Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phát Hiện Nơi Đản Sinh Của Đức Phật Sớm Hơn Chúng Ta Tưởng

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 8757)
Phát Hiện Nơi Đản Sinh Của Đức Phật Sớm Hơn Chúng Ta Tưởng


PHÁT HIỆN NƠI ĐẢN SINH CỦA ĐỨC PHẬT
SỚM HƠN CHÚNG TA TƯỞNG

 


Discovery: Buddha's Birth Earlier Than Thought by National Geographic



Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra bằng chứng về một ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, có niên đại khoảng năm 550 trước Công nguyên.

Tọa lạc tại trung tâm hành hương Lâm Tì Ni của Nepal, địa điểm huyền thoại nơi Đức Phật đản sinh, phát hiện chỉ ra rằng Ngài đã từng sống hơn một thế kỷ trước đó so với thời gian được chấp nhận bởi nhiều học giả trước đây.



“Điều mà chúng tôi có được là một ngôi chùa Phật giáo đầu tiên trên thế giới” nhà khảo cổ học Robin Coningham của trường Đại học Durham Vương quốc Anh, tác giả chính của nghiên cứu phát hiện, tiết lộ trên tạp chí Antiquity cách nay vài ngày.

Trong nghiên cứu, nhóm khảo cổ quốc tế báo cáo đã đào cấu trúc bằng gạch dưới ngôi chùa hiện tại, được đến thăm hàng năm bởi hàng trăm ngàn người hành hương.

Các cuộc khai quật cho thấy những cấu trúc bằng gỗ cũ hơn nằm bên dưới các bức tường của ngôi chùa bằng gạch sau này. Cách bố trí của ngôi chùa này trùng lặp với cách bố trí của các cấu trúc bằng gỗ trước đó, cho thấy một sự thờ phượng liên tục tại địa điểm này, Coningham nói.

"Đã có các cuộc tranh luận lớn về thời gian tại thế của Đức Phật và bây giờ chúng tôi có một cấu trúc chùa từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên", Coningham nói. Nhóm nghiên cứu sử dụng hai loại khoa học xác định niên đại để tìm ra tuổi của ngôi chùa ban đầu.

Các học giả bên ngoài hoan nghênh sự phát hiện nhưng cảnh báo sự quá vội vàng chấp nhận đây là ngôi chùa Phật giáo lâu đời nhất từng được phát hiện mà không cần phân tích thêm.

"Các nhà khảo cổ thường thích tuyên bố rằng họ đã tìm một cái gì đó thấy sớm nhất hoặc lâu đời nhất", nhà khảo cổ học trẻ tuổi Ruth của Đại học Leicester Vương quốc Anh trong một email nói.

Hiệp hội Địa lý Quốc gia Mỹ National Geographic



PHÂN TÍCH THÊM VỀ THỜI ĐIỂM ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH


Văn Công Hưng


Nơi đản sinh của Đức Phật

Theo truyền thống, Lâm Tỳ Ni là một khu vườn nơi mẹ của Đức Phật, Hoàng hậu Maya Devi, đã hạ sinh nhân vật lịch sử Siddhartha Gautama, người sau này trở thành Phật.

Ngày sinh chính xác của Đức Phật vẫn là một tranh cãi, chính quyền Nepal xem đó là năm 623 trước Công nguyên, trong khi các truyền thống khác thì lại xem là khoảng năm 400 trước Công nguyên.

maya_devi_temple_2_750

Chư Tăng tham quan và bày tỏ niềm cung kính nơi được cho là một ngôi chùa Phật giáo

Dù sao đi nữa thì vào năm 249 trước Công nguyên, Lâm Tỳ Ni đã trở thành một trong bốn trung tâm linh thiêng của Phật giáo, đánh dấu bằng trụ đá dựng năm 249 trước Công nguyên bởi hoàng đế Ashoka của Ấn Độ, người đã giúp truyền bá Phật giáo trên khắp châu Á.

Sau đó nơi này bị lãng quên, địa điểm đã được tái phát hiện vào năm 1896 và tái thành lập như là một trung tâm tôn thờ Maya Devi, mà bây giờ là một di sản thế giới.

Quan ngại về sự mài mòn từ khách viếng thăm, UNESCO, cùng với các quan chức Nhật Bản và Nepal, đã hỗ trợ Coningham và các đồng nghiệp chứng minh điều kiện tại Lâm Tỳ Ninghiên cứu lịch sử bên dưới các lớp cấu trúc gạch còn sót lại từ thời đại vua Ashoka.

Nghiên cứu này cũng đã được hỗ trợ bởi Hiệp hội Địa lý Quốc gia.

"Chúng tôi đã tiếp cận địa điểm theo cách mà có thể sẽ không thể nào lặp lại ở các thế hệ sau", Coningham nói. "Vì lý do đó, chúng tôi thực hiện công việc hoàn toàn cởi mở và minh bạch đối với khách hành hương. Họ cũng được trải nghiệm khi xem chúng tôi làm việc".

Nơi thờ cây cổ

Khi đào bên dưới một ngôi chùa trung tâm, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một lan can bằng gỗ xung quanh một ngôi chùa thờ một cái cây và có niên đại khoảng 550 trước Công nguyên, Coningham nói. Họ cũng tìm thấy một cấu trúc bằng gạch cũ.

"Sự thờ phượng cây, thường ở bàn thờ đơn giản, là một yếu tố phổ biến của các tôn giáo cổ xưa của Ấn Độ, và có sự trùng lắp giữa các nghi lễ Phật giáotín ngưỡng truyền thống từ trước, nó cũng có thể là những gì đang mô tảđại diện cho một ngôi chùa cây cổ hoàn toàn không có liên quan gì đến sự thờ phượng Đức Phật lịch sử", Julia Shaw - giảng viên khoa khảo cổ học Nam Á tại Đại học London nói.

Trung tâm của ngôi chùa đã bị tốc mái, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy rễ cây bị khoáng hóa, bao quanh bởi tầng đất sét bị mài mòn bởi khách hành hương. Đây có khả năng là một bodhigara cổ xưa (nơi thờ cây).

Rễ cây dường như đã được chăm bón, và mặc dù bodhigara được tìm thấy trong truyền thống cổ Ấn Độ, nhưng ngôi chùa này thiếu vắng những dấu hiệu của sự tế sinh hoặc các nghi thức được tìm thấy tại các điạ điểm đó.

"Điều đó rất rõ ràng, trên thực tế, chỉ ra rằng truyền thống Phật giáobất bạo động và không hiến cúng", Coningham nói.

Nhóm nghiên cứu tập trung vào việc xác định tuổi của ngôi chùa bằng carbon phóng xạ từ gỗ nơi gốc cây và kích thích quang học, một phương pháp giúp tiết lộ thời gian phân hủy phóng xạ của các nguyên tố trong đất khi lần cuối cùnghiện hữu trên bề mặt.

Nhìn chung, Coningham lập luận, cuộc khai quật tại địa điểm đã cho thấy nơi đây việc canh tác đã được bắt đầu từ khoảng năm 1.000 trước Công nguyên, tiếp theo là sự phát triển của một cộng đồng tu viện giống như Phật giáo thuộc thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên.

Các lưu ý khoa học

"Bằng chứng mới từ dự án này cho thấy hoạt động nghi lễ này đã diễn ra trong nhiều thế kỷ trước vua Ashoka và điều này thực sự có ý nghĩa và thú vị", Young nói.

Julia Shaw, giảng viên khoa khảo cổ học Nam Á tại Đại học London, cho rằng tuyên bố về lan can bằng gỗ xung quanh một ngôi chùa thờ cây có thể thuyết phục nhưng lại có tính chất suy đoán.

Bà rất thận trọng trong tuyên bố về địa điểm tâm linh lâu đời nhất này.

"Sự thờ phượng cây, thường ở bàn thờ đơn giản, là một yếu tố phổ biến của các tôn giáo cổ xưa của Ấn Độ, và có sự trùng lắp giữa các nghi lễ Phật giáotín ngưỡng truyền thống từ trước, nó cũng có thể là những gì đang mô tảđại diện cho một ngôi chùa cây cổ hoàn toàn không có liên quan gì đến sự thờ phượng Đức Phật lịch sử ", Shaw nói.

"Tuy nhiên, nó không thực sự giới thiệu về một vài hiểu biết mới về khảo cổ nghi lễ Ấn Độ nói chung", bà cho biết thêm.

Coningham gọi đây là cơ hội để nghiên cứu địa điểm trên và đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn Lâm Tỳ Ni, đặc biệt là do sự phổ biến ngày càng tăng của nó như là một địa điểm hành hương. Đến năm 2020, hơn bốn triệu người hành hương dự kiến ​​sẽ đến thăm.

"Luôn có sự tấp nập đáng ngạc nhiên, những người cầu nguyện và thiền định", Coningham nói. "Đó là một thách thức và thú vị, khi làm việc trên một địa điểm tôn giáo sống động".

Văn Công Hưng (Theo Hiệp hội Địa lý Quốc gia Mỹ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 60)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 222)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 187)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 795)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 798)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 792)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 681)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 803)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1042)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1086)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1083)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1230)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1940)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1316)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1041)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1237)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant