Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trạch Pháp

01 Tháng Hai 201400:00(Xem: 12260)
Trạch Pháp

sakya-muni-2aTừ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường. Do vậy, trong khóa tu Gieo Duyên cuối năm 2013 tại Tự Viện Pháp Bảo, Sydney, chúng tôi trong Ban Giáo Thọ phụ trách giảng giải chủ đề này trong ba buổi học để học viên nắm vững được đầy đủ hơn, ngõ hầu vui thích học pháp và như vậy mới dễ dàng cho việc ứng dụng giáo pháp vào đời sống thường nhật. Trạch pháp - chọn pháp – nói đủ là trạch pháp giác phần hay pháp giác ý. Dùng trí tuệ lựa chọn, phân biệt đúng sai, thật giả của các pháp để chọn chân bỏ giả thẳng hướng tới Bồ Đề, là một trong bảy pháp giác chi như lời Phật dạy.

Còn ở đời người ta đa phần dựa vào quyền lực của kẻ mạnh để chọn chức tước, địa vị, dựa thân thế trong việc thăng quan tiến chức, dùng mưu kế sắp đặt, toan tính việc gì có lợi cho bản thân, nghĩ ra nhiều mánh mung vặt vãnh để mong thủ lợi cho mình. Đem tiền bạc làm mồi cho thiên hạ muốn lợi dụng, theo hùa về số đông đe dọa hoặc hiếp đáp kẻ yếu kém, thế cô… đều là những sự chọn lựa bất xứng, trước sau gì rồi cũng bị lộ diện trước ánh sáng của công lý. Cũng như mọi người, cuộc sống chúng ta cần phải có một nhu cầu tối thiểu như ăn uống, là cả một vấn đề không đơn giản chút nào cả. Thế giới đã trải qua hai cuộc đại chiến thứ nhất và thứ hai chung qui cũng chỉ vì con người tranh giành nhau về nguồn lợi kinh tế; đồ mặc cũng không phải không phức tạp do nhu cầu của ta muốn đẹp không chưa đủ mà còn muốn sang trọng nữa mới hài lòng. Nội việc làm thoả mãn cái đẹp, cái sang này mà chúng ta đã đoạt mất sự sống của loài vật khác không thương tiếc, có nhiều khi trực tiếp phá hoại môi trường thiên nhiên trong việc cung cấp nhu liệu sản phẩm qua đơn đặt hàng hàng loạt. Về chỗ ở cũng là điều đáng quan tâm hàng đầu, một khi nhu cầu càng cao thì chi tiêu càng lớn; và cứ như thế ta lo chạy đua hụt hơi mà vẫn chưa chịu dừng lại. Cho tới một lúc nào đó mệt mỏi rã rời bất chợt nhận ra việc đã quá trớn ta không còn hãm đà được nữa, và rồi mọi ảnh hưởng liên đới vô cùng tệ hại không tìm ra lối thoát. Còn về phương tiện của cuộc sống cũng phải biết cân nhắc cẩn thận, tính toán đủ cách mới phần nào tránh bớt phương hại cho mọi người và mọi loài. Nói chung sống trên đời ta phải chọn đúng ngành nghề để theo đuổi cho tay nghề được điêu luyện tinh vi. Ngay từ khi còn học trung học, ta cũng đã chọn ngành học thích hợp ở bậc đại học mới kịp chuẩn bị hành trang vào tương lai, hầu khỏi ngỡ ngàng và lúng túng khó giải quyết. Cũng như về sở thích không ai giống ai, đó đều do mỗi người chọn lựa theo đuổi tới cùng mới thoả mãn được hoài mong. Và phần năng khiếu tức là tài chuyên môn về một khía cạnh đặc biệt nào đó cũng làm cho ta xứng đáng góp mặt với đời, nếu biết triển khai đúng mức.

Nói về pháp để chọn có rất nhiều không thể tính hết được, miễn sao chọn pháp hợp với căn cơ trình độ, hoàn cảnh vai trò trong xã hội v.v… cũng như ta chọn thức ăn rồi mua về chế biến sao cho thích hợp khẩu vị để mình thưởng thức hay đãi khách khứa, bạn bè. Chọn đề cập ở đây khác với lựa, vì chưa thấy rõ hoặc hình dung cụ thể, trong khi lựa chọn món đồ vừa ý, mắt ta đã nhìn thấy tận tường nên chăm chú cố nhặt lấy món mình thích. Chẳng hạn chọn ngành học, chọn nghề nghiệp là những gì chưa rõ ràng cụ thể, nhưng khi đã cương quyết ta phải dốc lòng theo đuổi cho tới lúc đạt đến thành công. Muốn được vậy, ta cần phải gia tâm bền chí và nỗ lực tinh tấn không ngừng để cho thấy việc mình làm đúng. Xin đơn cử một việc nhỏ như chuyến du lịch, ta biết tấm vé thuộc hạng nào và số chỗ ngồi đã qui định. Nên một cách tự nhiên hành khách đặt mình vào đúng vị trí để không tạo bất ổn, làm mất trật tựphiền lòng người khác. Trong trường hợp này, ta cũng biết lường trước khả năng có thể mua vé hạng nhất, business hay hạng economy… đó cũng là cách chọn thích hợp hoàn cảnhđiều kiện.

Trong đạo cần phải chọn đúng pháp môn tu như Thiền, Tịnh Độ, Mật Tông, Kim cang v.v… hầu chuyên tâm sâu vào mỗi pháp mới đạt đến kết quả mong muốn. Nói rộng hơn như chọn Thầy, chọn bạn, chọn vị trí thích hợp hạ lạp, chọn người trụ trì, thế hệ kế thừa ngôi chùa, giảng sư, bài giảng, học viện, địa danh v.v… như chuyên về pháp môn Thiền phải nhắm tới thiền chỉ hay thiền quán. Thiền chỉ là pháp quán theo dõi hơi thở ra vào để dừng dứt tâm dao động, bất an phần nhiều của người mới nhập môn; thiền quán tức là tĩnh tâm tư duy, quán chiếu chân lý. Lục Tổ Huệ Năng giải thích thiền đinh như sau: “Ngoài lìa tướng là thiền, trong không loạn là định” (Từ điển Thiền Tông Hán Việt do Hân Mẫn và Thông Thiền dịch). Cốt tủy của Thiền như sơ tổ Thiền Tông Trung Hoa, Ngài Bồ Đề Đạt Ma có lưu xuất bài kệ:

Bất lập văn tự

Giáo ngoại biệt truyền

Trực chỉ nhân tâm

Kiến tánh thành Phật.

Dịch

Không lập văn tự (chữ nghĩa)

Truyền ngoài giáo pháp

Chỉ thẳng tâm người

Thấy tánh thành Phật.

Nói chung hành giả biết thích nghi với hoàn cảnh mà ứng xử để được lợi mình và người. Chẳng hạn, đến tham dự một cuộc đại lễ có mời số đông chư Tăng, ta nên tự biết mình bao nhiêu tuổi hạ để nhường chỗ cho vị có tuổi hạ cao hơn ngồi hay đi trước mình. Việc này không có tính cách bắt buộc mà do tự giác theo qui cách thiền môn, vị Tăng phải có đức tự trọng để được người khác nể trọng. Đây là một hình ảnh đẹp vô cùng mà chỉ có hàng xuất gia chân chánh của Đức Phật mới giữ được mà thôi. Nói xuất gia chân chánh là người tu có bậc Thầy đức độ dẫn dắt, cùng chúng tu học giữ đúng pháp hòa kính, như nước với sữa hòa hợp với nhau, không tranh cải lớn tiếng, không tụ tập bàn luận việc vô ích. Ở trong chúng cùng nhau chia xẻ sự học hỏi cũng như hiểu biết và cao trọng hơn cả là cùng giữ gìn giới luật, dù không cùng cha mẹ, nhưng chung Thầy và cùng tôn thờ một lý tưởng nên dễ thông cảm nhau chẳng khác gì anh em ruột thịt một nhà. Ngày xưa, hồi Phật còn tại thế, nếp sống Tăng đoàn rất đẹp và hòa hợp nhờ ân đức của đức Từ Phụ qua sự giáo huấn ân cần của Ngài. Sự giáo dục của Đức Phật cảm hóa đệ tử qua ba khía cạnh thân, khẩu, ý. Thân tướng Phật trang nghiêm, giới đức thanh tịnh, đi khất thực mỗi ngày, đi chân trần ngày ăn một bửa… là những hình ảnh rất thực, gần gũi, thân thương dễ cảm hóa người khác nên chúng xuất gia được nhiều lợi lạc. Lời nói nhu hòa, nói lời từ ái, lời nói chân thật, lời nói lợi lạc của Phật cảm hóa được nhiều người trong đó có hàng Vua quan như Vua Tần Bà Sa La, A Xà Thế, hoàng hậu Vi Đề Hy, ông trưởng giả Cấp Cô Độc… quy y theo Phật để trở thành đệ tử của Tam Bảo hết lòng hộ trì chánh pháp.

Còn về ý giáo chỉ những đệ tửcơ duyên được Phật ấn chứng, nối truyền chánh pháp Như Lai qua câu chuyện ấn tâm cho Ngài Ma ha Ca Diếp, như chúng ta đã biết nơi pháp hội Linh Sơn với số chúng đông vầy, Phật giơ cành hoa sen ra giữa mọi người mà không ai hiểu ý gì cả. Trong khi đó, Ngài Ca Diếp mĩm cười do lãnh hội được ý của Phật, nên được đức Phật truyền tâm ấn qua bài kệ:

Ta có chánh pháp nhãn tạng

Niết Bàn diệu tâm: thật tướng vô tướng

Nay phó chúc cho ngươi

Ngươi khéo gia tâm gìn giữ lưu truyền.

Qua lịch sử truyền bá đạo Phật, sự chọn pháp đúng người, giao đúng việc chỉ đức Phật có đầy đủ cái nhìn trạch pháp như ta đã biết qua các vị Tổ như Ma ha Ca Diếp sơ Tổ Thiền Tông, là bậc tu hạnh đầu đà (khổ hạnh) đệ nhất, Tổ đệ nhị Ngài A Nan, đa văn đệ nhất, Tổ Thương Na Hòa Tu… mỗi vị đều có một hạnh đặc biệt. Ngay cả trong số 10 đệ tử lớn của Phật như các Ngài Ưu Ba Ly, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Na Luật, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề, A NanLa Hầu La là những vị trực tiếp lãnh trách vụ tuyên dương giáo pháp của Phật theo sở trường và chỗ tu chứng, nên công việc truyền giáo vô cùng thuận duyên, lợi lạc đối với nhân sinh xã hội từ Ấn Độ sang các nước Đông Nam Á. Vào thế kỷ thứ 20, đạo Phật đã truyền bá sang các nước Tây Phương, nên ngày nay toàn thể nhân loại đều biết qua Phật Giáo hay nghiên cứu giáo lý đạo Phật. Đó cũng nhờ chư Tổ, những nhà học giả Phật Giáo đã đặt địa bàn đúng hướng và tầm nhìn nhất quán với con mắt trạch pháp tinh tế như vậy.

Trong thời đại văn minh khoa học vật chất của thế kỷ 21 này, có thể nói do con người sai lầm tạo nên đã và sẽ đưa nhân loại vào vòng thống khổ như sự ô nhiễm môi sinh, bầu khí quyển nên xảy ra nhiều biến cố thiên tai như bão lụt, sóng thần, động đất, núi lửa… cướp đi hàng triệu mạng người tại Phi Luật Tân, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ trong những tháng cuối năm 2013 vừa qua, là những hình ảnh kinh hoàng đáng nhớ. Những cuộc chiến ủy nhiệm do Hoa Kỳ chủ trương tại Iran, Afghanistan và quân đội các nước đồng minh tham chiến, đang bị sa lầy không lối thoát, đều do sách lược sai lầm, chủ quan và không tự chế, nên đã hy sinh không biết bao nhiêu mạng sống, tài nguyên và tiền của cho tham vọng của các nước tư bản. Theo đà tiến bộ nhanh đến độ chóng mặt hôm nay, chúng ta đang chờ xem một ngày kia nhân loại càng lầm than, khổ sở hơn lên gấp bội. Những thiên tai, hoạn họa, chiến tranh, dịch bệnh, ung thư… ngày càng lan tràn với sức tàn phá mãnh liệt những con người trên mặt đất này. Hậu quả của những tác hại kinh khủng đó không từ trên trời rơi xuống, cũng không do ai khác xúi sử mà một phần lớn mỗi người chúng ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Vấn đềcon người hôm nay mãi chạy đua theo mode thời trang, làm giàu trên sức cần lao của kẻ khác nên đã trực tiếp làm hỏng môi trường sinh thái. Vậy đã đến lúc chúng ta phải gióng lên hồi chuông báo động để ngăn chặn, sửa sai sự lạm dụng phương tiện sống dồi dào, rồi đi quá đà không kềm hãm lại được mà làm cạn kiệt tài nguyên, bào mòn sự sống của mọi loài không biết thương tiếc.

Thế giới đang chủ trương hòa bình trong khi tự thân mỗi người lại nuôi mầm thù hận, âm mưu chiếm đoạt của kẻ khác, nên mầm chiến tranh cứ mãi âm ỉ khó mong chấm dứt tận gốc.

Kinh Lục Độ Tập quyển 1, bài số 10 nêu dẫn câu chuyện xưa: Bồ Tát làm vị quốc vương tên là Trường Thọ, thái tử tên là Trường Sanh. Nhà vua nhân từ, luôn thương xót chúng sanh và luôn tinh tấn hành thiện. Dao gậy không dùng đến, nhân dân mến mộ, thời tiết điều hòa, lúa thóc được mùa.

Tiểu vương nước láng giềng rất bạo ngược, tham tàn nên dân nghèo, nước yếu kém. Nhà vua nước ấy bảo quần thần:

Ta nghe vua Trường Thọ giàu có, lại có lòng nhân không giết hại, không có quân đội phòng thủ, lại không xa, ta muốn chiếm lấy nước đó, được chăng?

- Quần thần tâu: Được.

Vua liền khởi binh kéo đến biên giới nước lớn. Quan giữ cửa thành vội tâu rõ tình trạng xin gấp rút tìm cách phòng thủ. Vua Trường Thọ họp quần thần, bảo rằng:

- Vua kia đến đây chỉ vì tham nước ta dân đông, nhiều của báu. Nếu giao tranh với họ ắt hẳn sát hại nhiều người. Vì lợi mình mà tàn hại dân, tham lam mà bất nhân, việc ấy ta không làm.

Quần thần đều tâu: - Chúng thần từ lâu đã học tập quân mưu, binh pháp, xin được đem binh đánh diệt bọn chúng, không nhọc thánh quân lo nghĩ.

Vua Trường Thọ nói:

- Ta thắng thì chúng chết, còn ta thua thời ta tiêu tan. Dù binh lính của họ hay

nhân dân của ta đều do trời sinh dưỡng. Trọng thân tiếc mạng, ai mà chẳng vậy. Nhưng để toàn thân mình, mà hại muôn dân thì người hiền không làm.

Quần thần đồng thanh đứng dậy cùng nói:

- Đây là bậc vua trời nhân đức, không thể để mất nước, phải cùng chung nhau kiểm điểm binh mã đem ra chống giặc.

Vua Trường Thọ biết rõ việc ấy nên gọi Thái Tử bảo:

- Vua kia tham nước ta muốn tới chiếm lấy, quần thần vì thân ta chỉ một người mà muốn hại mạng muôn dân. Nên ta giao nước để bảo toàn mạng sống cho dân trời, việc ấy nên chăng?

Thái Tử tâu: xin vâng theo phụ vương!

Thế rồi cha con vượt thành ra đi, thay tên đổi họ, ẩn cư nơi non sâu rừng vắng.

Vua tham kia tự do vào thành, rồi treo giải thưởng là 1000 lạng vàng cho ai bắt được vua cũ. Còn về vua Trường Thọ ra đi, ngồi thiền định dưới gốc cây nơi hoang vắng nghĩ thương chúng sanh lăn lộn cực khổ theo dòng sống chết, không thấy vô thường, khổ, không, vô ngã, vì bị tham dục mê hoặc, khổ càng tăng lên gấp bội.

Có người Phạm Chí từ xa, nghe vua Trường Thọ thích bố thí, cứu giúp kẻ nghèo, cứu mạng sống của chúng sinh, ông tìm đến cũng dừng nghỉ bên gốc cây

này. Đôi bên hỏi thăm nhau, mỗi người kể rõ hoàn cảnh của mình. Vị Phạm Chí kinh ngạc nói:

Thiên Vương làm sao ra nông nỗi này? Rồi rơi nước mắt tự than thở:

- Nhưng năm tàn của đời tôi không còn bao lâu nữa, nên tôi định đến xin Ngài tiếp sức cho cái mạng thừa này. Nhưng đại vương đã mất nước thời mạng tôi cũng tàn rồi! Vừa nói ông vừa than khóc.

Vua nói:

- Ông nghèo khó, từ xa tìm đến, lại gặp lúc ta mất nước, không có gì giúp ông được, thật ta vô cùng đau xót; Và nói tiếp:

- Ta nghe vua mới đang treo giá bắt ta rất hậu, vậy ông hãy lấy đầu ta đem đến đó để được trọng thưởng.

Phạm Chí không dám nhận lời đề nghị. Nhà vua phân tích: thân này là đồ mục nát, không giữ được lâu. Có sinh ắt có tử, không ai trường tồn được đâu. Nếu ông không lấy rốt cuộc nó cũng thành tro bụi mà thôi. Thế rồi Phạm Chí dắt vua đi… Đến cửa thành cũ, vua bảo Phạm Chí trói mình lại nạp cho vua tham kia. Người trong nước thấy vua như vậy, thương xót, kêu gào thảm thiết. Người Phạm Chí nhận thưởng. Vua mới ra lịnh đem vua Trường Thọ đến ngã tư đường thiêu sống. Biết được tin ấy dân chúng thương xót kéo nhau tới hiện trường vật vả kêu cầu gào khóc. Thái Tử Trường

Sanh giả làm người bán củi tới đứng trước mặt cha. Vua thấy con liền ngửa mặt lên trời nói:

- Nếu trái lời cha dặn, chất chứa hung độc, lòng mang oán hận thời chuốc họa muôn đời, không phải là người con hiếu. Ta vì theo đạo mà tự giết thân mình để cứu giúp chúng sanh, còn sợ là không tròn chút hạnh của đạo hiếu, huống lại làm chuyện ngỗ ngược báo thù sao? Vâng lời ta dạy mới là hiếu vậy.

Thái Tử đau lòng không nở nhìn cha chết nên liền trở về núi sâu. Nhà vua mạng chung, Thái Tử khóc thương vật vả nói:

- Vua cha của ta tuy lúc lâm chung đã có lời dạy hết mực nhân từ, nhưng chắc ta phải trái lời dạy đó, phải diệt trừ loài thú dữ độc hại kia,

Sau khi rời núi Thái Tử tìm chỗ thuê mướn mình làm người trồng rau cho một vị quan. Công việc vườn tược rất tốt. Một hôm vị quan gọi người làm vườn đến hỏi:

- Người còn có khả năng gì nữa? Người kia đáp:

- Khéo cả trăm nghề, tôi đều đứng đầu.

Vị quan mời vua tham kia đến và bảo anh ta nấu ăn dâng lên vua thưởng thức. Vua phát hiện được tài năng của anh, liền hỏi vị quan. Vị quan đem hoàn cảnh hiện tại của anh thưa lên. Vua bèn nhận anh về làm quan ngự thiện (coi việc bếp

núc) rất được tin tưởng. Dần dần Thái Tử Trường Sanh được vua tham cất nhắc lên chức quan cận thần, bảo:

- Con của vua Trường Thọ là kẻ trọng thù với ta, nay ta dùng ngươi làm quan cận vệ.

Thái tử chấp thuận ngay. Một hôm, vua cùng Thái Tử đi săn, Vì rượt đuổi theo con mồi, vua lạc đường chỉ còn lại Trường Sanh bên cạnh. Họ ở trong núi đến ba ngày đói khát, khốn khổ vua bèn tháo kiếm trao cho Trường Sanh, rồi gối đầu lên đùi Thái Tử mà ngủ. Trường Sanh nói:

- Nay ta đã được người mà không giết ư?

Liền rút kiếm muốn chém đầu vua tham, song chợt nhớ lại lời cha dặn: “Trái lời dạy của ta là bất hiếu”, nên dừng lại tra kiếm vào võ. Vua tham tỉnh giấc nói:

- Ta vừa mơ thấy Trường Sanh muốn chém đầu ta. Phải làm sao đây?

Thái Tử đáp: - Núi có quỹ dữ, vui thích việc nung nấu, nhưng có thần bên cạnh, còn lo sợ gì nữa.

Thế là vua ngủ tiếp. Sự việc như trên lại tái diễn đến lần thứ ba, Thái tử liền ném kiếm, nói:

- Ta vì cha ta nhân từtha mạng cho người đó ! Vua tỉnh dậy nói:

Ta mơ thấy Thái tử Trường Sanh đã tha mạng cho ta rồi.

Thái Tử nói rằng, Trường Sanh chính

là tôi đây! Nhớ cha nên đã theo đuổi kẻ thù đến hôm nay! Cha tôi đến lúc chết mà miệng vẫn còn dạy tôi lời nhân từ, tôi tuân theo đạo lý nhẫn nhục, đem thiện trả ác của chư Phật. Nhưng tâm tánh tôi ngu muội, muốn đem hai thứ độc ấy để lẫn vào nhau, ba lần nghĩ tới lời dạy của Cha thì ba lần đều buông kiếm. Vậy xin đại vương hãy giết tôi đi để trừ hậu hoạn. Thân chết, hồn lìa thời ý ác không còn nữa.

Quá đổi xúc động, vua tham hối lỗi, nói:

- Ta làm việc bạo ngược không phân biệt thiện ác, tiên vương của ngươi hạnh cao khiết, thà mất nước chứ không mất hạnh, đáng gọi là bậc thượng Thánh. Ngẫm lại mình, ta là giống sài lang, tàn hại sinh linh để đuợc thỏa mãn lòng tham. Nay mạng sống của ta ở trong tay ngươi, mà ngươi tha không giết, sau này há dám làm trái đạo nữa sao! Tỉnh thần, vua muốn tìm đường trở về nước.

Lúc đó, Trường Sanh mới cho hay, việc lạc đường này đều do mình sắp đặt. Rồi Thái Tử đưa vua ra khỏi rừng, gặp lại các quan tùy tùng. Vua hỏi:

Các ông có biết Thái Tử Trường Sanh không? Họ đáp: Không. Vua chỉ người này là Thái tử Trường Sanh, nay sẽ trở về nước, còn ta sẽ trở lại nước cũ. Từ nay kết làm anh em, họa phúc có nhau.

Ngày Thái Tử Trường Sanh lên làm vua, cả nước vừa vui vừa buồn, mọi người đều hết lời chúc tụng. Vua tham trở về nước mình, nối lại việc triều cống

như xưa, nên đất nước được thái hòa, nhân dân an lạc. (Kinh Bản Duyên tập 10, Linh Sơn Pháp Bảo Đài Bắc ấn hành năm 2000 dịch từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh).

Xem như thế để thấy do đâu mà trận chiến đẫm máu không xảy ra giữa hai nước? Mối thù truyền kiếp giữa hai nhân vật hàng đầu lãnh đạo đất nước được mở trói không oán kết?

Sự quyết định tối hậu do đức vua nhân từ đức độ chọn giao đất nước cho kẻ xâm lăng, không làm tổn hại một mảy may vật lực, tài sản quốc gia, lại cứu sống được cho hàng vạn dân lành khỏi lâm cảnh máu đổ đầu rơi trong cuộc chinh chiến, dù được che đậy dưới bất cứ chiêu bài, nhãn hiệu hay sách lược nào của kẻ thắng cuộc. Thật quả, khuôn nào đúc ra mẫu đó, vua Trường Thọ chết đi mà gương lành vẫn còn sáng ngời soi rạng cổ kim; Thái tử Trường Sanh xứng đáng là người con hiếu thảo, vâng lờihiểu biết. Nếu không nhờ ảnh hưởng đức hiếu sinh và độ lượng của cha, làm sao thái tử có đủ tâm từ tha cho kẻ thù đã lọt vào tay mình, vẫn đủ sáng suốt chọn cách tốt nhất để dứt mối họa không còn di hại về sau, bằng cách tha mạng cho kẻ thế cô, lực cùng. Nhờ đức độ của nhà vua và Thái Tửcảm hóa được vị vua tham theo về chánh đạo. Ôi, cao đẹp biết bao! Thánh Thiện dường nào! Văn chương, ngôn từ hay bút mực nào có đủ diễn đạt cho được hạnh đức của tiền nhân.

Đệ tử của Phật, tại giaxuất gia nguyện tinh tấn tu tập, phát Bồ Đề Tâm, hành Bồ Tát đạo nhiệt thành chọn pháp thích hợp, lợi lạc, không chọn pháp chỉ có lợi cho mình mà làm phương hại cho người khác và mọi loài chúng sanh. Chỉ như thế, ta mới chứng tỏ thực hành đúng như pháp.

Sydney, ngày 7 tháng 1 năm 2014

Sa môn Thích Bảo Lạc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2008)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3003)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2620)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3525)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3344)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4190)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3699)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4259)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2344)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3491)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4180)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3956)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2893)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3362)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3504)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4560)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3894)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4782)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4054)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3039)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3792)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3935)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3105)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3626)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4462)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3737)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2269)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2630)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3031)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2731)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4600)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4933)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2839)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5292)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2859)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3303)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4387)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4954)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4717)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3257)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4563)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4292)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6156)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3514)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4033)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6024)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5422)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4068)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33133)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3182)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4159)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4741)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3097)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3818)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3558)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6560)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2774)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3232)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4590)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3461)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant