Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Tánh Và Việc Trì Giữ Giới Hạnh

15 Tháng Mười 201300:00(Xem: 7086)
Phật Tánh Và Việc Trì Giữ Giới Hạnh


PHẬT TÁNH VÀ VIỆC TRÌ GIỮ GIỚI HẠNH 

Thanh Liên dịch sang Việt ngữ

 Các hậu quả của sự vô đạo đức thì dơ bẩn, như một tử thi.

 Chúng làm sinh khởi sự bận tâm của các bậc linh thánh và hủy diệt cội gốc đức hạnh.

 Những kẻ vi phạm đạo đức trở thành đối tượng của sự khinh thường.

 Đây là lời khuyên tâm huyết của tôi.

 

a_complete_guide_to_the_buddhist_pathKHI TA KHẢO SÁT giới luật tâm linh chi tiết hơn, ta nhận ra rằng ba thiện hạnh được kết hợp với hành động của thân – tránh sát sinh, trộm cắp, và tà dâm.

Không sát sinh. Thay vì sát sinh, hãy bảo vệtôn trọng đời sống của chúng sinh, đặc biệtcon người. Đây là một câu chuyện về người đã thệ nguyện không sát sinh:

Thuở xưa có một cặp vợ chồng hiếm muộn thiết tha cầu xin một đứa con. Cuối cùng, người mẹ mang thai và sinh ra một đứa bé trai dễ thương. Cha mẹ cậu bé và tất cả những người thân thuộc rất vui mừng, vì thế họ tổ chức một buổi lễ long trọng ở gần bờ sông. Trong buổi lễ, mọi người đều muốn chạm vào đứa bé và bế nó. Thật không may, khi một người đàn bà đứng ở gần con sông bế đứa bé, nó tuột khỏi tay bà và rơi xuống sông. Đứa trẻ không có nghiệp phải chết vào lúc ấy, vì thế nó chìm xuống nước, bị một con cá lớn nuốt chửng và nó vẫn sống ở trong bụng cá.

Không quá xa nơi đó là một ngôi làng nhỏ. Một người đánh cá ở ngôi làng này ngẫu nhiên đánh cá ở cùng con sông đó và bắt được một con cá lớn. Khi mổ bụng cá, ông ta sửng sốt khi thấy có một đứa trẻ còn sống. Trong làng có một cặp vợ chống hiếm muộn vì thế người đánh cá mang đứa trẻ lại cho họ. Cặp vợ chồng này nuôi dưỡng đứa trẻ thật tử tế và cẩn thận như con của họ.

Những tin tức về đứa trẻ kỳ diệu được tìm thấy trong một con cá lan rộng và cuối cùng lan tới ngôi làng của cha mẹ đứa bé, ở đó cha mẹ thực sự của nó biết được tin này. Người cha đi tới ngôi làng của người đánh cá và giải thích: “Cách đây không lâu, con tôi rơi xuống sông. Có lẽ đứa trẻ của ông chính là con của chúng tôi, vì thế cho chúng tôi xin lại.” Nhưng gia đình thứ hai không muốn đưa lại cho ông và nói: “Hẳn là con ông đã chìm dưới sông. Cho dù nó có bị cá nuốt, làm sao nó có thể sống được? Trong quá khứ, chúng tôi đã khẩn nguyện và cầu xin một đứa con. Đứa trẻ này là của chúng tôichúng tôi sẽ không giao nó cho ông.” Bởi không thể giải quyết bất đồng này, họ đi gặp nhà vua và xin vua dàn xếp việc tranh cãi.

Nhà vua lắng nghe mọi thông tin được dâng lên cho ngài rồi tuyên bố quyết định của mình: “Đứa trẻ này sẽ được cả hai bên cha mẹ nuôi dưỡng.” Như thế đứa trẻ may mắn có bốn cha mẹ, hai người mẹ và hai người cha nuôi dưỡng nó trong sự xa hoa. Khi đứa trẻ lớn lên và có thể tự quyết định cho bản thân, nó nói với bốn cha mẹ: “Sau khi được sinh ra, con rơi xuống sông và bị một con cá nuốt mất. Bởi điều đó, con bị một nỗi đau đớn hành hạ. Con không thể chịu đựng nỗi khổ đó được nữa, con phải thực hành Pháp. Xin cho con đi tới một tu viện bởi con muốn thoát khỏi sinh tửđạt được giác ngộ.” Được bốn cha mẹ cho phép, cậu trở thành một tu sĩthành công mỹ mãn trong việc thực hành Pháp.

Nghiệp mang lại những kết quả này như sau: Trong đời trước của đứa trẻ, nó đã cúng dường một đồng vàng cho một Đạo sư vĩ đại và nguyện không bao giờ sát sinh. Bởi hành động đó, cuộc đời của cậu bé được che chở và nó được bốn cha mẹ thương yêu nuôi dưỡng trong sự xa hoa. Cuối cùng, cậu bé đắc quả A La Hán.

Khi gặp những câu chuyện như thế này, ta cũng được thôi thúc để không sát sanh và xa rộng hơn nữa, bảo vệ mạng sống của chúng sinh.

Không trộm cắp và lừa dối: Mọi người đều yêu quý sức khỏecủa cải của họ, vì thế về phương diện pháp lý hay đạo đức, trộm cắp của người khác là điều không đúng đắn.

Không tà dâm: Đối với người tại gia, điều này có nghĩa là không thực hiện hoạt động tính dục có hại và đối với người xuất gia là tránh mọi hoạt động tính dục. Nhiều cặp vợ chồng ly dị một hoặc hai lần trong đời họ là hậu quả của những hoạt động tính dục sai trái của họ trong đời này hay những đời trước.

bốn thiện hạnh được kết hợp với lời nói: không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời thô lỗ khó nghe, và không bị cuốn hút vào sự chuyện trò vô ích.

Không nói dối. Hãy tránh nói dối, đặc biệt là những lời nói dối thuộc về tâm linh. Thay vào đó, hãy nói sự thật. Câu chuyện dưới đây cho ta thấy những kết quả của việc không nói dối:

Thuở xưa, có một vị vua ở Varanasi (Ba la nại) tên là Tsangjin. Hoàng hậu của ông hạ sinh một cô con gái, và họ ăn mừng sự ra đời của cô bé thật long trọng. Cô gái lớn lên, trở nên xinh đẹpthanh tú và được gọi là Con Gái Kashila Tuyệt đẹp. Tiếng tăm của cô lan đến sáu vương quốc lân cận. Tất cả sáu vị vua đều muốn cưới cô con gái cho con trai mình. Vua Tsangjin rất khó khăn để quyết định là nên chọn ai. Ông nghĩ: “Nếu ta trao con gái ta cho một vị thì tất cả những vị kia sẽ không bằng lòng.”

Một hôm, tất cả sáu hoàng tử cùng đến Varanasi cùng với đoàn tùy tùng đông đảo và tô điểm bằng những vật trang sức lộng lẫy. Vua Tsangjin đi đi lại lại trên tầng thượng trong sự muộn phiền và suy nghĩ nên làm gì trong hoàn cảnh tế nhị này. Cô con gái nhận ra tâm trạng phiền muộn của cha mình và hỏi lý do. Thân phụgiải thích: “Ta không biết phải làm gì hay xử sự với tình huống này ra sao. Cha của tất cả các hoàng tử mà ta không chọn sẽ tuyên chiến và tiêu diệt vương quốc của ta.” Cô nói: “Ồ, điều này không khó. Xin cha bảo cả sáu hoàng tử đến đây vào một ngày đặc biệt và con sẽ chọn người chồng của con.” Nhà vua vui mừng và báo cho các vị vua ý kiến của cô.

Vào ngày đã định, sáu hoàng tử đến cùng những vật trang sức lộng lẫy, đoàn tùy tùng tráng lệ, các ngai vàng và v.v.. Mỗi vị đều nghĩ mình sẽ là người được chọn. Không tô điểm bằng bất kỳ món trang sức nào, Kashila và đoàn tùy tùng của cô đến trước sáu hoàng tử. Bằng một giọng du dương và tuyệt diệu, cô nói: “Than ôi! Mọi loại thân xác giống như trò phô diễn của một nhà ảo thuật, chúng thật vô thường. Mọi sắc tướng giống như một cầu vồng sẽ biến mất không để lại một dấu vết. Đừng bám luyến vào những điều như thế. Thân thể này giống như đóa hoa mùa thu sẽ dễ dàng và không thể tránh khỏi sự phai tàn, vì thế đừng bám luyến vào nó. Vì sao quý vị coi thân thể này quan trọng quá mức như vậy? Sự tự phụ ghê gớm của quý vị trói buộc quý vị vào vương quốc; điều này sẽ đưa đến những cõi thấp. Việc tịnh hóa tánh kiêu mạn khiến hỷ lạc sinh khởi. Tôi không quan tâm đến những hoạt động sinh tử này. Là gia chủ trong luân hồi sinh tử là một nguyên nhân chính yếu của đau khổ. Đừng bám luyến vào điều này. Mọi của cải được tích tập đều hư huyễn; đừng ôm giữ nó như điều gì vĩnh cửu. Tôi đã quyết định không sống ở vương quốc này. Thay vào đó, tôi sẽ hiến mình cho Giáo phápthiền định trong cô tịch.” Sau khi nói những lời này, cô đi đến nữ tu việntrở thành một sư cô.

Sáu hoàng tử đó bị giọng nói du dương và tuyệt diệu của Kashila quyến rũ đến nỗi họ nghe theo lời cô. Nhờ uy lực của cô, họ cũng tuân theo Giáo pháp. Họ đã thành công trong việc thực hànhthoát khỏi mọi nguyên nhân của đau khổ.

Tránh làm cộng đồng chia rẽ. Đặc biệt là tránh chia rẽ Tăng đoàn. Thay vào đó, hãy cố gắng tạo sự hòa hợp cho người khác.

Tránh dùng lời thô lỗ, khó nghe. Thay vào đó, hãy nói năng dịu dàng. Câu chuyện dưới đây cho ta một ví dụ về những hậu quả có thể xảy ra của việc nói lời thô lỗ:

Thuở xưa, vào thời của Đức Phật, có một gia chủ sinh ra một con khỉ. Về sau, con khỉ trở thành một bé trai. Khi đứa bé trưởng thành, nó nhận ra bản chất của sinh tử và muốn trở thành một tu sĩ. Cậu cầu xin Đức Phật và Ngài cho phép cậu thọ giới xuất gia. Người thanh niên chân thành nghiên cứuthực hành Pháp, và đắc quả A La Hán. Sau đó tu sĩ này hỏi Đức Phật vì sao ông sinh ra làm khỉ mà lại biến thành một con người.

Đức Phật nói: “Nhiều đời trước, vào thời một vị Phật khác, con là một cậu bé đi theo một tu sĩ. Có lần hai người cùng du hành và đi đến một lạch nước. Vị tu sĩ nhảy qua bờ lạch và cậu bé nói: ‘Thầy giống một con khỉ nhảy thật giỏi.’ Vị tu sĩ quở trách con: ‘Đừng nói như thế! Khỉ là một con vật và con sẽ tạo ác nghiệp nặng nề bởi đã so sánh ta, một A La Hán, với một chúng sinh ở cõi thấp hơn.’ Là một cậu bé, con đã cảm thấy vô cùng hối tiếcchân thành xin lỗi. Mặc dù con không nói năng với sự giận dữ hay tiêu cực, con bị sinh làm khỉ trong năm trăm đời. Bởi con đã tạ lỗi, con biến thành con người trong mỗi lần sinh ra.”

Ta nên luôn luôn nhìn vào lời nói cũng như các hoạt động của thân và tâm ta. Ta phải vô cùng cẩn trọng với mỗi loại nghiệp mà ta tạo ra, dù lớn hay nhỏ. Ta không thể bỏ qua nghiệp ta đã gây ra cho dù được tạo lập từ một trăm kiếp trước, bởi nó sẽ không biến mất trừ phi được tịnh hóa. Khi đến lúc và các điều kiện cùng tụ hội, chắc chắn nghiệp đó sẽ hiển lộ.

Tránh chuyện trò vô ích. Thay vào đó, hãy nói những điều có ý nghĩađi vào vấn đề.

ba thiện hạnh được kết hợp với hoạt động của tâm: tránh tham muốn, tránh những tư tưởng hiểm độc và tránh các tà kiến.

Tránh tham muốn. Thay vì tham muốn, hãy thực hành sự hài lòng. Câu chuyện này liên quan đến người thành công trong việc tránh tạo ra lỗi lầm này:

Trước kia có một cậu bé sinh vào gia đình một thương gia thành đạt. Ngay khi cậu sinh ra, của cải và sự thịnh vượng của gia đình tăng trưởng, ngay cả mùa màng trong vùng đó cũng thịnh vượng một cách đặc biệt. Bởi những điều này, đứa bé được đặt tên là Lekye, Thiện Sinh. Một thời gian sau người cha chết, vì thế Lekye tốt lành đi vào lãnh vực thương mại để giúp đỡ gia đình. Trong khi du hành, anh mướn một căn phòng ở một thị trấn và ngủ ở đó. Người địa chủ xảo trá mang một pho tượng vàng ở nhà ông ta và dấu nó giữa hàng hóa của Lekye. Hắn dự định sáng hôm sau sẽ kết tội Lekye ăn cắp pho tượng vàng.

Nhưng vào ban đêm, cha của Lekye xuất hiện với anh trong giấc mơ và cảnh báo: “Xứ này không phải là một nơi yên bình. Con nên biết rằng địa chủ đã dấu một pho tượng vàng trong của cải của con. Hãy đưa pho tượng đó ra ngoài và dấu nó dưới đất.” Sau khi ra khỏi giấc mơ, Lekye trở nên tò mò và bắt đầu xem qua hàng hóa của mình. Anh thật ngạc nhiên khi thấy quả là có một pho tượng vàng trong đồ đạc của mình. Anh nhanh chóng dấu nó đi, như giấc mộng đã khuyên bảo. Đến sáng, người địa chủ nói: “Anh đã ăn cắp pho tượng của tôi.” Người thương gia phủ nhận điều này, và địa chủ yêu cầu kiểm tra tài sản của anh. Tất cả những người trong nhà tìm kiếm thật kỹ càng nhưng không thể tìm thấy nó. Lekye đóng gói lại tất cả của cảitrở về quê hương của mình. Những người dân làng lấy làm ngạc nhiên về tất cả những gì đã xảy ra cho anh.

Nguyên nhân của các sự việc này đến từ những đời trước của anh. Trong quá khứ, Lekye cũng được sinh làm con trai của một thương gia. Mặc dù bận bịu trong việc buôn bán, anh luôn luôn tránh tham lam, tư tưởng ác hại, xảo quyệt, và dối trá. Anh luôn luôn hài lòng với những gì đã nhận được và mãn nguyện với tất cả những gì mình có. Bởi đã thực hành theo cách này trong nhiều đời, anh luôn luôn thọ hưởng những cuộc đời thịnh vượngan bình.

Câu chuyện này có thể thôi thúc ta thực hành Pháp bằng cách giải thoát bản thân khỏi sự tham muốn và những tư tưởng ác hại. Ta nên luôn luôn hoan hỉnhận thức sâu sắc những gì ta có.

Tránh những tư tưởng hiểm độc. Thay vì suy nghĩ hiểm độc, hãy thực hành lòng từ và bi. Hiểm độc là một trong những ác hạnh rất dễ đưa đến sự tái sinh trong một cõi địa ngục. Câu chuyện dưới đây có liên quan đến người đã tránh được một tái sinh như thế:

Trước đây có một vị vua tên là Lekjin, được một thượng thư có nhiều tài năng phò tá. Một thời gian sau, vị vua và thượng thư bị chia rẽ vì sự xảo quyệt của một vài thượng thư khác. Vị thượng thư thực sự là người hiền lành, chánh niệmminh mẫn, luôn luôn lặng lẽan bình. Nhưng nhà vua bắt đầu không tin thượng thư bởi vài người nói rằng vị này đang cố gắng áp đảo nhà vua. Nhà vua lo âu đến nỗi ra lệnh tử hình vị thượng thư và đưa ông tới nghĩa địa để hành quyết. Thượng thư nói: “Không chỉ trong đời này mà trong nhiều đời trước, tôi không bao giờ có một tư tưởng ác hại với bất kỳ ai và đặc biệt là đối với nhà vua. Bởi điều này, cho dù vua có cố giết tôi, tôi sẽ không chết.”

Nghĩ rằng: “Ông ta thật lắm lời. Hãy xem điều gì xảy ra,” nhà vua ra lệnh cho đao phủ làm việc. Khi đao phủ đưa lưỡi kiếm lên, nó gãy thành nhiều mảnh. Nhà vua sai anh ta ném thượng thư xuống sông. Ngay khi đao phủ làm điều đó, con sông hoàn toàn khô cạn. Sau đó nhà vua giam cầm vị thượng thư trong một hang động của quỷ thần. Các quỷ thần báo cho nhà vua: “Hãy lấy thân ông làm gương và từ bỏ việc làm hại người khác. Hãy nhìn xem ông yêu quý cuộc đời ông ra sao và bắt đầu yêu quý cuộc đời của chúng sinh theo cách đó. Hãy lắng nghe giáo lý của Đức Phật và trì giữ mọi giới nguyện.” Sau khi nói điều này, các quỷ thần nhận ra vị thượng thư là một vị Phật và đi nhiễu quanh ông bởi lòng tôn kính. Về sau, họ tránh sinh khởi những tư tưởng ác hại. Sau việc này, nhà vua lại tin tưởng ở vị thượng thư và chân thành xin lỗi ông.

Nghiệp tạo nên tất cả những kết quả này như sau: Trong đời trước, vị thượng thư có một kẻ thù vô cùng ác độc liên tục đe dọa mạng sống của ông. Tuy nhiên, ông luôn luôn canh giữ tâm mình để không phát khởi các tư tưởng ác hại. Ông chân thànhcẩn trọng thực hiện điều này, và không bao giờ nuôi dưỡng ngay cả trong chốc lát một tư tưởng ác hại đối với chúng sinh. Vì lý do đó, vị thượng thư sống an bình, hài hòa, và tốt lành trong đời này. Kẻ thù ác hại từ đời trước của ông sinh ra làm vua. Cuối cùng cả hai đạt được Phật quả sau khi sống hòa hợp trong phần đời còn lại của họ.

Tránh tà kiến. Thay vì tà kiến, hãy tin tưởnghiểu biết giáo lý nhân quả. Đây là một câu chuyện về người bị vô minh khuất phục:

Ngày xưa có một người ngu đần kiếm sống bằng cách leo lên cây tìm hoa quả. Một hôm anh ta ngồi trên một cành cây trong khi cưa nó. Một người tình cờ nhìn thấy và cảnh báo: “Đừng chặt cành theo cách đó. Cả anh và cành cây sẽ rơi xuống đất, và anh có thể chết.” Người hái trái cây này nói: “Điều gì xảy ra khi ta chết?” Người khách qua đường đáp: “Đổ máu, một cái miệng mở và những con mắt nhắm,” và bỏ đi. Người ngu đần tiếp tục chặt cây và dĩ nhiêncuối cùng anh ta và cành cây rơi xuống đất.

 Mặc dù chân tay bị thương nặng nhưng anh không chết. Nhưng vì máu chảy ra và v.v.. nên anh nghĩ: “Bây giờ ta phải chết.” Anh đi về nhà và nói với gia đình: “Xin đưa tôi ra nghĩa địa bởi tôi sắp chết.” Người nhà phản đối nhưng anh nài nỉ: “Xem này! Tôi đang đổ máu, miệng tôi mở và mắt tôi nhắm.” Do sự kiên trì của anh, gia đình đưa anh ra nghĩa địa. Anh ở đó, không có gì để ăn ngoại trừ các xác chếtxung quanh. Cuối cùng, mắt anh ta có màu vàng ệch; thân thể ngả sang màu xanh dương bởi không được quần áo và chỗ cư trú che chở. Lông anh ta mọc dài và phủ khắp người.

Một vị Thầy tình cờ đi qua nghĩa địa và nhận xét: “Bộ lông của anh làm anh giống một con mèo.” Người ngu đần trả lời: “Thưa Đạo sư, nếu thế cầu mong con được sống với ngài, như thú cưng của ngài.” Vị Đạođồng ý, và anh ta ở với vị Thầy một thời gian cho đến một hôm có một cuộc tụ hội vĩ đại được tổ chức ở thị trấn bên cạnh. Vị Đạo sư bảo người ấy đi tới thị trấn và xem tất cả những cuộc trình diễn và trưng bày ở đó. Người ngu nói: “Nhưng nếu con lang thang ở một cuộc tụ hội lớn, con có thể bị lạc.” Vị Thầy trấn an anh ta, nói rằng: “Con sẽ không bị lạc. Những người khác có vật trang sức khác nhau, bông tai, chuỗi hạt v.v.. để nhận dạng. Hãy đeo sợi chỉ này quanh cổ và con sẽ không bị lạc. Đây sẽ là dấu hiệu của con.” Vì thế người ấy đeo sợi chỉ và đi đến nơi tụ hội.

Anh ta nhìn thấy những điều thú vịvô cùng hạnh phúc trong đám đông. Nhưng rồi, giữa tất cả những người hối hả tới lui, anh ta làm mất sợi chỉ. Anh ta nghĩ: “Ta bị lạc rồi. Ta nên làm gì?” Anh kêu gào thảm thiết: “Tôi bị lạc. Có ai nhìn thấy tôi không?” Mọi người nói: “Anh là anh, bởi anh luôn luôn là như vậy.” Anh ta nói: “Không, tôi mất sợi chỉ, vì thế tôi bị lạc.” Anh ta nhìn quanh, nhìn đi nhìn lại đám đông và cuối cùng gặp một người tử tế. Người ấy nói: “Anh ngồi xuống đây. Tôi sẽ tìm kiếm và xem có thể tìm được anh không.” Bởi đã kiệt sức, người hái trái cây ngồi xuống đó và ngủ thiếp đi. Người đàn ông tử tế tìm thấy một sợi chỉ, ông quay lại và buộc nó quanh cổ anh ta. Khi thức dậy, anh nhìn thấy sợi chỉ và la to trong niềm vui sướng: “Ta đã tìm thấy ta! Ta đã ở đây từ đầu đến giờ!” Và thế là anh quay trở lại với vị Đạo sư và thuật lại cho ngài những cuộc phiêu lưu của mình.

Đây là một ẩn dụ về chính chúng ta. Ta có Phật tánh, hạt giống giác ngộ nội tại. Ta đã có mọi cơ hội để giải thoát bản thân khỏi sự mê lầmđạt được giác ngộ viên mãn. Nó ở ngay trong năng lực trí tuệ của ta để xua tan mọi vô minh, nhưng ta tiếp tục tìm kiếm một giải pháp ở bên ngoài ta. Vì thế, ta phải tin tưởngbản thân mình và tin cậy vào khả năng thể nhập mọi phẩm tính tuyệt hảo của chư Phật và Bồ Tát nhờ việc thực hành Pháp.

Những người duy trì mười thực hành này được gọi là “những người có giới hạnh thanh tịnh.”

Danh sách mười thiện hạnhác hạnh này được nhắc đến trong nhiều bản văn khác nhau. Cuộc thảo luận này chỉ là một nhắc nhở cho các hành giảđộc giả. Dĩ nhiên là có những giới luật bổ túc cho người xuất gia; họ nên nghiên cứu những bản văn khác và tuân theo tất cả những giới nguyện họ đã thọ nhận. Những người vi phạm các giới nguyện của mình và tham dự vào những ác hạnh này được gọi là vô đạo đức, dù họ là người tại gia hay xuất gia.

Trong bài kệ này, vô đạo đức đặc biệt ám chỉ sự vi phạm các giới nguyện. Hậu quả của những hành động như thế hủy hoại tâm linh của ta. Những người không thể trì giữ giới hạnh là một nguồn mạch của sự vô minh cho người khác cũng như cho bản thân họ. Đó là lý do vì sao họ được coi là vô đạo đứcdơ bẩn về mặt tâm linh, và bị người khác khinh thường. Những người đau khổ về tinh thần hay thể xác, đặc biệt là những người ngã lòngtuyệt vọng, có thể cảm thấy như thể họ bị ô nhiễm hay vấy bẩn. Việc dấn mình vào những điều bất thiện tạo nên loại đau khổ này, vì thế nó được gọi là “dơ bẩn.” Đây không phải là những niềm tin của Phật giáo mà là một thực tại phổ quát. Những người ở trên con đường tâm linh, cũng như các nhà lãnh đạo các quốc gia hay các cộng đồng, có một trách nhiệm đặc biệt dù họ có là Phật tử hay không. Họ phải duy trì giới hạnh và an trụ vững vàng trước sự yếu kém của con người.

Các thánh nhân là những vị chân thành thực hành Pháp, trì giữ các giới hạnh này một cách thuần tịnh, và là những bậc đã đạt được thành tựu cao cấp hay đang trên đường đi tới sự thành tựu. Các Đạo sư tâm linh, những vị có lòng từ và bi không phân biệt, cảm thấy buồn rầu khi thấy các hành giả không thể giữ giới nguyện của mình. Các ngài biết rằng những hành giả này đã hủy hoại đức hạnh của bản thân họ, cội gốc của an bìnhhạnh phúc, và của sự giác ngộ của họ.

Hầu hết chúng ta có thể thực hiện một hay hai khóa thực hành thiền định mỗi ngày mà không quá khó nhọc, nhưng trì giữ giới hạnh thì không dễ chút nào. Ta phải nhìn bản thân mình hai mươi bốn giờ một ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi năm. Người làm điều đó là một hành giả đích thực. Cuộc đời rất sôi nổi, rộn ràng; so với thời trước, hành giả ngày nay ít có sự hỗ trợ cho việc thực hành tâm linh. Hãy nhìn vào các vị tăng và ni có thể trì giữ các giới nguyện của họ. Họ không cần phải bay trên bầu trời hay phô diễn những năng lực thần diệu; chỉ trì giữ giới nguyện trong ngày hôm nay và trong thời đại này đã là một điều huyền diệu vĩ đại. Trong hoàn cảnh như vậy, các cư sĩ nên tôn kínhquý trọng các tu sĩ hơn nữa. Họ đang giương cao ngọn cờ chiến thắng của sự giải thoát.

Trì giữ giới hạnh là phương pháp thực tiễn để thực hành Pháp thuần tịnh. Đó là phương pháp vững chắc để trở thành một người tốt, một công dân tốt. Bạn trở nên nhiệt tâm với một nhân cách tốt lành, đáng tin cậy, và xác thực. Nhờ thực hành trì giới, ta có thể giải thoát bản thân khỏi sự mê lầm và những tư tưởng tiêu cực. Giới hạnh không phải là một nhà tù hay một cạm bẫy, hay một phương cách để giới hạn cuộc đời bạn. Đúng hơn, nó là một phương pháp đặc biệt để giải thoát bạn khỏi những tư tưởng và hành động tiêu cực và sự đau khổ mà chúng gây nên. Hãy coi giới hạnh như một món trang sức thay vì như một gánh nặng.

Cho đến lúc này những bài kệ đã trình bày các giáo lý nền tảng của mọi trường phái Phật giáo. Vì thế, điều quan trọng là các Phật tử phải hiểu rằng tất cả chúng ta đang thực hành Phật pháp và có sự tôn trọng lẫn nhau. Tất cả chúng ta đều là những môn đồ của cùng một vị Phật lịch sử.

Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen

edited by Khenmo Trinlay Chödrön

Thanh Liên dịch sang Việt ngữ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 113)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 142)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 213)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 146)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 194)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 176)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 203)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 229)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 313)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 556)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 419)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 431)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 524)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 764)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 784)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 783)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 690)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 667)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 673)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 796)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 682)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 686)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 784)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 795)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 789)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 835)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 861)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1038)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 912)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1570)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1019)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1169)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 911)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1165)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1083)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1072)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1226)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1932)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1045)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1311)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1053)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1068)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1491)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1225)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1249)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 986)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1139)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1604)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant