Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Các Trường Phật HọcNam Bộ Nửa Đầu Thế Kỷ 20

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 7477)
Các Trường Phật Học Ở Nam Bộ Nửa Đầu Thế Kỷ 20

CÁC TRƯỜNG PHẬT HỌCNAM BỘ NỬA ĐẦU THẾ KỶ 20



Thích Minh Cảnh



Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt đặt tại chùa Ấn Quang quận 10, Sài Gòn chứ thật ra còn rất nhiều trường Phật học mở trước đó mà ít người biết đến.

 Đầu tiên phải kể đến trường Sông Tra, đặt tại chùa Linh Nguyên.

 Sông Tra ở đâu?

 Theo địa chí của tỉnh Long An thì sông Tra là một nhánh của sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang quận lỵ Đức Hòa, thuộc tỉnh Long An hiện nay, còn chùa Linh Nguyên do tổ Minh Phương Chơn Hương làm trụ trì. Chùa thuộc thị trấn Đức Hòa nên hòa thượng lấy sông Tra đặt tên trường. Phải chăng ngài muốn cho pháp âm lưu bố cùng khắp như dòng sông mang nước đến mọi miền nó chảy đến.Đi kèm với lớp học chùa Linh Nguyên còn một lớp học song song ở chùa Long Thạnh (Bà Hom) do tổ Minh Hòa Hoan Hỷ trụ trì, đứng ra giảng dạy coi sóc.

 Nếu ở Linh Nguyên chuyên dạy kinh luận thì ở Long Thạnh chuyên dạy luật. Có thể nói Long Thạnh là chi nhánh của trường Sông Tra. Hai vị trên đều là đệ tử của Tổ Tiên Giác Hải Tịnh. Trường bắt đầu dạy từ năm 1900 đến 1915 mới ngưng nghỉ do hai vị trụ trì quá già yếu (Tổ Minh Hòa Hoan Hỷ tịch năm 1916 và Tổ Minh Phương Chơn Hương tịch năm 1919).

 Ban giáo thọ ngoài hai vị trụ trì hai chùa trên còn cung thỉnh hòa thượng Trừng Châu ở chùa Long Triều (chợ Đệm) và hòa thượng Hải Lương chùa Kim Cang (cầu Voi, Long An) giảng dạy.

 Học tăng của trường Sông Tra phần lớn là nội trú. Ta phải kể:

Như Nhãn Từ Phong

Như Trí Khánh Hòa

Đạt Thái Chánh Thành

Trừng Minh Huệ Mạng

Như Sơn Bửu Chung

Như Quới Pháp Ấn

Như Thông Đạt Thanh

Như Bằng Thanh An

 Đặc biệt chỉ có Như Bằng Thanh An (ở chùa Từ Ân) là học tăng ngoại trú. Sáng ra công phu xong khoảng 5 giờ phải lội bộ từ cầu Tre lên Linh Nguyên để kịp 8 giờ vào học. Chiều khoảng 4 giờ phải quay về chùa để kịp 7 giờ tối công phu thọ trì. Quãng đường từ chùa Từ Ân đến Linh Nguyên độ 20 km phải đi trong vòng 3 tiếng quả là phải có sức khỏe dồi dào với một nghị lực phi thường mới đến lui không mệt mỏi như vậy.

 Sau khi mãn khóa học ở trường Sông Tra các học tăng phân tán về chùa thầy tổ. Những người nổi tiếng phải kể đến:

 Như Nhãn Từ Phongpháp sư nổi tiếng cả Sài Gòn lục tỉnh, ngài để lại các tác phẩm: Phát bồ đề tâm văn diễn nghĩa, Quy nguyên trực chỉ diễn nghĩa, Tông cảnh yếu ngữ lục diễn nghĩa, v.v. (đều là tác phẩm diễn Nôm).

 Như Sơn Bửu Chung pháp sư nổi tiếng ở miền Tây, đã để lại các dịch phẩm: Nhập đạo yếu môn, Vạn pháp quy tâm lục, Phật học dị giải.

 Như Quới Pháp Ấn, đệ tử chùa Linh Nguyên, một học tăng trường Sông Tra, về sau lãnh chức trụ trì chùa Phước Tường (Thủ Đức), mở lớp học đào tạo các vị nổi tiếng sau này như: Bửu Ngọc (Phước Tường), Hồng Tín Huệ Thành (Long Thiền), Diệu Tịnh (Hải Ấn), Diệu Tánh Hồng Ân (Huê Lâm), Diệu Minh Hồng Huệ (Vĩnh Bửu), Diệu Tấn Hồng Lầu (Kim Sơn), v.v.

 Đạt Thái Chánh Thành (hòa thượng Vạn An) lấy nghĩa bằng chữ Nôm các bộ luật: Sa di luật giải, Qui Sơn cảnh sách, Tứ phần như thích, Di đà sớ sao, v.v.  Lối cắt nghĩa của hòa thượng vượt ngoài lối cắt nghĩa: chi chưng, bất chẳng, kỳ thửa, v.v. mà từ trước các Nho gia dùng để dạy học. Lối cắt nghĩa này, mở ra một lối mới, khiến cho người đọc dễ hiểu hơn, tiếp cận với lối nói thông thường của văn học. Ví dụ: “Nhân chi bách hạnh” cắt nghĩa là “trăm hạnh của con người” thay vì “người chưng trăm hạnh”; “kỳ nhân” cắt nghĩa là “người ấy” thay vì “thửa người” v.v.

 Ngộ Đạo Từ Vân (chùa Tân Long, Đồng Tháp) đã mở lớp dạy học, và khắc bản in các kinh luật: Sa di luật giải, Kinh Tam Bảo, Kinh Kim Cang, Thần chung tịnh độ kinh, Hứa sử truyện vãn, Chư sám quốc âm, Phục sơ giác bổn diễn ca tập, Tam quy ngũ giới thích nghĩa, Niệm Phật pháp môn công cứ, Lục tổ bảo đàn diễn nghĩa.

 Như Trí Khánh Hòa được coi là học sinh xuất sắc của trường Sông Tra thời đó, Ngài dự học cả Kinh và Luật. Năm 1905, Như Trí Khánh Hòa lúc đó 21 tuổi, trùng tuyên kinh Kim Cang ở Trường Hương chùa Long Huê, Gò Vấp.

 Sau khi trường Sông Tra bế giảng, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, hòa thượng Khánh Hòa đứng lên vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Chư tôn hưởng ứng phần lớn là các học trò trường Sông Tra cả. Năm 1932, hòa thượng đã bán chánh điện chùa Tuyên Linh của mình đang trụ trì để xây Thích Học Đường ngay tại chùa Linh Sơn, trụ sở của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Ông Trần Nguyên Chấn, lúc ấy giữ chức phó hội trưởng của Hội, mật báo với nhà cầm quyền Pháp là các ông thầy mở trường dạy chủ nghĩa cộng sản. "Nhà nước" ra lệnh cấm ngay. May mà quí hòa thượng không ai bị bắt giam.

 Thích Học Đường, cơ quan đào tạo tăng tài, xóa bỏ nạn thất học của tăng đồ, không thực hiện được ở thành phố. Các hòa thượng cố tìm một phương thức khác.

 Không lập trường được ở một điểm cố định, các hòa thượng lập trường với hình thức lưu động, lấy tên là Liên Đoàn Học Xã. Lớp học lần lượt được tổ chức ở 3 điểm. Mỗi chùa luân phiên đài thọ 3 tháng việc ăn ở cho giáo thọ và các tăng sinh. Đầu tiên là chùa Long Hòa của hòa thượng Huệ Quang ở Cầu Kè Trà Vinh, điểm kế tiếp là chùa Thiên Phước của hòa thượng Chánh Tâm ở Trà Ôn và điểm thứ ba là chùa Viên Giác của hòa thượng Tâm Quang ở Bến Tre. Khác với hai điểm trước, lớp học tổ chức được tốt đẹp đem lại sự hoan hỉ cho cả thầy dạy và người học. Nhưng ở điểm thứ ba, lớp học bị ông Trần Nguyên Chấn viết thư cho chủ tỉnh Bến Tre là Liên Đoàn nói rằng lớp học hoạt động không giấy phép, hòa thượng Khánh Hòa là chủ chốt. Lớp học khai giảng được 1 tuần, hòa thượng Khánh Hòa bị mời tới dinh tỉnh trưởng tra hỏi. Hòa thượng phải trình bày cặn kẽ cho chủ tỉnh biết mục đích dạy học và cắt nghĩa các kinh đang dạy là không liên quan đến chính trị. Cuối cùng quan chủ tỉnh xét thấy hợp lý hòa thượng mới được thả về bình yên.

 Sự kiện này gây xôn xao trong học chúng và giáo thọ. Thầy trò không còn tâm trí nào dạy và học nữa. Theo ý kiến của ban giáo thọ, hòa thượng Khánh Hòa đành giải tán. Tại sao học chúng tâm trí bất an? Trở lại những năm 30 của thế kỷ trước, các thanh niên mỗi người phải có một giấy thuế thân. Các thanh niên tăng hồi đó quá nghèo làm gì có tiền đóng thuế, vô hình trung là một phần tử trốn thuế đối với chính quyền sở tại. Có việc gì phải ra làng tổng, họ đã rét run rồi, huống chi việc này tới tai quan tỉnh trưởng. Vì vậy không thể giữ họ lại trong tâm trạng đầy ắp lo âu này. Ý thức được nỗi lo sợ của các tăng sinh thời ấy, hòa thượng Khánh Hòa cùng hòa thượng Huệ Quang cố vận động với các hòa thượng đồng chí cùng một số Phật tử trí thứchằng sản hằng tâm ở Trà Vinh thành lập một hội Phật học hợp pháp khác.

 Hội Lưỡng Xuyên Phật học được thành lập có giấy phép do Pierre André Michel Pagès, thống đốc Nam Kỳ, ký ngày 13/8/1934.

 Có Hội Lưỡng Xuyên hoạt động hợp pháp đỡ đầu, năm 1935 Thích Học Đường Lưỡng Xuyên bắt đầu hoạt động với ban điều hành:

 Hòa thượng Khánh Hòa làm đốc học sư (giám đốc)

 Hòa thượng Huệ Quang làm đốc giáo

 Hòa thượng Khánh Anh làm giáo thọ trưởng.

 Thỉnh thoảng có mời các vị Mật Thể, Như Ý, Trí Thuyên, Nhựt Liên từ Huế vào dạy.

 Khóa đầu tiên của trường gồm có 30 học viên, trong đó có các vị: Hành Trụ, Huyền Quang, Thiện Hòa, Thiện Hoa, v.v.

 Trường có gởi học tăng ra Huế học, như: Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không, Hiển Chơn, v.v.

 Năm 1945, trước biến chuyển thời cuộc, nhân tâm dao động, tài chánh eo hẹp, trường đành đóng cửa.

 Cũng trong năm 1945, Phật học đường Báo Quốc sau khi dời lên chùa Kim Sơn vẫn không ổn vì điều kiện kinh tế khó khăn, nên ban giám đốc quyết định giao cho các vị mãn khóa tốt nghiệp người Nam đưa trường về miền Nam tiếp tục dạy dỗ. Do thời cuộc không ổn định, sau khi đoàn về tạm trú tại chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), một số theo tiếng gọi Tổ quốc cởi áo ca sa mặc chiến bào, một số tìm đến trường Lưỡng Xuyên, một số theo thầy Thiện Hoa xuống chùa Phật Quang Trà Ôn.

 Trường Phật học Phật Quang Trà Ôn bắt đầu từ cuối năm 1945, quy tụ một số học tăng tại địa phương, một số khác từ Huế vào. Trường do hai vị Trí Tịnh và Thiện Hoa đảm trách việc giảng dạy. Giữa năm 1946 do thời cuộc bất ổn, thầy Trí Tịnh lên Sài Gòn lập Phật học đường Liên Hải tại chùa Vạn Phước ở Bình Trị Đông (bây giờ là quận Bình Tân).

 Trường Liên Hải gồm có 3 lớp:

 Mông đẳng: 21 vị

 Sơ đẳng 2: 18 vị

 Sơ đẳng 3: 7 vị

 Giáo thọ, ngoài thầy Trí Tịnh (lúc đó là thượng tọa) còn có thầy Quảng Minh phụ trách lớp Mông đẳng.

 Lớp Mông đẳng gồm có: Thiện Phước, Thiện Hậu, Thiện Chơn, Thiện Huê, Chơn Lễ, Minh Cảnh, Tắc Nghiệp, Định Trí, Tắc An, v.v.

 Lớp Sơ đẳng 2 gồm có: Tịnh Đức, Tắc Phước, Tắc Minh, Đạt Sanh và một số thầy từ Phật học đường Kim Sơn theo về.

 Lớp Sơ đẳng 3 gồm có: Bửu Huệ, Huệ Hưng, Trí Minh, Quảng Liên, Tâm Hòa, Phước Cần.

 Năm 1948, ở Huế mở lớp nâng cao, các thầy Quảng Minh, Trí Minh, Quảng Liên ra Huế học. Hai lớp Sơ đẳng 2 và 3 nhập làm một do thượng tọa Trí Tịnh giảng dạy.

 Năm 1949, thượng tọa Trí Tịnh do lao lực nhiều nên sinh bịnh, thầy Quảng Minh về thay thế.

 Trường Tăng Già. Trong khi thượng tọa Trí Tịnh lập Phật học đường Liên Hải, ngài Hành Trụ hợp cùng các thân hữu thành lập trường học lấy tên Tăng Già ở Vĩnh Hội gần hãng thuốc lá Bastos, dạy cả hai chúng tăng và ni, với sự phụ tá của thầy Huệ Phương, một cựu học tăng của trường Báo Quốc. Trường Tăng Già về sau số ni chúng càng đông. Năm 1947, ngài Hành Trụ thuê một miếng đất của người Chà ở giữa đồng cách chùa Tăng Già độ 800m lập nên chùa Giác Nguyên để cho các tăng sinh tu học.

 Trường hoạt động đến năm 1956, các học tăng sang dự thínhẤn Quang về nội điển, còn ngoại điển học ở trường tư thục bên ngoài.

Song song với Phật học đường Liên Hải và trường Tăng Già còn hai trường khác:

 1. Trường Mai Sơn cách trường Liên Hải độ 2 km về hướng đông do thầy Huyền Dung, một học tăng của Báo Quốc, vận động một số Phật tử Chợ Lớn thành lập đầu năm 1947.

 2. Trường Ứng Quang do thầy Trí Hữu, người Quảng Nam, mua một miếng đất nhỏ ở ngã ba Vườn Lài lập nên vào năm 1948.

 Cuối năm 1950, trường Liên Hải sáp nhập với trường Mai Sơn và Ứng Quang làm Phật học đường Nam Việt, cử hòa thượng Thiện Hòa làm giám đốc. Khi mới sáp nhập mượn chùa Sùng Đức làm trụ sở tạm. Sau đó dời về chùa Ứng Quang ở Vườn Lài và đổi tên thành chùa Ấn Quang. Ban giáo thọ Phật học đường Nam Việt gồm các vị: Thiện Hòa, Quảng Minh, Quảng Liên, Huyền Dung, Trí Minh, Nhật Liên, Trí Hữu phụ trách giảng dạy. Từ năm 1952, các vị Quảng Liên, Huyền Dung, Quảng Minh lần lượt xuất dương du học.

 Với đức độtài năng của mình, thầy Thiện Hòa sau khi nhận nhiệm vụ giám đốc Phật học đường Nam Việt, với chương trình hợp lý, ban giáo thọ nhiệt tâm năng động, học tăng các nơi quy tụ mỗi lúc một đông. Năm 1953 Thầy Thiện Hoa từ Cần Thơ về giữ chức đốc giáo, trường càng được củng cố vững vàng hơn nữa:

 Các học tăng từ Phật học đường Giác Nguyên sang: Trí Phước, Trí Lạc, Thiện Lực, Viên Hạnh, Huệ Bửu.

 Các vị ở Phan Rí vào: Đức Hạnh, Đức Thiện, Đức Bổn, Như Hương, Tâm Minh.

 Các vị ở Phan Rang: Huyền Vi, Huyền Thâm, Tịnh Hạnh, Nguyên Lai, Đổng Triệt, Đồng Tánh.

 Các vị ở Quảng Nam: Đồng Huy, Chơn Phát, Như Huệ, Thị Thành, Như Vạn.

 Các vị ở các tỉnh phía Bắc vào: Thanh Tuất, Minh Kha, Vĩnh Tuy, Chính Tiến, Quảng Long, Giác Hải, v.v.

 Các vị ở hai trường Liên Hải, Mai Sơn nhập lại: Thiện Phúc, Thiện Hậu, Thiện Đức, Hồng Cơ, Hồng Đạo, Từ Thông, Thiên Định, Nhựt Ân, Lãng Phổ, Huệ Văn, Hoằng Chiếu, Thiện Tân, Trí Không, Trí Châu, Thiện Bình, Minh Cảnh, Thiện Tánh, Nhựt Quang, Nhựt Thỉ, Nhựt Tân, Nhựt Thiện, Chơn Lễ, Thanh Phong…

 Hơn 80 người, chia làm 3 lớp, sống trong tinh thần kỷ luật an vui, dưới sự che chở của bóng mát ban điều hành

------------------

* Thư mục tham khảo

Khánh Anh, Khánh Anh văn sao, 3 tập, Gia Định, 1952.

Thích Thiện Hoa, 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tập 1, 1970.

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I II III, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2000.

Trí Không, Tổ đình Ấn Quanglịch sử phát đạt của Phật giáo Việt Nam từ 1950 trở đi, tài liệu lưu hành nội bộ, 2009.

Tư liệu qua lời kể các vị tôn túc như: HT.Thích Huệ Xương, HT.Thích Thiện Thạnh.

Nghiên cứu thực địa: Chùa Giác Hải (Thành phố Hồ Chí Minh), chùa Thiền Lâm (Tây Ninh), chùa Kim Cang (Long An), chùa Tân Long (Đồng Tháp), v.v.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1595)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 999)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1471)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1450)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1626)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1880)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1466)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1301)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1332)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1507)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1107)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1231)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1235)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1659)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1608)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2893)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1781)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1342)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1192)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1256)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1363)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1284)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1889)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1638)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1860)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1779)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2341)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1760)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2083)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2141)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2262)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1810)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1938)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1996)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1911)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2535)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1901)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1831)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1910)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1855)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2115)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2246)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1933)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2037)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1811)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1865)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2377)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2268)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3821)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2439)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3135)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2426)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2011)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1769)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3266)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2308)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2988)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2660)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1987)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant