Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Các Trường Phật HọcNam Bộ Nửa Đầu Thế Kỷ 20

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 7524)
Các Trường Phật Học Ở Nam Bộ Nửa Đầu Thế Kỷ 20

CÁC TRƯỜNG PHẬT HỌCNAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ 20



Thích Minh Cảnh



Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt đặt tại chùa Ấn Quang quận 10, Sài Gòn chứ thật ra còn rất nhiều trường Phật học mở trước đó mà ít người biết đến.

 Đầu tiên phải kể đến trường Sông Tra, đặt tại chùa Linh Nguyên.

 Sông Tra ở đâu?

 Theo địa chí của tỉnh Long An thì sông Tra là một nhánh của sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang quận lỵ Đức Hòa, thuộc tỉnh Long An hiện nay, còn chùa Linh Nguyên do tổ Minh Phương Chơn Hương làm trụ trì. Chùa thuộc thị trấn Đức Hòa nên hòa thượng lấy sông Tra đặt tên trường. Phải chăng ngài muốn cho pháp âm lưu bố cùng khắp như dòng sông mang nước đến mọi miền nó chảy đến.Đi kèm với lớp học chùa Linh Nguyên còn một lớp học song song ở chùa Long Thạnh (Bà Hom) do tổ Minh Hòa Hoan Hỷ trụ trì, đứng ra giảng dạy coi sóc.

 Nếu ở Linh Nguyên chuyên dạy kinh luận thì ở Long Thạnh chuyên dạy luật. Có thể nói Long Thạnh là chi nhánh của trường Sông Tra. Hai vị trên đều là đệ tử của Tổ Tiên Giác Hải Tịnh. Trường bắt đầu dạy từ năm 1900 đến 1915 mới ngưng nghỉ do hai vị trụ trì quá già yếu (Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ tịch năm 1916 và Tổ Minh Phương Chơn Hương tịch năm 1919).

 Ban giáo thọ ngoài hai vị trụ trì hai chùa trên còn cung thỉnh hòa thượng Trừng Châu ở chùa Long Triều (chợ Đệm) và hòa thượng Hải Lương chùa Kim Cang (cầu Voi, Long An) giảng dạy.

 Học tăng của trường Sông Tra phần lớn là nội trú. Ta phải kể:

Như Nhãn Từ Phong

Như Trí Khánh Hòa

Đạt Thái Chánh Thành

Trừng Minh Huệ Mạng

Như Sơn Bửu Chung

Như Quới Pháp Ấn

Như Thông Đạt Thanh

Như Bằng Thanh An

 Đặc biệt chỉ có Như Bằng Thanh An (ở chùa Từ Ân) là học tăng ngoại trú. Sáng ra công phu xong khoảng 5 giờ phải lội bộ từ cầu Tre lên Linh Nguyên để kịp 8 giờ vào học. Chiều khoảng 4 giờ phải quay về chùa để kịp 7 giờ tối công phu thọ trì. Quãng đường từ chùa Từ Ân đến Linh Nguyên độ 20 km phải đi trong vòng 3 tiếng quả là phải có sức khỏe dồi dào với một nghị lực phi thường mới đến lui không mệt mỏi như vậy.

 Sau khi mãn khóa học ở trường Sông Tra các học tăng phân tán về chùa thầy tổ. Những người nổi tiếng phải kể đến:

 Như Nhãn Từ Phongpháp sư nổi tiếng cả Sài Gòn lục tỉnh, ngài để lại các tác phẩm: Phát bồ đề tâm văn diễn nghĩa, Quy nguyên trực chỉ diễn nghĩa, Tông cảnh yếu ngữ lục diễn nghĩa, v.v. (đều là tác phẩm diễn Nôm).

 Như Sơn Bửu Chung pháp sư nổi tiếng ở miền Tây, đã để lại các dịch phẩm: Nhập đạo yếu môn, Vạn pháp quy tâm lục, Phật học dị giải.

 Như Quới Pháp Ấn, đệ tử chùa Linh Nguyên, một học tăng trường Sông Tra, về sau lãnh chức trụ trì chùa Phước Tường (Thủ Đức), mở lớp học đào tạo các vị nổi tiếng sau này như: Bửu Ngọc (Phước Tường), Hồng Tín Huệ Thành (Long Thiền), Diệu Tịnh (Hải Ấn), Diệu Tánh Hồng Ân (Huê Lâm), Diệu Minh Hồng Huệ (Vĩnh Bửu), Diệu Tấn Hồng Lầu (Kim Sơn), v.v.

 Đạt Thái Chánh Thành (hòa thượng Vạn An) lấy nghĩa bằng chữ Nôm các bộ luật: Sa di luật giải, Qui Sơn cảnh sách, Tứ phần như thích, Di đà sớ sao, v.v.  Lối cắt nghĩa của hòa thượng vượt ngoài lối cắt nghĩa: chi chưng, bất chẳng, kỳ thửa, v.v. mà từ trước các Nho gia dùng để dạy học. Lối cắt nghĩa này, mở ra một lối mới, khiến cho người đọc dễ hiểu hơn, tiếp cận với lối nói thông thường của văn học. Ví dụ: “Nhân chi bách hạnh” cắt nghĩa là “trăm hạnh của con người” thay vì “người chưng trăm hạnh”; “kỳ nhân” cắt nghĩa là “người ấy” thay vì “thửa người” v.v.

 Ngộ Đạo Từ Vân (chùa Tân Long, Đồng Tháp) đã mở lớp dạy học, và khắc bản in các kinh luật: Sa di luật giải, Kinh Tam Bảo, Kinh Kim Cang, Thần chung tịnh độ kinh, Hứa sử truyện vãn, Chư sám quốc âm, Phục sơ giác bổn diễn ca tập, Tam quy ngũ giới thích nghĩa, Niệm Phật pháp môn công cứ, Lục tổ bảo đàn diễn nghĩa.

 Như Trí Khánh Hòa được coi là học sinh xuất sắc của trường Sông Tra thời đó, Ngài dự học cả Kinh và Luật. Năm 1905, Như Trí Khánh Hòa lúc đó 21 tuổi, trùng tuyên kinh Kim Cang ở Trường Hương chùa Long Huê, Gò Vấp.

 Sau khi trường Sông Tra bế giảng, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, hòa thượng Khánh Hòa đứng lên vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Chư tôn hưởng ứng phần lớn là các học trò trường Sông Tra cả. Năm 1932, hòa thượng đã bán chánh điện chùa Tuyên Linh của mình đang trụ trì để xây Thích Học Đường ngay tại chùa Linh Sơn, trụ sở của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Ông Trần Nguyên Chấn, lúc ấy giữ chức phó hội trưởng của Hội, mật báo với nhà cầm quyền Pháp là các ông thầy mở trường dạy chủ nghĩa cộng sản. "Nhà nước" ra lệnh cấm ngay. May mà quí hòa thượng không ai bị bắt giam.

 Thích Học Đường, cơ quan đào tạo tăng tài, xóa bỏ nạn thất học của tăng đồ, không thực hiện được ở thành phố. Các hòa thượng cố tìm một phương thức khác.

 Không lập trường được ở một điểm cố định, các hòa thượng lập trường với hình thức lưu động, lấy tên là Liên Đoàn Học Xã. Lớp học lần lượt được tổ chức ở 3 điểm. Mỗi chùa luân phiên đài thọ 3 tháng việc ăn ở cho giáo thọ và các tăng sinh. Đầu tiên là chùa Long Hòa của hòa thượng Huệ Quang ở Cầu Kè Trà Vinh, điểm kế tiếp là chùa Thiên Phước của hòa thượng Chánh Tâm ở Trà Ôn và điểm thứ ba là chùa Viên Giác của hòa thượng Tâm Quang ở Bến Tre. Khác với hai điểm trước, lớp học tổ chức được tốt đẹp đem lại sự hoan hỉ cho cả thầy dạy và người học. Nhưng ở điểm thứ ba, lớp học bị ông Trần Nguyên Chấn viết thư cho chủ tỉnh Bến Tre là Liên Đoàn nói rằng lớp học hoạt động không giấy phép, hòa thượng Khánh Hòa là chủ chốt. Lớp học khai giảng được 1 tuần, hòa thượng Khánh Hòa bị mời tới dinh tỉnh trưởng tra hỏi. Hòa thượng phải trình bày cặn kẽ cho chủ tỉnh biết mục đích dạy học và cắt nghĩa các kinh đang dạy là không liên quan đến chính trị. Cuối cùng quan chủ tỉnh xét thấy hợp lý hòa thượng mới được thả về bình yên.

 Sự kiện này gây xôn xao trong học chúng và giáo thọ. Thầy trò không còn tâm trí nào dạy và học nữa. Theo ý kiến của ban giáo thọ, hòa thượng Khánh Hòa đành giải tán. Tại sao học chúng tâm trí bất an? Trở lại những năm 30 của thế kỷ trước, các thanh niên mỗi người phải có một giấy thuế thân. Các thanh niên tăng hồi đó quá nghèo làm gì có tiền đóng thuế, vô hình trung là một phần tử trốn thuế đối với chính quyền sở tại. Có việc gì phải ra làng tổng, họ đã rét run rồi, huống chi việc này tới tai quan tỉnh trưởng. Vì vậy không thể giữ họ lại trong tâm trạng đầy ắp lo âu này. Ý thức được nỗi lo sợ của các tăng sinh thời ấy, hòa thượng Khánh Hòa cùng hòa thượng Huệ Quang cố vận động với các hòa thượng đồng chí cùng một số Phật tử trí thứchằng sản hằng tâm ở Trà Vinh thành lập một hội Phật học hợp pháp khác.

 Hội Lưỡng Xuyên Phật học được thành lập có giấy phép do Pierre André Michel Pagès, thống đốc Nam Kỳ, ký ngày 13/8/1934.

 Có Hội Lưỡng Xuyên hoạt động hợp pháp đỡ đầu, năm 1935 Thích Học Đường Lưỡng Xuyên bắt đầu hoạt động với ban điều hành:

 Hòa thượng Khánh Hòa làm đốc học sư (giám đốc)

 Hòa thượng Huệ Quang làm đốc giáo

 Hòa thượng Khánh Anh làm giáo thọ trưởng.

 Thỉnh thoảng có mời các vị Mật Thể, Như Ý, Trí Thuyên, Nhựt Liên từ Huế vào dạy.

 Khóa đầu tiên của trường gồm có 30 học viên, trong đó có các vị: Hành Trụ, Huyền Quang, Thiện Hòa, Thiện Hoa, v.v.

 Trường có gởi học tăng ra Huế học, như: Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không, Hiển Chơn, v.v.

 Năm 1945, trước biến chuyển thời cuộc, nhân tâm dao động, tài chánh eo hẹp, trường đành đóng cửa.

 Cũng trong năm 1945, Phật học đường Báo Quốc sau khi dời lên chùa Kim Sơn vẫn không ổn vì điều kiện kinh tế khó khăn, nên ban giám đốc quyết định giao cho các vị mãn khóa tốt nghiệp người Nam đưa trường về miền Nam tiếp tục dạy dỗ. Do thời cuộc không ổn định, sau khi đoàn về tạm trú tại chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), một số theo tiếng gọi Tổ quốc cởi áo ca sa mặc chiến bào, một số tìm đến trường Lưỡng Xuyên, một số theo thầy Thiện Hoa xuống chùa Phật Quang Trà Ôn.

 Trường Phật học Phật Quang Trà Ôn bắt đầu từ cuối năm 1945, quy tụ một số học tăng tại địa phương, một số khác từ Huế vào. Trường do hai vị Trí Tịnh và Thiện Hoa đảm trách việc giảng dạy. Giữa năm 1946 do thời cuộc bất ổn, thầy Trí Tịnh lên Sài Gòn lập Phật học đường Liên Hải tại chùa Vạn Phước ở Bình Trị Đông (bây giờ là quận Bình Tân).

 Trường Liên Hải gồm có 3 lớp:

 Mông đẳng: 21 vị

 Sơ đẳng 2: 18 vị

 Sơ đẳng 3: 7 vị

 Giáo thọ, ngoài thầy Trí Tịnh (lúc đó là thượng tọa) còn có thầy Quảng Minh phụ trách lớp Mông đẳng.

 Lớp Mông đẳng gồm có: Thiện Phước, Thiện Hậu, Thiện Chơn, Thiện Huê, Chơn Lễ, Minh Cảnh, Tắc Nghiệp, Định Trí, Tắc An, v.v.

 Lớp Sơ đẳng 2 gồm có: Tịnh Đức, Tắc Phước, Tắc Minh, Đạt Sanh và một số thầy từ Phật học đường Kim Sơn theo về.

 Lớp Sơ đẳng 3 gồm có: Bửu Huệ, Huệ Hưng, Trí Minh, Quảng Liên, Tâm Hòa, Phước Cần.

 Năm 1948, ở Huế mở lớp nâng cao, các thầy Quảng Minh, Trí Minh, Quảng Liên ra Huế học. Hai lớp Sơ đẳng 2 và 3 nhập làm một do thượng tọa Trí Tịnh giảng dạy.

 Năm 1949, thượng tọa Trí Tịnh do lao lực nhiều nên sinh bịnh, thầy Quảng Minh về thay thế.

 Trường Tăng Già. Trong khi thượng tọa Trí Tịnh lập Phật học đường Liên Hải, ngài Hành Trụ hợp cùng các thân hữu thành lập trường học lấy tên Tăng Già ở Vĩnh Hội gần hãng thuốc lá Bastos, dạy cả hai chúng tăng và ni, với sự phụ tá của thầy Huệ Phương, một cựu học tăng của trường Báo Quốc. Trường Tăng Già về sau số ni chúng càng đông. Năm 1947, ngài Hành Trụ thuê một miếng đất của người Chà ở giữa đồng cách chùa Tăng Già độ 800m lập nên chùa Giác Nguyên để cho các tăng sinh tu học.

 Trường hoạt động đến năm 1956, các học tăng sang dự thínhẤn Quang về nội điển, còn ngoại điển học ở trường tư thục bên ngoài.

Song song với Phật học đường Liên Hải và trường Tăng Già còn hai trường khác:

 1. Trường Mai Sơn cách trường Liên Hải độ 2 km về hướng đông do thầy Huyền Dung, một học tăng của Báo Quốc, vận động một số Phật tử Chợ Lớn thành lập đầu năm 1947.

 2. Trường Ứng Quang do thầy Trí Hữu, người Quảng Nam, mua một miếng đất nhỏ ở ngã ba Vườn Lài lập nên vào năm 1948.

 Cuối năm 1950, trường Liên Hải sáp nhập với trường Mai Sơn và Ứng Quang làm Phật học đường Nam Việt, cử hòa thượng Thiện Hòa làm giám đốc. Khi mới sáp nhập mượn chùa Sùng Đức làm trụ sở tạm. Sau đó dời về chùa Ứng Quang ở Vườn Lài và đổi tên thành chùa Ấn Quang. Ban giáo thọ Phật học đường Nam Việt gồm các vị: Thiện Hòa, Quảng Minh, Quảng Liên, Huyền Dung, Trí Minh, Nhật Liên, Trí Hữu phụ trách giảng dạy. Từ năm 1952, các vị Quảng Liên, Huyền Dung, Quảng Minh lần lượt xuất dương du học.

 Với đức độtài năng của mình, thầy Thiện Hòa sau khi nhận nhiệm vụ giám đốc Phật học đường Nam Việt, với chương trình hợp lý, ban giáo thọ nhiệt tâm năng động, học tăng các nơi quy tụ mỗi lúc một đông. Năm 1953 Thầy Thiện Hoa từ Cần Thơ về giữ chức đốc giáo, trường càng được củng cố vững vàng hơn nữa:

 Các học tăng từ Phật học đường Giác Nguyên sang: Trí Phước, Trí Lạc, Thiện Lực, Viên Hạnh, Huệ Bửu.

 Các vị ở Phan Rí vào: Đức Hạnh, Đức Thiện, Đức Bổn, Như Hương, Tâm Minh.

 Các vị ở Phan Rang: Huyền Vi, Huyền Thâm, Tịnh Hạnh, Nguyên Lai, Đổng Triệt, Đồng Tánh.

 Các vị ở Quảng Nam: Đồng Huy, Chơn Phát, Như Huệ, Thị Thành, Như Vạn.

 Các vị ở các tỉnh phía Bắc vào: Thanh Tuất, Minh Kha, Vĩnh Tuy, Chính Tiến, Quảng Long, Giác Hải, v.v.

 Các vị ở hai trường Liên Hải, Mai Sơn nhập lại: Thiện Phúc, Thiện Hậu, Thiện Đức, Hồng Cơ, Hồng Đạo, Từ Thông, Thiên Định, Nhựt Ân, Lãng Phổ, Huệ Văn, Hoằng Chiếu, Thiện Tân, Trí Không, Trí Châu, Thiện Bình, Minh Cảnh, Thiện Tánh, Nhựt Quang, Nhựt Thỉ, Nhựt Tân, Nhựt Thiện, Chơn Lễ, Thanh Phong…

 Hơn 80 người, chia làm 3 lớp, sống trong tinh thần kỷ luật an vui, dưới sự che chở của bóng mát ban điều hành

------------------

* Thư mục tham khảo

Khánh Anh, Khánh Anh văn sao, 3 tập, Gia Định, 1952.

Thích Thiện Hoa, 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tập 1, 1970.

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I II III, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2000.

Trí Không, Tổ đình Ấn Quanglịch sử phát đạt của Phật giáo Việt Nam từ 1950 trở đi, tài liệu lưu hành nội bộ, 2009.

Tư liệu qua lời kể các vị tôn túc như: HT.Thích Huệ Xương, HT.Thích Thiện Thạnh.

Nghiên cứu thực địa: Chùa Giác Hải (Thành phố Hồ Chí Minh), chùa Thiền Lâm (Tây Ninh), chùa Kim Cang (Long An), chùa Tân Long (Đồng Tháp), v.v.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1641)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1573)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1494)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1076)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1465)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1410)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1332)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1376)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1709)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1969)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1433)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1090)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1428)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2015)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1469)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1551)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1387)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2902)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1371)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1407)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1716)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1679)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1630)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1474)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2640)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1601)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1610)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1404)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1422)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1614)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1556)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1442)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1425)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1516)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2200)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1544)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1507)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1620)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1834)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1531)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1409)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1665)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1419)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1696)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2377)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1468)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1949)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1678)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1756)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1616)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1952)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1682)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1439)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1728)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1578)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1543)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1336)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1253)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1296)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1525)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant