phần nương tay hơn. Có thể là vì Ấn Giáo cũng là một tín ngưỡng tin vào Thánh Kinh và một Đấng Toàn Năng gần tương tự như Hồi Giáo? Một lý do khác là Ấn Giáo là một tín ngưỡng mang tính cách đại chúng, sự sinh hoạt ăn sâu vào gia đình và làng mạc, trong khi đó thì Phật Giáo có những tổ chức tập thể lộ liễu hơn, chẳng hạn như tăng đoàn của đại học Na-lan-đà gồm hơn mười ngàn nhà sư. Sau thế kỷ XIII có thể nói là Phật Giáo đã hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ, trong khi đó thì Ấn Giao hồi phục nhanh hơn. Tóm lại Lâm-tì-ni chìm sâu trong sự quên lãng của lịch sử kể từ thế kỷ XV cho đến khi nhà khảo cổ người Đức tìm đến nơi này vào cuối thế kỷ XIX.

 Có một nhân vật trong lịch sử Phật Giáo ít người chú ý đến, thế nhưng lại là một trong những nhân vật có công lớn nhất và không thể nào chối cãi được, ấy là vị quốc sư Ưu-bà-cúc-đa dưới triều đại của vua A-dục. Ông không nổi danh như Long Thụ, Vô Trước, Bồ-đề Đạt-ma, Huệ Năng hay Đạo Nguyên... Thật vậy ông không phải là một luận sư hay triết gia và cũng không hề sáng lập ra một học phái nào cả, thế nhưng chính ông là người đã giúp vua A-dục đến gần với Phật Giáo, đã khuyên vua A-dục xây cất hàng chục ngàn bảo tháp để phân tán xá lợi ra khắp mọi nơi trong đế quốc của mình giúp người dân đến gần với Đạo PhápĐức Phật hơn. Thật vậy các phương tiện di chuyển của hơn hai ngàn năm trước có phải như ngày nay đâu. Ưu-bà-cúc-đa cũng là người chủ xướng việc kết tập Đạo Pháp lần thứ ba và cũng đã chủ tọa đại hội này để thanh lọc những gì thêm thắtdị đoan trong một giai đoạn phát triển hỗn tạp và quá nhanh của Phật Giáo, nhờ vào sự ưu đãi của hoàng triều A-dục. Chinh là nhờ vào lần kết tập này, Luật TạngKinh Tạng được hình thành thật tinh khiết và được truyền bá đi khắp nơi. Nếu Ưu-bà-cúc-đa đã đứng bên cạnh vua A-dục khi nhà vua này ra lệnh xây dựng bốn ngôi chùa và trụ đá ở Lâm-tì-ni, thì ông cũng đã đứng sau lưng vị vua này trong các chương trình hoằng Pháp xa hơn thung lũng sông Hằng và bên ngoài biên giới của đế quốc Maurya. Sự âm thầm và khiêm tốn đó của một nhà sư chân chính thật hết sức tương phản với các âm mưu và những sự khuấy động của các nhân vật như Pushpa Kamal Dahal, Kenzo Tange, Xiao Wunan, Kwaak Young Hoon, Karan Singh, Jayadeva Ranade... và cả đám trục lợi cá mè một lứa, do ký giả Frédéric Robin nêu lên trong bài báo trên. "Vinh dự" duy nhất mà Ưu-bà-cúc-đa có lẽ cũng không mong muốn và cũng không hề chờ đợi, là sau này người ta xếp ông với ít nhiều gượng ép, đứng vào hàng thứ năm trong danh sách các vị tổ của Thiền Tông.

 Cách nay ít lâu người dịch có viết một bài ngắn về "Câu chuyện một con đường", thuật lại cuộc hành trình của một người tu tập. Trên con đường đó có những người đi ngược chiều mà người tu tập phải tránh ra để không đâm sầm vào họ. Hai bên vệ đường diễn ra những cảnh cướp giật, đâm chém, bom nổ, nhà cháy, cầu sập, có những sòng bài, nhà hát tấp nập và cả những hố sâu, vực thẳm... Chúng ta không nên dừng lại để tham gia vào những thứ ấy, cũng không nên kéo nhau ra hai bên vệ đường để tả xung hữu đột. Nói thế không có nghĩa Phật Giáo là một tín ngưỡng chủ trương phải bịt tai, bịt mắt và bịt miệng tương tự như hình ảnh của ba con khỉ. Bước vào con đường tức đã là một một sự dấn thân rồi, thế nhưng sự dấn thân ấy không hề bắt buộc chúng ta phải mù quáng, trái lại chúng ta phải nhìn thấy những gì đang xảy ra ở hai bên vệ đường hầu giúp chúng ta ý thức được là mình phải nhanh chân và bước những bước vững chắc hơn. Và đấy cũng chính là mục đích của bài chuyển ngữ bé nhỏ này.

 

Bures-Sur-Yvette, 26.09.13

Hoang Phong chuyển ngữ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13111)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17277)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21509)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13114)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14301)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12711)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13537)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28439)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23249)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34163)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28731)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32030)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11234)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11903)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26131)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17242)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14429)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34304)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13023)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12195)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13299)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40355)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26790)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14372)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13146)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13359)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12422)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13029)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12202)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11692)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12473)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17550)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12110)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12644)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18333)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14167)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12885)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11215)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12042)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13381)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10744)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 10990)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10192)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28715)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26753)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25578)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18545)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22868)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34328)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 31985)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30232)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30486)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20852)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20095)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19291)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24280)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30484)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15582)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27615)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant