Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Năm Yếu Tố Hòa Bình Của Phật Giáo

08 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 8592)
8. Năm Yếu Tố Hòa Bình Của Phật Giáo
tam_quyen_sach_quy


QUYỂN TÁM:
NĂM YẾU TỐ HÒA BÌNH CỦA PHẬT GIÁO

 

LỜI MỞ ĐẦU


Mỗi buổi sáng sớm thức dậy, ban mở vội tờ báo hàng ngày mà thằng bé bán báo đã chùi qua khe cửa trong lúc bạn còn đang ngủ. Bạn hy vọng sẽ tìm thấy những tin vui, mới lạ, phấn khởi... Nhưng bạn đã đọc thấy gì? Một bà vợ của một sĩ quan cao cấp đã thuê người ta tạt a-xít vào một cô vũ nữ trẻ đẹp, đã cướp chồng bà. Một đứa bé mới mười sáu tuổi, vì không được yêu đã chém chết đứa em bảy tuổi của người yêu. Một ông già đã hãm một em bé rồi cắt cổ vất xuống sông để phi tang. Một bọn cướp đã ném lựu đạn vào một tiệm vàng trước khi rút lui, làm chết ba người và bị thương nhiều người khác. Một bà kỹ sư giựt hụi trên một trăm triệu bị giải tòa. Một thiếu nữ uống độc dược tự tử vì bị lường gạt cả tình lẫn tiền. Một dân vệ sau khi nhậu đã xách súng bắn chơi... làm chết một em bé chăn trâu. Hai ông sui gia chén tạc chén thù rất thân mật đến say rồi... vác chai choảng vào đầu nhau gần chết... Bao nhiều là chuyện buồn trong nước. 

Bạn chán ngán, tìm mục tin tức quốc tế. Bạn không cần phải tìm lâu. Một cái "tít" lớn chiếm luôn bốn cột báo đập vào mắt bạn: "Cút-Xếp dọa gọi quân nhân trừ bị". Bên cạnh đó, có một cái "tít" khác cũng không kém đồ sộ, báo tin: "Mỹ sẽ thả bom nguyên tử xuống đất Nga và sẽ san bằng các đô thị, nếu Nga gây hấn trước". Và rải rác trên tờ báo, chỗ này: "Hội nghị mười bốn nước ở Giơ-neo sắp tan vỡ". Chỗ kia: "Pháp thả bom xuống Bi-déc làm nhiều người chết và bị thương". Chỗ nọ: "Đảo chánh lần thứ ba ở Đại Hàn Dân quốc"... Thật là buồn! Đâu đâu cũng thấy những tin đe dọa bất an, chiến tranh, chết chóc! Từ trong nước đến ngoài nước; đâu đâu cũng chỉ nghe những tin dữ, cũng chỉ thấy những cảnh âm u đen tối, thảm sầu; cũng chỉ ngửi thấy một mùi sát khí. Trời đất sáng tối nối tiếp xoay vần, không thay đổi. Lòng người từ mấy vạn đời, vẫn chất chứa những nỗi lo sợ, buồn giận, ghét ghen! 

Sao cuộc đời chưa sáng rực lên nhĩ? Sao lòng người chưa trút hết những ưu tư, và hân hoan ca hát nhỉ? Ai cũng mong mỏi thiết tha được sống yên ổn mà không ai được yên ổn cả! Nước nào cũng mong được hòa bình, mà nước nào cũng đang chuẩn bị chiến tranh và bị tố cáo là có ý gây hấn! 

Hơn bao giờ hết, ngày nay cái họa diệt vong vì bom nguyên tử đang đe dọa loài người một cách thường trực. Thế giới như đang sống trên một hầm thuốc súng mà một tàn lửa nho nhỏ cũng có thể làm tung nổ bất cứ lúc nào. Chúng ta hoặc đang ở trong những tòa nhà nguy nga đồ sộ, hay đang ở trong những mái nhà tranh vách lá, đang lăn lộn giữa đô thị huy hoàng, hay đang tắm mình mình trong bầu không khí trong trẻo ở đồng quê; chúng ta hoặc ở trong hoàn cảnh này hoặc ở trong hoàn cảnh khác, tất cả mọi người trên thế giới, đều bị ràng buộc trong một số phận đen tối như nhau, là: nếu có một trận thế chiến thứ ba xảy ra, thì bất luận giàu nghèo, sang hèn, trí ngu, Đông Tây, Nam Bắc, Nga hay Mỹ đều tan thành tro bụi trong chốc lát vì những trái bom nguyên tử! Không nghĩ đến viễn tượng hãi hùng của thế giới thì thôi, chứ nghĩ tới thì không thể nào lạc quan được! Ánh điện mỗi ngày mỗi đẩy lui bóng đêm trên thế giới, nhưng bóng tối trong lòng người mỗi ngày một dày thêm lên! Những ánh đèn màu tắt đỏ, đỏ tắt trên các bảng hiệu, những điệu nhạc quay cuồng phát ra từ những ống phóng thanh, từ những máy thâu thanh; những điệu nhảy múa điên dại, quay cuồng trong các vũ trường, hộp đêm, phải chăng là những liều thuốc hiệu nghiệm để thanh niên ngày nay tìm quên thực tại, mỗi khi đêm đến trên trần gian và trong lòng họ? 

Chúng ta phải công nhận, về vật chất, chúng ta được nhiều tiện nghi hơn người xưa nhiều. Nhưng về tinh thần, chúng ta vẫn bị dày vò, đày đọa vì bao nỗi đau khổ mà ông cha chúng ta trước kia đã là nạn nhân.

I.- NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY ĐAU KHỔRỐI LOẠN

Những nguyên nhân của đau khổ và rốiloạn không ở đâu khác hơn là ở giữa lòng người: 

1.- Lòng độc ác của chúng ta chất chứa từ muôn vạn đời, hình như không giảm bớttrái lại, càng tinh vi, tế nhị hơn: 

Những sự đâm chém , giết chóc mỗi ngày mỗi nhiều. Chúng ta có đủ mọi khí cụ để giết nhau, từ những khí cụ thô sơ như dao, búa, tên, nỏ, đến những thứ giết người mau chóng tài tình nhất như súng đạn, hơi ngạt, điện tử, vi trùng, bom A, bom H, ánh sáng... 

Đối với thú vật, sự giết hại của loài người mỗi ngày mỗi tăng lên! Cứ mỗi phút, trên thế giới có từng triệu sinh vật bị cắt cổ, nhổ lông, phân thây, xẻ thịt... Nếu có thể dồn xương, chất thịt lại được một chỗ, thì mỗi ngày chúng ta sẽ có mọt trái núi bằng xương, bằng thịt cao hơn núi Điện Bà ở Tây Ninh; và nếu có thể dồn tất cả máu huyết của những sinh vật bị giết mỗi ngày trên thế giới, thì chúng ta sẽ có một dòng sông máu rộng bằng sông Hương, sông Đồng Nai. Nêu có thể nhìn được với Phật nhãn, chắc chắn chúng ta sẽ thấy thế giới chúng ta đang sống đây là một lò sát sanh lớn, trong ấy người ta đang làm đủ các thứ thịt, kể cả thịt người nữa. Nhất là trong những giai đoạn có chiến tranh, thì thịt người lại nhiều hơn thịt gì cả, và rất ế ẩm, vì không ai thèm mua đến. 

Loài người chưa có thể gọi là văn minh được, vì loài người chưa biết quý trọng sự sống là tác phẩm mỹ thuật đẹp đẽ, mầu nhiệm, tuyệt tác nhất trong các tác phẩm mỹ thuật trên trần gian này. Lòng người còn độc ác, nên không thương mến sự sống, còn thích giết chóc, và nhiều khi còn lấy làm thích thú được sát hại, được dịp làm đau đớn sự sống. 

Chúng ta thường nghe kể chuyện trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp vừa qua, có những "hung thần", mỗi ngày không bắn giết được mọt vài người thì ăn không ngon. Chúng ta không khỏi rùng mình ghê tởm khi nghe những chuyện ấy. Nhưng nếu thú vật biết nói, chúng cũng thì thầm với nhau: "Loài người, trong mỗi bữa ăn, nếu không chém giết ít ra là năm bảy mạng anh em chúng mình thì họ ăn cũng không thấy ngon". Hầu hết chúng ta đối với thú vật là những "hung thần" cả vậy! 

Loài người đang còn đau khổ, xã hội đang còn bộ mặt xấu xa, cảnh đời đang còn đen tối, vì chúng ta đang còn là những "hung thần" của sinh vật, và đôi khi còn là "hung thần" của chính đồng loại chúng ta nữa. 

2.- Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là sự tham lam

Chúng ta tham lam nhiều thứ: tham ăn, tham ngủ, tham danh, tham lợi, tham sắc... Tham ăn, tham ngủ tất nhiên sanh ra nhiều tệ hại; nhưng những tệ hại ấy chỉ hạn cuộc trong phạm vi của cá nhân ấy thôi. Tham danh hại nhiều hơn, nhưng cũng chưa nguy hại bằng tham lợi và tham sắc. 

Hai món tham sau này có một sức mạnh phá hoại gia đìnhxã hội không nhỏ. 

Chúng ta hãy nói trước đến sự tham lợi. Có phải không, từ xưa đến nay loài người đều sống trong sự tranh chấp quyền lợi? Từ trong phạm vi nhỏ hẹp như gia đình, xó, giềng, làng mạc, cho đến phạm vi rộng rãi như quốc gia, xã hội, quốc tế, mọi người, mọi dân tộc đều chạy theo cái lợi. Vì tranh nhau mọt trái cà, trái ổi mà hai người láng giềng phải dùng đến quả thoi, cái đá. Vì tranh nhau mọt miếng vườn, sào ruộng mà hai gia đình thù nhau, tìm cách hại nhau từ đời cha, đời con cho đến đời cháu! Vì tranh nhau một con sông, mọt trái núi, một cửa biển, một mỏ dầu mà dân lành hai nước đem nhau ra chiến trường, quyết một mất một còn? Và cũng vì tranh nhau chiếm thuộc địa mà hai trận thế chiến rùng rợn đã xảy ra và đã làm mồi cho tử thần gần trăm triệu sanh linh! 

Nhất là trong giai đoạn hiện tại, quyền lợi ám ảnh con người một cách khủng khiếp, khiến cho bất luận nghĩ một điều gì, nói một chuyện gì, hay làm một việc gì, người ta cũng tự hỏi trước tiên: "Có lợi hay không?". Người ta đo cái giá trị, cái khả năng của ọt con người với cái số lợi tức mà người ấy kiếm được, với các ô tô, cái nhà lầu, cái gia tài mà người ấy đã tạo ra. 

Nhưng người ta đã tạo ra tài lợi bằng những phương tiện nào? Đó cũng là một vấn đề cần xét đến. 

Có người đã tạo ra gia tài sự nghiệp với mồ hôi, nước mắt, với tài trí của mình. Với những hạng người làm ăn lương thiện này, chúng ta thấy không có gì đáng trách, trái lại, còn quý mến nữa là khác. Nhưng bên cạnh những hạng người này, chung quanh những người này, còn có bao nhiêu là người khác, vì quyền lợi làm mờ mắt, đã không từ khước một mưu mô gì, phương tiện gì, một thủ đoạn gì để thu hút tài lợi về mình. 

Trong phạm vi cá nhân đối với nhau, họ dùng mưu mô để lường gạt nhau, dùng sức mạnh để khuynh loát nhau; họ bóp chẹt nhau trong cơn túng thiếu, cho vay nặng lãi, cầm bán với giá rẻ mạt; họ tích trữ đầu cơ, làm chợ đen, cân non đong thiếu, đổi xấu lấy tốt; họ bày cờ gian bạc lận, gài bẫy những kẻ dại khờ. Và nếu không còn mưu chước gì khác, họ dám trèo tường, khoét vách, mở rương cạy tủ, hay trắng trợn hơn nữa đón đường chận ngõ bày trò cướp giật... 

Trong phạm vi quốc tế, nước mạnh tìm cách khuynh loát nước yếu; hôm nay họ xua quân xâm phạm biên giới, ngày mai đem máy bay xâm phạm không phận; ngày kia chận bắt một ít tàu bè đánh cá hay thuyền buôn, hết đổ thừa cho nước láng giềng nhỏ bé này những lỗi tày trời, đến vu cáo nước nhược tiểu kia có những mưu mô vô cùng đen tối, với mục đích cuối cùng là làm sao cho các nước khác phải nhượng cho mình một số quyền lợi, nếu không phải là tất cả mọi quyền lợi! 

3.- Lòng tham lợi đã gây ra bao sự xáo trộn, đảo điên cho cá nhân và đoàn thể như thế đó. Nhưng lòng "tham sắc" cũng không kém thua nguy hiểm: 

Sắc đẹp có một tác dụng lớn lao trong sự sinh hoạt của loài người. Bạn hãy đi một vòng trên đường phố Tự Do ở thủ đô chẳng hạn, thì bạn sẽ rõ. Có phải không, quá nửa hàng hóa trưng bày trong các tủ kính hay bên đường là để cung phụng cho ngừi đàn bà, cho phái đẹp. Này dép, này "xắc", này gấm, này nhung, này khăn quàng, lược dắt, này nước hoa, này phấn, này son, này vòng, này xuyến, này dây chuyền, này hoa tai, này ngọc ngà, này kim cương hột xoàn... Hơn một nửa năng lựchoạt động của loài người, đã được đem ra để phụng sự cho cái đẹp! Và một điều vô cùng mâu thuẫn là những vật không cần thiết, những xa xí phẩm nhất lại là những thứ đắt tiền nhất. Loài người, cả phái mạnh lẫn phái yếu, đều đã phụng sự sắc đẹp một cách tận tâm, tận lực, hơn một thứ gì khác ở trên đời. 

Nhưng ngược lại, sắc đẹp đã tàn phá cuộc đời nhiều hơn một độc dược nào hết, nhiều hơn một sức mạnh tàn phá nào hết. 

Người xưa thường có câu thành ngữ: "Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành". Mới nghe thì tưởng như nói ngoa. Nhưng đó là một sự thậtlịch sử đã chứng minh. Bao nhiêu triều đại ngai vàng đã sụp đổ vì một mỹ nhân; bao nhiêu thành trì, đất nước đã tiêu vong vì một tiếng khóc, một giọng cười, hay cái liếc mắt của người ngọc! May thay trong cái thời đại dân chủ này, một người đẹp dù là quốc sắc thiên hương đến bậc nào, cũng không còn có thể tác oai tác quái như xưa được nữa. Tuy thế, ảnh hưởng tai hại của họ trong quốc sách, trong chính trường vẫn không nhỏ. 

Có người sẽ cãi rằng: "Sắc đẹp đâu phải là một tội lỗi? Tội lỗi là tại lòng say hoa đắm sắc kia chứ!". Vâng, chúng tôi cũng định kết luận như thế. Sắc đẹp chỉ là nguyên nhân phụ thuộc. Nguyên nhân chính là của sự đổ vỡ, từ nhỏ đến lớn, từ cá nhân đến gia đình, xã hội đều tại lòng tham sắc dục mà ra. Vì sắc dục mà hai người yêu trở lại đâm chém nhau; vì sắc dục mà người mẹ đành đoạn thả trôi con theo dòng nước hay vất vào bụi rậm cho kiến tha gà mổ; vì sắc dục mà chồng vợ xa nhau, cha con ly tán, hạnh phúc gia đình tan vỡ; vì sắc dục mà sanh ra lường gạt, thụt két, mang công mắc nợ; vì sắc dụcsức khỏe hao mòn chết non, chết yểu; vì sắc dục mà mang bệnh suốt đời và di hại cho con cháu về sau (năm chục phần trăm những bệnh điên trên thế giới là gốc ở bệnh tình mà ra). 

4.- Một biến chứng khác của lòng tham lam là sự dối trá

Sự tham lam đẻ ra không biết bao nhiêu là tánh xấu và để che dấu sự xấu xa ấy, người ta phải lừa phỉnh dối gạt với nhau

Vì tham ăn mà đứa bé đã ăn chùng, ăn vụng, và để che dấu lỗi lầm của mình đã nói dối cha mẹ, tìm lý do này lý do khác, để biện minh cho sự mất mát vật thực. Vì tham ngủ, người học sinh không thuộc bài, đã tìm cớ này cớ khác để dối thầy giáo. Vì tham danh, người ta đã giả tạo những bằng cấp này, bằng cấp kia, đã tự phong cho mình những chức tước này nọ, không có trong thực tế. Vì tham lợi, nhà buôn đã lừa dối bạn hàng, phỉnh gạt người mua. Vì tham sắc, người chồng đã lừa dối vợ, gạt gẫm người yêu. 

Chúng ta thấy đó, vì tham mà nảy sanh sự dối trá. Nhưng ngược lại, vì dối trá mà lòng tham được che đậy, nên lại phát triển mạnh thêm. Dối trá là cái màn phủ lên, che đậy tội lỗi, là cái bình phong hào nhoáng ngăn dấu những hành động đen tối nguy hiểm cho đời sống chung.. 

Dối trá làm mất lòng tin, mà đã mất lòng tin thì không có một công cuộc gì có thể thành tựu được trong xã hội. Đức Khổng Tử dạy rất đúng: "Nhân vô bất tín lập". 

Một sự nhận xét làm cho chúng ta không khỏi buồn rầu, lo ngại là trong sự giao thiệp hàng ngày giữa cá nhân với cá nhân, hay nước này với nước khác, lòng chân thành, ngay thật mỗi ngày một hiếm dần. Người ta nói một đàng mà làm một ngả; nói có mà làm không, nói không mà làm có. Không ai tin được ai. Người ta sống nơm nớp trong sự lo sợ bị lừa dối, phỉnh gạt. Do đó, người ta luôn luôn giữ thế thủ, giữ miếng ngay cả đối với những người thân, và nhiều khi, để khỏi bị lừa dối, người ta dở trò lừa dối trước. Với một tâm trạng như thế, không có một tình cảm đẹp đẽ nào, không có một mối thâm giao nào là không bị sự ngờ vực ung độc và giết chết. Tóm một lời, quốc gia, xã hội cũng như gia đình, không thể yên ổn hòa vui được, khi dối trá, lường gạt đang hoành hành. 

5.- Một nguyên nhân khác của đau khổxấu xa, không kém phần quan trọng, có lẽ còn quan trọng hơn cả những nguyên nhân đã kể trên, là sự "si mê, ngu dốt": 

Chính đức Phật, hiện than của trí huệ sáng suốt đã dạy: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì". (không sợ tham và sân khởi, chỉ sợ giác ngộ chậm). 

Thật thế, tánh xấu xa, ác độc nào cũng có thể sửa chữa, tiêu trừ được cả, với một điều kiện tiên quyết là có sự sáng suốt hiểu biết hay dở, phải trái, chánh tà. Người không có trí huệ thì khó lòng thoát khỏi cảnh đen tối khổ đau. Người không có trí huệ như kẻ mù đi trong rừng rậm, không thể nào thoát khỏi tai nạn sa hố, sụp hầm và làm mồi cho thú dữ. Trong kinh, Phật thường ví dụ người ngu si như kẻ liếm mật trên lưỡi dao, không thể nào tránh khỏi cái nạn bị đứt lưỡi. Thật là một ví dụ rất cụ thểlinh động, nói lên được sự nguy hiểm của ngu si

Người ta tàn ác, tham lam, giết người, cướp của, đắm mê sắc dục, lừa đảo, dối gạt cũng vì ngu si, không nhận rõ được hậu quả tai hại của những hành động tội lỗi của mình. Cho nên đức Phật thường dạy: "Ngu si là gốc của muôn tội lỗi". 

Một gia đình gồm những người ngu si, thì gia đình ấy là một khám đường, một xã hội gồm những phần tử ngu si, thì xã hội ấy là một địa ngục... 

Chúng ta có thể tìm thêm nhiều nguyên nhân gây đau khổ cho cá nhân, và loạn lạc cho xã hội nữa, nhưng xét ra, những nguyên nhân chính không ngoài những điều vừa nói ở các đoạn trên là: tánh độc ác, lòng tham lam tài sắc, sự dối trángu si

Diệt trừ được những nguyên nhân trên, chắc chắn cuộc đời sẽ bớt khổ đau và bớt loạn lạc nhiều lắm. Nhưng chúng ta phải công nhận rằng: diệt trừ tận gốc các nguyên nhân trên không phải là dễ, vì chúng đã ăn sâu gốc rễ trong lòng người từ muôn vạn đời rồi. Vả lại, xã hội loài người rất phức tạp, trình độ không đồng đều, hoàn cảnh của mỗi người cũng không giống nhau, khó có thể làm cho con người trở thành thân thiện, trong một thời gian ngắn được. 

Nhưng nói như thế, không có nghĩa là chúng ta đành khoanh tay chịu bất lực trước sự hoành hành của những tánh xấu xa, đen tối đâu. Nếu chưa có thể diệt trừ tận gốc chúng nó, thì ít ra chúng ta cũng phải có phương phápchận đứng chúng nó lại, không cho bành trướng ra nữa, để chúng khỏi làm hại cho cá nhân và đoàn thể chứ! 

Đứng trước vấn đề trọng đại trên, đạo Phật đã giải quyết như thế nào?

II.- NHỮNG PHƯƠNG THUỐC ĐỐI TRỊ CỦA ĐẠO PHẬT

Đức Phật có nhiều phương thức để đối trị những chứng bệnh nói trên. Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, trình độ của chúng sinh rất phức tạp, chứng bệnh nặng nhẹ cũng khác nhau, nên Phật đã chế ra đến tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị. Tuy pháp môn thì nhiều như thế, nhưng chung quy có thể chia làm hai loại lớn: loại chữa bệnh tận gốc và loại ngăn ngừa không cho phát ra. 

Có những chứng bệnh kinh niên trầm trọng không thể trong một lúc mà chữa tuyệt nọc được. Nếu nóng nảy muốn cho mau lành mà dùng thuốc quá mạnh, thì sẽ nguy đến tánh mạng con bệnh. Cho nên, trước khi chữa tuyệt nọc, người lương y giỏi phải dùng thứ thuốc tương đối nhẹ để ngăn chận bệnh, không cho nó tiến thêm nữa. 

Sự ngăn chận những tâm bệnh nói trên, đức Phật gọi là giới, hay những điều ngăn cấm. 

1.- Để đối trị lòng ác độc, đức Phật ngăn cấm đệ tử không được giết hại: 

Sự ngăn cấm này có tính cách tuyệt đối hay tương đối, tùy theo căn cơ và sự phát nguyện của người đệ tử. Đối với những căn cơ ít độc ác, muốn giữ hoàn toàn giới sát, thì họ phát nguyện không giết một sanh vật nào, dù nhỏ bao nhiêu. Họ không giết thú vật để ăn thịt, họ cũng không giết thú vật vì thù ghét, hay vì thú vui. Nghĩa là họ biết tôn trọng sự sống của sinh vật khác cũng như tôn trọng sự sống của mình. Họ áp dụng tinh thần bình đẳng tuyệt đối của chư Phật, xem mọi sự sống như nhau, không lấy sự sống này phụng sự cho sự sống khác. Họ thi hành đúng theo lòng từ bi tuyệt đối của chư Phật, xem mọi đau khổ của chúng sanh như sự đau khổ của mình, thương xót chúng sanh như thương xót mình, không làm cho chúng sanh đau khổ để mình khỏi khổ đau 

Nhưng đối với những căn cơ chưa có thể hàng phục được lòng độc ác, thì giới cấm sát chỉ áp dụng trong phạm vi tương đối, nghĩa là chỉ phát nguyện không giết hại người. 

Tuy thế, người Phật tử không thể viện lý do vì mình chỉ phát nguyện không giết người, mà có thể mặc tình chém giết thú vật. Giới cấm này mục đích là ngăn chận sự phát sinh của lòng độc ác. Nếu mình đã phát nguyện giữ giới này mà cón lấy làm thú vị trong sự giết hại thú vật, như đi săn bắn, đi câu v.v... thì lòng độc ác khó bị ngăn chận được. Vả lại lòng độc ác đưa đến sự giết người không phải nảy sinh trong chốc lát, mà do sự huân tập lâu ngày, mỗi khi một ít. Khi nghe tường thuật trên báo chí một cậu học sinh đã chém chết chị dâu vì một câu nói nặng, hay một anh cạo heo đã dùng dao bàn thọc vào bụng khách hàng sau một hồi cãi lẫy. Có nhiều người lấy làm ngạc nhiên tự hỏi sao người ta có thể giết người một cách dễ dàng, vì một vài câu nói như vật? Thật ra, những câu cãi vả ấy chỉ là một nguyên nhân phụ, một cơ hội vô nghĩa, mà nguyên nhân chính là lòng độc ác đã được huân tập, đã được nuôi dưỡng từ lâu trong nhiều trường hợp trước. Đó chỉ là một giọt nước thêm vào ly nước đã đầy làm cho nó tràn ra. Giọt nước sau cùng chỉ là một nguyên nhân phụ, nguyên nhân chính là ly nước đã đầy quá rồi. Cậu học sinh nói trên sở dĩ đã giết chị dâu một cách gần như vô nghĩa như thế, là do sự hung bạo đã được dồn góp lâu ngày rồi. Chắc chắn, cậu thuộc vào hạng "lưu manh", đã nhiều lần dùng khóa xe đạp, dùng bàn tay sắt, hay con dao chó đánh lộn với những du đảng khác rồi. Cậu là hạng "dao búa" đã quen tay đấm đá, quen nhìn thấy máu rơi thịt đổ, đã dễ phẩn nộ trong những trường hợp bất như ý, nên đã trở thành một kẻ sát nhân giết chị dâu một cách tự nhiên như thế. 

Và anh thợ cạo heo kia cũng vậy. Sở dĩ anh đâm người khách hàng kia không do dự là vì hằng ngày anh đã quen dùng dao đam vào họng heo, đã quen róc da xẻ thịt quá nhiều rồi, nên bây giờ anh không "gớm" tay đâm vào vào bụng người trong một cơn tức giận. Và nếu chúng ta đi tìm nguyên nhân xa hơn nữa, chắc chắn chúng ta sẽ biết thêm được rằng thuở nhỏ, anh cạo heo này, cũng như cậu học sinh kia, cũng đã thường hay bắt châu chấu, giết thằn lằn, tìm thích thú trong sự bắn chim, câu cá... nghĩa là đã quen với sự giết chóc sanh vật nhiều rồi, mà không được ai khuyên răn, cản trở

Cho nên chúng ta đừng nên bắt chước một số người hời hợt, thường chê cười đạo Phật quá "lý tưởng", quá "yếm thế". quá "không tưởng" vì đã khuyên loài người đừng giết hại sinh vật. Có không giết hại sanh vật mới khỏi giết hại người. Đạo Phật sở dĩ được gọi là đạo hòa bình và đã thức hiện được một phần nào lòng từ bi của đức Phật, chính là ở giới bất sát này. 

Chúng ta hãy nên thương xót lấy loài vật, đừng tàn nhẫn với chúng, để tập đừng tàn nhẫn với người. Khi chúng ta còn cần đến thịt cá, chúng ta đừng tự bào chữa rằng: "Vật dưỡng nhơn", mà tự bảo rằng: "Ta còn thèm thịt cá, nên ta còn phải giết thú vật, ta giết chúng nhưng ta vẫn thương xót chúng, như là những kẻ đã hy sinh cho loài người

Đức Khổng Tử, mặc dù còn ăn thịt, nhưng đã nói một câu bộc lộ được lòng nhân đức của ngài, và làm cho chúng ta vô cùng cảm phục: "Văn kỳ thinh, bất nhẫn thực kỳ nhục; kiến kỳ sinh, bất nhẫn kiến kỳ tử" (Nghe tiếng kêu là của con vật, không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống, không đành thấy nó chết). 

Bây giờ đứng về phương diện xã hội mà xét, chúng ta sẽ thấy nếu nhân loại áp dụng được lời răn dạy này của đức Phật, thì cõi đời này sẽ vơi đi biết bao nhiêu là máu đào lệ nóng, sẽ bớt đi biết bao là lời than tiếng khóc, sẽ dập tắt được bao nhiêu là ngọn lửa căm thù đang nung nấu trong lòng người, bao nhiêu là ngọn lửa chiến tranh đang thiếu đốt công trình vĩ đại của nhân loại. Thật đúng như Tổ xưa đã dạy:

Nhất thiết chúng sanhsát nghiệp
Thập phương hà xứ động đao binh. 
Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện
Thiên hạ hà sầu bất thái bình.

Nghĩa là:

Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết, 
Mười phương nào có nỗi đao binh. 
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện
Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.

2.- Bây giờ chúng ta hãy nói đến phương thuốc đức Phật dạy trừ tham lợi

Tất nhiên ở đây, trong giai đoạn đầu, đức Phật chỉ dạy ngăn ngừa sự tham lợi một cách bất chính, phi nhân, phi nghĩa mà thôi. Như chúng ta đã thấy ở đoạn trước, lòng tham lợi bất chính biến thể ra nhiều hình thức. Có hình thức trắng trợn, lộ liễu trực tiếp dùng võ lực giựt ngang của người, hay đào ngạch cạy cửa nhà người để trộm cắp. Có hình thức che đậy, gián tiếp dùng mưu kế thâm độc để lấy của người, như cho vay nặng lãi, tích trữ đầu cơ, cân non đong thiếu, ăn hối lộ v.v... 

Nhưng dù hình thức nào, hễ lấy của người một cách phi nghĩa, đức Phật đều gọi là trộm cướp cả, và ngăn cấm đệ tử của ngài không được phạm đến. 

Lời răn dạy này dựa trên tinh thần từ bicông bằng

Khi bị mất tiền bạc hay một vật gì quý báu, ta đau khổ thế nào, thì khi ta lấy của ai một vật gì, họ cũng đau khổ như thế. Ta không muốn đau khổ, thì lòng từ bi và công bằng cũng bắt buộc ta đừng làm cho kẻ khác phải đau khổ vì ta. 

Một xã hội không có trộm cướp, bóc lột nhau mới có thể gọi là một xã hội văn minh. Trái lại, một xã hội, dù cơ khí tiến bộ đến đâu, dù đầy đủ tiện nghi đến đâu, dù khoa học phát triển đến đâu, mà người ta còn dựa trên mưu mô quỷ quyệt, trên sự khuynh loát, bóc lột nhau, trên sự lường gạt, cướp bóc nhau để làm giàu có, thì xã hội ấy vẫn còn là dã man, mọi rợ. 

3.- Phương thuốc thứ ba của đức Phật nhằm vào sự ngăn ngừa bệnh tham sắc: 

Căn bệnh này, như chúng ta đã thấy ở đoạn trước, cũng không kém phần nguy hại, nhất là khi nó biến chứng bệnh tà dâm

Tà dâm tức là sự tham dục phi lễ, phi pháp. Phật dạy người xuất gia ly dục phải dứt hẳn dâm dục, còn người tại gia thì không được tà dục. Khi vợ chồng có cưới hỏi đủ lễ gọi là chánh; ngoài ra, lén lút lang chạ, làm việc phi pháp thì gọi là tà. Nhưng nếu vợ chồng chính thức đi nữa, mà ăn nằm không phải chỗ, gần gũi nhau không chừng mực, thì cũng thuộc về tà dâm cả. Đó là nói về mặt thô thiển. Nói về mặt vi tế, thì phàm sự phóng tâm đắm sắc, nghĩ ngợi bất chính, chơi bời lả lơi, cũng đều thuộc về loại tà dâm cả (Phật Học Phổ Thông khóa thứ nhất). 

Sự ngăn cấm sắc dục nhằm mục đích giữ gìn hạnh phúc cho cá nhângia đình. Phật dạy: "Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Thật vậy, người đắm say sắc dục, nếu không lâm bệnh nguy kịch, thì cũng sẽ chết yểu vì sự hoang chơi quá độ của mình, nếu không đau đớn khổ sở đến nỗi liều thân hủy mạng vì sự phụ rẫy của người yêu, thì cũng khó thoát khỏi được mũi dao, làn đạn của kẻ tình địch phủ phàng. 

Nếu người đàn ông hay đàn bà đã có gia đình rồi mà còn đi lang chạ, thì hạnh phúc gia đình thế nào cũng phải tan rã. Hoặc người vợ phải ôm tủi nuốt hờn, hoặc người chồng phải đau khổ vì nhục nhã; hoặc nếu không thể chịu đựng được nhau, thì vợ chồng phải chia rẽ, con cái bơ vơ, theo cha thì bỏ mẹ, theo mẹ thì mất cha! 

Cho nên tà dâm, mê đắm sắc dục là một mối nguy hại lớn nhất của hạnh phúc gia đình. Nếu giữ được giới tà dâm, sẽ có những lợi ích thiết thực sau đây:

- Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được toàn vẹn

- Trọn đời được người kính trọng

- Đoạn trừ hết cả phiền lụy quấy nhiễu

- Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm.

Về phương diện đoàn thể, một xã hội gồm những phần tử đoan chính, không đắm mê sắc dục, không hoang dâm, thì những điều thương luân bại lý, những cảnh thù hiềm chém giết sẽ không xảy ra, vợ chồng con cái sẽ sống hòa thuận an vui trong gia đình, bạn bè trọn niềm chung thủy. 

4.- Phương thuốc thứ tư của đức Phậtngăn ngừa sự dối trá, một tệ đoan gây tai hại không nhỏ cho cá nhânxã hội

Dối trá có bốn hình thức:

  1. Nói dối hay nói láo: Là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có; việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạt; hay khi ưa thì dịu ngọt thơm tho, khi gét lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩ, lời nóiviệc làm trước sau mâu thuẫn, bất nhất, đều gọi là nói dối cả.
  2. Nói thêu dệt: Là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận, là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe, làm cho người ta say mê đắm nhiễn, cũng có khi là nói biếm, nói băm, nói châm chích, làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù phiếm, bóng bẩy làm cho người nghe phải loạn tâm rối trí, sanh phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả.
  3. Nói lưỡi hai chiều: Hay nôm na hơn là nói "đòn xóc nhọn hai đầu" nghĩa là đến chỗ này thì về hùa với bên này, để nói xấu bên kia; đến bên kia thì về hùa với bên ấy, để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau trở lại chống nhau, kẻ ân người nghĩa chống đối nhau, oán thù nhau.
  4. Nói lời hung ác: Là nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chửi rủa làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi.

Đoạn định nghĩa về sự dối trá trên, chúng tôi đã trích trong tập "Phật Học Phổ Thông khóa I", cũng đã cho chúng ta thấy được hình thức phức tạp, muôn mặt của sự dối trá, và sự tai hại, nguy hiểm của nó. 

Đức Phật đã nhận thấy rõ cái tầm phá hoại lớn lao của dối trá đời sống tập đoàn, nên ngài đã ngăn cấm không cho đệ tử của ngài sử dụng cái khí giới tai hại ấy. 

Có người bảo rằng: "Sống trong xã hội ngày nay mà thành thật, ngay thẳng quá thì không thể làm ăn được và dễ bị người ta lừa phỉnh". Do cái quan niệm sai lầm ấy, mà không ai thành thật với ai cả; ai cũng tìm cách để lừa dối người khác. Và cuối cùng xã hội là một trường nói dối, lừa đảo nhau, không ai còn tin ai được nữa. 

Mỗi người sống với một lớp sơn bên ngoài, với một cái mặt nạ, với những lời nói không phát ra tự thâm tâm của mình, những cử chỉ điệu bộ mượn chát, chẳng khác gì những kịch sĩ trên sân khấu! 

Cuộc đời đã bị vô minh che lấp bản tánh chân thật, làm cho loài người đã điên đảo khổ đau, lại còn bị sự lừa đảo dối gạt, bưng bít sự thật nữa, thì không biết đến bao giờ loài người mới tìm thấy được sự an vui, thanh tịnh

Cho nên ngăn cấm sự dối trá là một điều cần thiết, để nhân loại lần hồi tìm hiểu biết nhau hơn, để cõi đời không còn là một chợ đời gồm những kẻ buôn dối bán trá nữa. 

5.- Phương thuốc thứ năm mà đức Phật dùng để ngăn ngừa bệnh si mê, cuồng loạn

Là sự cấm tuyệt đệ tử của ngài ăn uống những thức ăn có chất làm rối loạn trí óc. Tất nhiên ở đây chỉ mới ngăn ngừa không cho si mê thêm, chứ chưa phải là trừ tuyệt được si mê. Muốn trừ tuyệt si mê, cần phải tu học nhiều hơn nữa. Nhưng đối với những kẻ sơ cơ, ngăn chận không cho sự si mê cuồng loạn khuấy phá cuộc đời thêm nữa, cũng đã quý lắm rồi. 

Trong các thức ăn uống làm rối loạn trí óc, rượu là thứ nguy hiểm nhất. Những tai hại do rượu gây ra cho nhân loại không thể nói hết. Những cuộc cãi vã đánh lộn phần nhiều đều có hơi rượu pha vào; các cuộc chém giết, các tai nạn xe cộ đa sốbóng dáng của ma men. Những đứa con khẳn khiu, khờ khạo, mất trí, điên cuồng phần nhiều là nạn nhân của tửu thần.

Trừ rượu là trừ được một phần lớn những nguyên nhân gây rối loạn cho chính mình, cho gia đìnhxã hội

Về phương diện cá nhân, người không uống rượu tránh được nhiều điều hại như: không mất tiền của, ít mang bệnh tật, không sinh lòng ác độc, ít nóng giận, trí tuệ tăng trưởng, tuổi thọ cao... 

Về phương diện đoàn thể, mọt gia đình không có người rượu chè, thì gia đình được an vui, con cái ít bệnh tật ngu đần, một xã hôi không có người nghiệm rượu, thì xã hội ấy được hòa bình, nói giống được hùng cường.

PHẦN TỔNG KẾT

Năm phương thuốc trên này, không nói, chắc bạn cũng biết đó là "Ngũ giới", năm điều răn cấm của đức Phật đối với hàng Phật tử tại gia. Nó không có gì cao siêu huyền bí. So sánh với đạo Nho, thì nó chẳng khác "Ngũ thường":

- Không sát sinh chính là Nhân. 

- Không trộm cướp chính là Nghĩa. 

- Không tàm dâm chính là Lễ. 

- Không uống rượu chính là Trí. 

- Không nói dối chính là Tín.

Nhưng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín không được minh định một cách rõ ràng dứt khoát, khẳng định như ngũ giới. Ngũ giới có thể áp dụng chung cho tất cả mọi người; chứ ngũ thường chỉ riêng có kẻ sĩ, người quân tử mới hiểu rõ và làm được. 

Ngũ giới, mặc dù là những giáo điều của đức Phật đối với đệ tử của ngài, nhưng vẫn có thể đem ra áp dụng chug cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp, mọi dân tộc, mọi quốc gia trên thế giới

Chúng ta có thể ước ao rằng: nếu toàn thể nhân loại đều áp dụng ngũ giới, thì bộ mặt của thế giới này hoàn toàn thay đổi một cách vô cùng tốt đẹp

1.- Mọi cuộc chém giết sẽ không diễn ra hàng ngày, máu sẽ không đổ, thịt không rơi; nhân loại sẽ không xô đẩy nhau vào lò sát sanh của chiến tranh. 

2.- Không ai lo sự bị mất mát, cướp giật của cải; vật để rơi không ai lấy, ban đêm cửa không cần đóng, tiền bạc không cần thu dấu... Lao tù không cần phải xây dựng, vì không có tù nhân trộm cướp và thế giới các nước không còn xâm lăng lẫn nhua. 

3.- Những cảnh tượng dâm dật, cưỡng hiếp, những cuộc ghen tương, chép giết nhau giữa tình địch không xảy ra. Chồng vợ sống với nhau trong lễ nghĩa, chung thủy; con cái được sum vầy trong gia đình với cha mẹ, anh em. 

4.- Những cảnh dối trá, lường gạt không diễn ra hàng ngày. Từ trong gia đình ra đến xã hội, từ những cuộc hùn hạp nho nhỏ cho đến những công ty lớn lao, ở đâu người ta cũng tin cậy nhau, trung thành với nhau. Những tình cảm chân thật được phát lộ, mọi lòng dạ được cởi mở, hòa vui. 

5.- Những cảnh tượng tàn phá rùng rợn, bỉ ổi do ma men khuấy động sẽ được chấm dứt. Loài người sẽ hoạt động trong sự yên vui bình tĩnh của tâm hồn, trong sự sáng suốt của trí tuệ

Một thế giới đẹp đẽ như thế, cũng có thể gọi được là "thế giới hoàng kim" lắm phải không các bạn? 

Vậy chúng ta, mọi người, còn đợi gì nữa mà không thi hành ngũ giới, "năm yếu tố hòa bình của Phật giáo".


Viết xong ngày rằm tháng bảy, năm Tân Sửu (1961)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1614)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1739)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 995)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1781)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1355)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1284)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2577)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1277)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1303)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1583)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1564)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1363)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2500)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1511)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1494)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1450)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1333)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1300)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1414)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2066)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1442)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1502)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1426)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1565)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1596)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1373)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1847)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1664)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1515)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1565)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1352)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1626)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1484)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1446)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1240)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1165)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1541)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 956)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1403)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1415)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant